You are on page 1of 22

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA CƠ KHÍ
BỘ MÔN KỸ THUẬT HỆ THỐNG CÔNG NGHIỆP

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN


NHÂN LỰC NGÀNH KỸ THUẬT HỆ THỐNG CÔNG NGHIỆP
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH HIỆN NAY
Lớp: CK18HT01
GVHD: TS Đào Thị Bích Hồng
Nhóm: 13
Họ và tên MSSV
Lê Thị Thúy Quyên
Lê Thị Tú Quyên
Nguyễn Thu Phương
Phạm Thị Quỳnh
Trương Thị Như Quỳnh

Học kỳ 202 (2020-2021)

i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA CƠ KHÍ
BỘ MÔN KỸ THUẬT HỆ THỐNG CÔNG NGHIỆP

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN


NHÂN LỰC NGÀNH KỸ THUẬT HỆ THỐNG CÔNG NGHIỆP
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH HIỆN NAY
Lớp: CK18HT01
GVHD: TS Đào Thị Bích Hồng
Nhóm: 13
Họ và tên MSSV
Lê Thị Thúy Quyên
Lê Thị Tú Quyên
Nguyễn Thu Phương
Phạm Thị Quỳnh
Trương Thị Như Quỳnh

Học kỳ 201 (2020-2021)

i
MỤC LỤC

DANH SÁCH HÌNH ẢNH......................................................................................................iii

DANH SÁCH BẢNG BIỂU....................................................................................................iv

LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................v

CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.............................1

1.1 Quan điểm 1.................................................................................................................1

1.1.1 Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa..................................................................2

1.1.2 Công nhiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức..........................3

1.1.3 CNH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường.........................................................4

1.2 Quan điểm 2.................................................................................................................6

1.3 Quan điểm 3.................................................................................................................7

1.4 Quan điểm 4...............................................................................................................10

1.5 Quan điểm 5...............................................................................................................11

1.5.1 Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng
xã hội là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa......................12

1.5.2 Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng
xã hội gắn với phát triển bền vững:..................................................................................14

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................16

ii
DANH SÁCH HÌNH ẢNH

No table of figures entries found.

iii
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
No table of figures entries found.

iv
LỜI CẢM ƠN

Lời cảm ơn đầu tiên nhóm chúng em xin gửi đến cô Đào Thị Bích Hồng– giảng viên
môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã truyền dạy cho chúng
em rất nhiều những kiến thức,kỹ năng để chúng em có thể hoàn thiện bài tập này. Kính
chúc cô dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và thành công trên con đường giảng dạy.
Cảm ơn các bạn cùng lớp đã giúp đỡ nhóm trong quá trình hoàn thành bài báo cáo này.
Trong quá trình thực hiện bài tập, dù đã rất nỗ lực nhưng vẫn không thể tránh khỏi sai
sót. Nhóm mong rằng nhận được thêm góp ý từ cô và các bạn để nhóm rút kinh
nghiệm và hoàn thành tốt hơn những bài tập tiếp theo.

Tp HCM, ngày 23 tháng 3 năm 2021

Sinh viên thực hiện

Nhóm 13

v
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC
TẾ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

1.1 Quan điểm 1

Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nhiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội
XII khẳng định, sau 30 năm đổi mới, quá trình CNH, HĐH đất nước ngày càng được
đẩy mạnh và đạt được những thành tựu quan trọng:
- Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng
hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong giá trị sản xuất công
nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần, cơ cấu xuất khẩu chuyển
dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến; nông nghiệp phát
triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới; ứng dụng khoa học - công nghệ và mức độ cơ giới hóa được nâng
lên; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ.
- Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực, quá trình đô thị hóa diễn ra khá
nhanh.
- Cơ cấu kinh tế theo ngành dần chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành
nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, xây
dựng.
Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH đất nước trong những năm qua còn nhiều hạn chế,
kết quả chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đạt mục tiêu đã hoạch định. Cụ thể là:
- Thực hiện CNH, HĐH còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quy
hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ chưa có
định hướng chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu tính kết nối. Phát triển đô
thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới còn chậm.

1
- Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng
với chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Vì thế, nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu
phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại không đạt được. Trên thực tế, 10/15 tiêu chí của nước ta chỉ đạt
mức tương đối thấp.
- Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song
nguyên nhân chủ yếu là do: “
 Thể chế hóa và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ.
Chưa có đột phá về thể chế để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Chưa xác định rõ những
ngành, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên trong chính sách công
nghiệp quốc gia cho từng giai đoạn; thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa
CNH, HĐH với đô thị hóa, giữa phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn với xây dựng nông thôn mới.
 Chưa chuẩn bị thật tốt các điều kiện cần thiết và tận dụng thời cơ để hội
nhập quốc tế có hiệu quả; có lúc, có việc chưa gắn chặt với đẩy mạnh
CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

1.1.1 Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa

Công nghiệp hóa là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện hoạt động sản xuất
kinh doanh dịch vụ và quản lí xã hội từ lao động thủ công sang sử dung phổ biến sức
lao động dựa trên sự phát triển của công nghiệp cơ khí.
Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất , kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế
xã hội.
Hiện đại hóa là cái đich cuối cùng mà công nghiệp hóa hướng tới. Hơn thế việc tiến
hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa còn giúp Việt Nam đạt được mục tiêu đề
ra là năm 2020 đưa đất nước trở thành nước công nghiệp, thoát khỏi tình trạng kém
phát triển.
Ngoài ra, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa không phải là đặc điểm riêng của
Việt Nam mà là điểm chung với các nước đang phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó,

2
xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng
như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến
hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát
triển kết hợp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

1.1.2 Công nhiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Để thực hiện mục tiêu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ở mỗi thời kỳ phải đạt được
những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.

Vậy kinh tế tri thức là gì? Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đƣa ra định
nghĩa : Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to
lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới
của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học, công nghệ cao.

Vậy tại sao nước ta phải tiến hành ông nghiệp hóa hắn liền với phát triển kinh tế tri
thức:

- Thứ nhất, nước ta cần sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu, rút ngắn khoảng cách
với các nước trên thế giới. Trong quá trình CNH – HĐH, nước ta có thuận lợi
cơ bản là nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những
nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này.
- Thứ hai, tiến hành CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là giải pháp
bắt buộc để tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH hiện thực.
- Thứ ba, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn.

3
- Thứ tư, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức do tác động nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội.

Chính vì thế, Đại hội XII xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công
nghiệp hóa, hiện đạihóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công
nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu” (3). Như vậy,
Đại hội XII đã cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020
đã đề ra tại Đại hội XI.

Ở đây, việc nhận thức quá trình phát triển đất nước không chỉ đơn thuần là tiến hành
CNH, mà phải là CNH đi đôi với HĐH, phải đẩy mạnh việc gắn kết chặt chẽ CNH,
HĐH với phát triển kinh tế tri thức. Phạm vi tiến hành không chỉ là các ngành kinh tế
quốc dân như quan niệm trước đổi mới, mà nó bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội, tức là CNH, HĐH đất nước trong điều kiện thế giới
đang chuyển mạnh sang phát triển kinh tế tri thức. Sự gắn kết này được xác định là
cấp thiết đối với nước ta không chỉ để vượt qua “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” nhằm sớm trở thành nền kinh tế hiện
đại, mà còn tạo điều kiện vật chất, kỹ thuật và năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, hội nhập quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn. Đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là phương thức xây dựng một nước
công nghiệp trong điều kiện mới của cách mạng khoa học, công nghệ và xu hướng
toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Như vậy, chủ trương của Đại hội XII
cũng chính là sự cụ thể hóa việc thực hiện định hướng Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2011-2020 đã đề ra tại Đại hội XI.

1.1.3 CNH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường

Qúa trình CNH – HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết với môi trường:

- Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ
sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 khu công nghiệp cần
được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước,
không khí đang lan rọng không chí ở các KCN, kh đô thị,mà cả ở những vùng

4
nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm, biến đổi khi hậu và nước biển
dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường, thành quả phát triển của
nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.
- Chỉ tiêu GDP tăng gấp 2,2 lần trong 10 năm (2010-2020) với mức tăng trưởng
công nghiệp hằn năm 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các
KCN và vùng đô thị; việc CNH – HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra
những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi trường.
- Đẩy mạnh tiến trình CNH – HDH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát
triển các lành nghề. Tuy nhiên do sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu
nên phần lớn các làng nghê gây ô nhiễm môi trường.
- CNH – HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010
đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi
trường trong quản lí đô thị. Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường nước
khoảng 3600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục kim loại nặng…

Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41 – NQ/TW ‘’Về
bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước’’ đã
khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát
triển bền vũng trong thời kì đẩy mạnh CNH – HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông
qua Luật bảo vệ môi trường. Tại Đại hoojic Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi
trường được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt với quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa: ‘’ Đưa nội udng ảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư’’. Một điểm mới so với
Đại hoojic X là đưa thêm nội dung ‘’ chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với
môi trường; từng bước pahst triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch’’.

Đảng đã đưa ra một số biện pháp bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải
thiện môi trường tự nhiên:

– Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia. Quan tâm đầu tư vào lĩnh vực môi trường,
khắc phục tình trạng xưống cấp môi trường. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô
nhiễm môi trường; thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc
chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.

5
– Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng – thủy văn, chủ động
phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.

– Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ
môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.

– Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên,
chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.

1.2 Quan điểm 2

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Khác với công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành trong nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, lực lượng làm công nghiệp hóa chỉ có Nhà nước, theo kế
hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải chỉ là việc
của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàncầu hoá kinh tế, chúng ta
phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc
lập, tự chủ về đường lối, chủ trương, chínhsách phát triển kinh tế - xã hội, không lệ
thuộc vào những điều kiện kinh tế -chính trị do người khác áp đặt, đồng thời có tiềm
lực kinh tế đủ mạnh; có mứctích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế…có năng lực
nội sinh về khoa họcvà công nghệ; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng,
tài chính, môitrường.

Ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được
thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của nhà nước, còn thời kỳ đổi mới được
thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền
kinh tế, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bởi vì, khi đầu tư vào lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô thế nào,

6
công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc kỹ càng, hạn chế đầu tư tràn lan, sai
mục đích, kém hiệu quả và lãng phí thất thoát.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của
thế giới… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế
còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều
lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng đƣợc nhanh hơn, hiệu quả hơn.

1.3 Quan điểm 3

Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững.

Phát triển kinh tế - xã hội bền vững là một khái niệm dùng để chỉ tính ổn định của
trạng thái bên trong vốn có của quá trình tăng trưởng kinh tế, là tổng hợp các thuộc
tính cơ bản hay đặc trưng tạo thành bản chất của tăng trưởng kinh tế trong một hoàn
cảnh và một giai đoạn nhất định. Nó bao gồm các yếu tố như chất lượng của nguồn
nhân lực lao động, trình độ kỹ thuật và công nghệ khai thác nguồn nhân lực sẵn có
nhằm tạo nên năng suất lao động cao hơn và nền kinh tế phát triển đem lại phúc lợi xã
hội cao hơn, môi trường được bảo vệ tốt hơn… Chất lượng tăng trưởng kinh tế và tốc
độ tăng trưởng kinh tế là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ qua lại và thống nhất với
nhau.

Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội bền vững thì nguồn lực con người
( nguồn nhân lực ) đóng vai trò quyết định. Nguồn nhân lực, đó chính là toàn bộ
những người lao động đang có khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào quá trình ấy. Phát triển
nguồn lực con người là các hoạt động nhằm tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và
chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thởi

7
bảo đảm sự phát triển của mỗi cá nhân. Phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận hợp
thành quan trọng yếu trong chiến lược phát triển con người.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: chiến lược con người phải
nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân
tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hành động kinh tế, văn hoá xã
hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân.

Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người Việt Nam những năm
qua được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan trọng. Quá trình
cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng trong những thời điểm lịch sử hiểm nghèo, những
tình thế hết sức khó khăn, con người Việt Nam đều rất sáng tạo, năng động và luôn
tìm ra những lối thoát, những đường hướng đi lên làm kinh ngạc cả bạn bè quốc tế.
Lịch sử cũng chứng minh: thời kỳ nào cách mạng biết phát huy mạnh mẽ nhân tố con
người, tạo mọi điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì con người Việt
Nam luôn biết "chuyển bại thành thắng", chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế
trong đó con người là động lực trung tâm. Do đó, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn vấn đề nhân
tố con người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái, với những quan hệ xã hội lành
mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến
lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển”

Kế thừa quan điểm về phát huy nhân tố con người từ các đại hội trước, trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, Đảng ta xác định: tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; con
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo
chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố
con người. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm

8
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được
mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột
phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực
của đất nước trong bối cảnh Việt Nam tích cực, chủ động tham gia hội nhập quốc tế,
với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng quyết liệt và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ.
Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức đòi hỏi nước ta phải nâng cao chất lượng nguồn
lực con người. Đại hội XI đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người ở nhiều chiều
trên cơ sở “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

Để phát triển toàn diện con người, mọi hoạt động của hệ thống giáo dục và đào tạo
cần phải hướng vào việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam có thế giới quan
khoa học, trí tuệ và đạo đức; gắn với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ
công dân, nâng cao trí lực và kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học
tập, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Đảng ta cũng
khẳng định muốn phát huy nhân tố con người cần phải biết đấu tranh chống lại sự suy
thoái, xuống cấp về đạo đức về con người có thể phát triển một cách toàn diện: “Đấu
tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành
vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người.
Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những
mặt hạn chế của con người Việt Nam”.

Với những quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người trong suốt chặng
đường phát triển đất nước đã phát huy hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu to lớn:
Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế cũng ngày càng khởi sắc và trên đà phát triển
ổn định, đời sống của người dân được cải biến rõ nét, con người được tạo điều kiện
phát triển toàn diện, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều
này một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và thể hiện sự quan tâm,
coi con người là vốn quý nhất; chăm lo cho hạnh phúc của con người là tư tưởng

9
xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, là mục tiêu phấn đấu cao
nhất của chế độ ta.
1.4 Quan điểm 4
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi
phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước
ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học,
công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và
bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát
triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng, nguồn nhân lực chất lượng cao, KH&CN và đổi mới sáng tạo
(ĐMST) trở thành yếu tố đầu vào quan trọng nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, là
chìa khóa quyết định tốc độ, chất lượng phát triển của các quốc gia và nền kinh tế. Tại
Việt Nam, vai trò của KH&CN trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Nghị quyết Trung ương 6,
khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW), Kết luận số 50-KL/TW của Ban Bí thư năm 2019
và nhiều văn kiện, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương khóa XII đã tái khẳng
định KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển nguồn nhân lực, KHCN&ĐMST là một trong các đột
phá chiến lược được nhấn mạnh tại các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng khóa
XIII.

Văn kiện Đại hội XII đặt ra nhiệm vụ “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ,
làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Năm năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là thực tiễn nóng hổi rất sinh động, phong phú để

10
chúng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung và làm sâu sắc thêm những bài học kinh nghiệm
đã được đúc rút từ những nhiệm kỳ trước. Dự thảo Văn kiện trình Ðại hội XIII của
Ðảng chứa đựng nhiều điểm mới rất phong phú, toàn diện và sâu sắc, trong đó, các
quan điểm phát triển KH&CN tiếp tục được nhấn mạnh, cụ thể “Tiếp tục quán triệt,
thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Có chiến lược phát triển KH&CN phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện
đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích
ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
Thực tiễn cho thấy, KH&CN đang từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát
triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực KH&CN của đất nước được tăng cường. Khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa
học lý luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối,
chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam. Hiệu quả hoạt động KH&CN được nâng lên,
tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo.
Các biện pháp cần thực hiện khi áp dụng KH-CN vào quá trình CNH-HĐH đất nước:
- Đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế .
- Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kĩ thuật công nhê của các xí nghiệp vừa và
nhỏ, các khu vực tiểu thủ công nghiệp ở thành thị và nông thôn
- Tập trung nỗ lực cải tạo đồng bộ hóa hiện đại hóa có chọn lọc các cơ sở sản
xuất hiện có.
- Chủ động sử dụng có chọn lọc các công nghệ tiên tiến phù hợp với thế mạnh
của đất nước.
1.5 Quan điểm 5
Phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

11
1.1.4 Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa

Ngay tại Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã nhận định: “văn hóa là
một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan tâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị
lãnh tụ - nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc, cũng từng nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường
cho quốc dân đi”. Đến Hội nghị Trung ương 5, Khóa VIII, Đảng ta khẳng định:  “Văn
hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội”. Hội nghị Trung ương 10, Khóa IX tiếp tục phát triển: “Đảm bảo sự
gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn đảng là
then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên
sự phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định để bảo đảm cho
sự phát triển toàn diện bền vững của đất nước”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển”.
Như vậy, xuyên suốt các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự
nghiệp cách mạng có thể khái quát mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa là:
- Văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm - sức
mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát
triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.
- Văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, mục đích tối
cao của phát triển kinh tế - xã hội là nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, công cuộc cách mạng giải phóng con người. Mục tiêu của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, xét cho cùng, chính là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất
cho loài người. Mặt khác, phát triển kinh tế đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ
hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa
chính là “đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

12
Mục tiêu cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh - những kết quả, giá trị to lớn nhất của văn hóa. Cách mạng để giải
phóng con người, để con người có thể tồn tại trong một xã hội ngày càng dân chủ,
công bằng văn minh hơn. Đối với cách mạng nước ta, các giá trị kinh tế trước hết và
tối cao nhất là để phục vụ cho con người đạt được các giá trị văn hóa, nhằm thực hiện
tiến bộ và công bằng.
Công bằng xã hội là một khái niệm rộng bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội sẽ có những định nghĩa riêng. Xét
chung nhất, công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,
công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển... Một số công cụ để “đo” công
bằng xã hội là: Chỉ số phát triển con người (HDI); Hệ số GINI; mức độ nghèo khổ;
mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người...
Tiến bộ xã hội là sự vận động phát triển của xã hội con người từ thấp lên cao; là sự
phát triển của trình độ sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
Mọi quan điểm của Đảng đều khẳng định phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội... Đại hội X của Đảng đã nêu: “Thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu
phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua
phúc lợi xã hội”. Đảng luôn khẳng định, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng
phát triển: Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy,
bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.
Sau 25 năm đổi mới, với những chứng minh trong thực tiễn về sự đúng đắn của con
đường cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, chúng ta cũng đã tổng kết và làm rõ
đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thành tố
định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện rõ nét bởi đặc điểm lớn: phát triển kinh tế
đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

13
1.1.5 Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội gắn với phát triển bền vững:

Thế giới ngày nay, sau sự sụp đổ của nhiều mô hình quản lý kinh tế với những cuộc
khủng hoảng mang tính toàn cầu, với hàng loạt sự trả giá của con người do phát triển
kinh tế không được đặt trong tổng thể gắn với văn hóa – môi trường sống, đã đặt ra
cho nhân loại một bài toán mới: phát triển bền vững.
Khái niệm phát triển bền vững và quan điểm về phát triển bền vững đến nay còn có
nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia,
khu vực. Nhưng, hiểu một cách chung nhất thì phát triển bền vững là một khái niệm
nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn bảo đảm sự tiếp
tục phát triển trong tương lai xa. Phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển
kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Đối với Việt
Nam, phát triển bền vững hiểu khái quát là sự cân bằng giữa 3 vấn đề: tăng trưởng -
bảo vệ môi trường - bảo đảm an sinh xã hội.
Văn kiện Đại hội XI đã nêu quan điểm của Đảng về phát triển bền vững là:
- Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên hàng đầu, chú
trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
- Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Như vậy, trong quan điểm của Đảng, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội là những điều kiện quan trọng để có sự phát triển bền vững. Phát triển bền
vững là một tiêu chí không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.

14
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội -
đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Đoàn Thị Bích
Hiền - Tạp chí Cộng sản | Tư liệu văn kiện Đảng (dangcongsan.vn)

[2] Giáo trình 2016.pdf

You might also like