You are on page 1of 47

Thành phố Hồ Chí Minh - 2022

GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

ĐỀ TÀI: 03

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ,


NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO
TẠO QUỐC TẾ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA
TP. HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

ii
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

MỤC LỤC
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI..............Error!
Bookmark not defined.

MỤC LỤC ................................................................................................................................iii

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................... 3

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY .................................................... 3

1.1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. ..................................................................... 3

1.1.1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ................................................................ 3

1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ...................... 4

1.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường .............. 6

1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế .......................................................................... 7

1.2.1. Quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội ............................................................. 8

1.2.2. Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường dịnh hướng xã hội chủ nghĩa
tại đại hội X ........................................................................................................................ 9

1.2.3. Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế .............................................................. 10

1.3. Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững ........................................................................................................................... 10

1.3.1. Phát triển bền vững ............................................................................................ 10

1.3.2. Nguồn lực con người.......................................................................................... 10

1.3.3. Tại sao lại lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững? .......................................................................................................... 11

1.4. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại .......... 12

1.4.1. Nền tảng cho sự phát triển ................................................................................. 12

iii
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

1.4.2. Thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .......................................................... 13

1.4.3. Khắc phục hạn chế và hướng tới mục tiêu phát triểu bền vững. ....................... 14

1.5. Phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ...................................................................................... 18

1.5.1. Quan điểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
............................................................................................................................18

1.5.2. Quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ...................................................................... 21

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .......................................................................................................... 23

CHƯƠNG 2: TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG GIÁO DỤC KHOA OISP CỦA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ................ 24

2.1. Đánh giá thực hiện. ............................................................................................. 24

2.1.1. Chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục của chương trình tiên
tiến/chất lượng cao OISP của trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay ........................................................................................................................... 24

2.1.2. Kết quả. .............................................................................................................. 27

2.1.2.1. Những thành tựu mà Khoa OISP của trường Đại học Bách Khoa Tp. Hồ Chí
Minh đã đạt được trong việc hợp tác giáo dục quốc tế .................................................... 27

2.1.2.2. Những khó khăn, hạn chế mà Khoa OISP trường Đại học Bách Khoa Tp. Hồ
Chí Minh đã đạt được trong việc hợp tác giáo dục quốc tế. ............................................ 27

2.2. Giải pháp của hhóm ............................................................................................ 29

2.2.1. Toàn cầu hóa với những cơ hội và thách thức? Tác động tích cực và tiêu cực của
toàn cầu hóa trong việc hợp tác giáo dục quốc tế. ........................................................... 29

2.2.2. Để tận dụng tốt cơ hội, vượt qua được thách thực trường cần những biện pháp
gì? ........................................................................................................................... 32

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .......................................................................................................... 36

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................................. 37

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................................... 39

iv
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

v
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong thời đại 4.0, khi thế giới không ngừng phát triển, ranh giới địa lý đã dần
bị phá bỏ bởi sự tiến bộ vượt bộ của công nghệ. Nhờ vậy, quá trình toàn cầu hóa và
công tác hội nhập ngày càng được đẩy mạnh và trở thành xu thế của thế giới. Tuy là thế
hệ đi sau, nhiều bạn trẻ ngày nay đã không kịp bắt kịp xu thế này hoặc tệ hơn là hội
nhập sai cách dẫn đến tiếp thu những cái tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa. Điển hình,
các trào lưu xấu, tư tưởng phản động vẫn lôi kéo được rất nhiều bạn trẻ tham gia.
Bên cạnh đó, giới trẻ hiện nay vẫn có kiến thức rất hạn chế về các chính sách của
nhà nước, dẫn đến quan hệ hợp tác giữa dân và chính phủ còn nhiều bất cập. Vì vậy,
nhóm chọn chủ đề về chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng là chủ đề cho bài tập lớn
với mong muốn có thể phân tích kĩ lưỡng, rõ ràng hơn những đại ý cơ bản, quan trong
nhất trong chủ trương này. Đồng thời, thành viên trong nhóm đều là sinh viên Đại học
Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, ngoài việc đề cập chủ trương đối ngoại
của Đảng, chủ trương trong việc liên kết, hợp tác quốc tế của trường cũng sẽ được phân
tích, làm rõ.
Cuối cùng, với góc nhìn của sinh viên – đối tượng đang trực tiếp thụ hưởng
những chính sách, chủ trương của trường, một vài biện pháp sẽ được đề suất, góp phần
gia tăng tính thực tiễn trong việc hoạch định chủ trương liên kết, hợp tác quốc tế của
trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhiệm vụ của đề tài


Để từng bước làm rõ chủ trương của Đảng trong hội nhập quốc tế, và chủ trương
của Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh trong việc liên kết, hợp tác quốc tế,
bài tập lớn sẽ từng bước giải quyết cách nhiệm cụ sau đây.
Một là, làm rõ những chủ trương của Đảng về thực hiện đối ngoại trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay;
Hai là, phân tích và làm rõ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục của
trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay;

1
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

Ba là, làm rõ những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện liên kết, hợp tác
quốc tế của Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm những thành tựu và
hạn chế;
Bốn là, đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả hợp tác quốc tế
trong giáo dục của trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh.

2
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

1.1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
1.1.1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa
Công nghiệp hóa (CNH) là quá trình biến một nước nông nghiệp thành một nước
công nghiệp. Nói rõ hơn, công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi xã hội đặc trưng bởi
kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp.
Hiện đại hóa (HĐH) là một xã hội trong đó bao gồm nhiều lĩnh vực luôn thay
đổi theo hướng đổi mới công nghiệp, đổi mới tư duy, tiếp thu những giá trị tư tưởng
khoa học hiện đại nhất, quy mô nhất.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa là vì công nghiệp hóa là biến đổi
cơ bản lao động thủ công thành lao động tiên tiến hiện đại, nhưng nếu dừng lại ở chỗ
này thì công nghiệp hóa không có giá trị nên ta phải áp dụng công nghiệp hóa đó vào
các ngành sản xuất, lưu thông, dịch vụ, quản lý thì điều đó mới thật sự đúng nghĩa và
đem lại lợi ích cho đất nước. Việc áp dụng công nghiệp hóa vào các mặt của đất nước
ta gọi đó là hiện đại hóa . Do đó, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa.
Phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình phát triển và nâng cao trình
độ công nghiệp. Việc nâng cao trình độ công nghệ được thực hiện trong quá trình điện
khí hoá, cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá và sinh học hoá. Trong các
ngành lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế của đất nước
trong đó cần ưu tiên đưa ngành công nghệ hiện đại thích hợp vào các ngành, các lĩnh
vực, các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ mũi nhọn trọng điểm, đạt hiệu quả kinh
tế cao, tích lũy nhanh và lớn. Có như vậy mới tạo khả năng thu hút và thúc đẩy CNH –
HĐH các ngành, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế.

3
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa (CNH) là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng ta xác định
thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực
hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không
ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''1. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội
Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
Trong quá trình CNH – HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể
học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn
thời gian thực hiện quá trình này. Việt Nam thực thực hiện quá trình này trong bối cảnh
loài người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ
của tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật
liệu mới... đúng như tiên đoán của C. Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX “tri thức
sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”2.
Chính vì thế, tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận
điểm quan trọng về phát triển KTTT ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành
và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng
trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện
đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức
trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển KTTT ở nước ta''3.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa,
chúng ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên

1
Văn kiện Đăng toàn tập (tập 29, trang 189-192), (2020), Tập trung sức thực hiện cách mạng kỹ thuật là then
chốt, Báo điện tử ĐCSVN, https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-nganh-tuyen-
giao/thong-tin-tu-lieu/tap-trung-suc-thuc-hien-cach- mang-ky-thuat-la-then-chot-555020.html
2
Quang Duy, (2016), Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác và vấn đề phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay, Viện Triết Học, http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-
de/Nghi-quyet-Dang-va-cuoc-song/Luan-diem-khoa-hoc-tro-thanh-luc-luong-san-xuat-truc-tiep-cua-C-Mac-va-
van-de-phat-trien-kinh-te-tri-thuc-o-Viet-Nam-hien-nay-556.html
3
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, Cổng thông tin điện tử - chính phủ nước cộng hòa XHCN
Việt Nam, http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/
noidungvank iendaihoidang?categoryId=1000

4
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

kinh tế công nghiệp (CNH – HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT.
Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng
cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi
tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn CNH – HĐH với phát triển KTTT.
Phát triển KTTT Khoa học và công nghệ là cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển
lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát
triển của nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải trở thành “quốc sách
hàng đầu”. Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH. Nghị quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
xác định rõ “CNH – HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ”;
“khoa học và công” nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH – HĐH”. Chỉ
bằng con đường CNH – HĐH, phát triển khoa học và công nghệ mới có thể đưa nước
ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh văn minh.
Năm 2000, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đưa ra
định nghĩa: ''KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức
là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả
các ngành kinh tế''4. Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các
công cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí
thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Phát triển KTTT
nước ta là thực thi chiến lược vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm
tăng nhanh giá trị của sản phẩm; giảm tiêu hao tài nguyên và lao động.
Nước ta xác định, KTTT là công cụ hàng đầu để rút ngắn thời gian thực hiện quá
trình CNH-HĐH. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập những tri thức
khoa học và công nghệ cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu cầu cấp
thiết của xã hội ta hiện nay. Coi sự phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách
mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ dù chúng
ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đưa trang thiết bị kỹ thuật

4
Nguyễn Sĩ Dũng, (2018), Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, Xây Dựng Đăng, http://xaydungdang.org.vn/Home/giai_bua_liem vang/2018/11291/Phat-trien-kinh-te-
thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia.aspx

5
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

tân tiến nhất, những quy trình công nghệ hiện đại nhất vào nước ta thì cũng không có gì
để có thể bảo đảm đẩy mạnh được CNH – HĐH. Nếu không có được những con người
am hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ là một
trong những nhu cầu thiết thực và cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH – HĐH
đất nước.
1.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường được nâng lên một tầm
cao mới, gắn chặt với quá trình CNH – HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình
dự án đầu tư''5. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát
triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản
xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Quá trình CNH – HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường. Chỉ tiêu
tăng GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công nghiệp hằng năm 13%
sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các KCN và vùng đô thị; việc CNH – HĐH
các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi trường.
Số liệu của Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội cho thấy, mới có 60 KCN có trạm xử lý
nước thải tập trung (chiếm 42% số KCN đã vận hành). Mỗi ngày, các KCN thải ra
khoảng 30.000 tấn chất thải độc hại ra môi trường. Hầu hết các cụm, điểm, KCN chưa
đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường.
Đẩy mạnh tiến trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát
triển các làng nghề. Theo thống kê, cả nước có gần 1500 làng nghề và tạo ra 11 triệu
việc làm thường xuyên và không thường xuyên. Tuy nhiên do sản xuất tự phát, sử dụng
công nghệ lạc hậu nên phần lớn các làng nghề gây ô nhiễm môi trường. Một cuộc khảo
sát của Bộ Y tế tại 3 tỉnh Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên đã cho kết luận, hầu hết các
làng nghề không có hệ thống xử lý nước thải và kiểm soát chất thải rắn.
CNH – HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010
đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi trường

5
Thủ tướng chính phủ, Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Cổng thông tin điện tử
-Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

6
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

trong quản lý đô thị. Theo nghiên cứu của Bộ KH&CN, các đô thị Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh, Việt Trì, Ninh Bình, Quy Nhơn, Nha Trang, Biên Hòa... là những tụ điểm phát
thải các chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600
tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng, ...
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có
khả năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi
trường thời gian qua chủ yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các
chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với
bảo vệ môi trường.
Do đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận
thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt
động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH, gắn với phát triển KTTT.
Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, được
Bộ hoặc Sở Tài nguyên – Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời,
tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là các
chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Khắc phục các khu vực
môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng cao khả năng và nguồn lực điều tra nắm chắc
các nguồn tài nguyên để có kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học.
Nói cách khác, bảo vệ môi trường phải vừa là mục tiêu, vừa là nội dung của quá trình
phát triển bền vững.

1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
Trong thời đại toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tất cả các nước có xuất phát
điểm thấp, muốn vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới không có con đường nào khác
ngoài việc thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Đây chính là xu thế khách
quan của thời đại toàn cầu hoá; đồng thời cũng là con đường “rút ngắn” của quá trình
công nghiệp hoá theo hướng hiện đại nhằm chuyển nền kinh tế nông nghiệp thành nền
kinh tế công nghiệp - tri thức - và nền KTTT.

7
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức KT – XH, trong đó quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Kinh tế thị
trường định hướng XHCN là vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH để tổ chức nền KT– XH.
Nội dung quan điểm: là sự nghiệp của toàn dân trong đó kinh tế Nhà nước là chủ
đạo, với phương thức là phân bố các nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện bằng
cơ chế thị trường, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực
hiện hiệu quả hơn.
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, văn hoá
và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng đó, nhất thiết
phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu thành nền kinh tế công nghiệp văn minh.
1.2.1. Quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng
ta tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế. Ở Đại hội VII,
Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức
kinh tế”6. Ở đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong các văn kiện
của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Việc “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế…” được đề cập và nhấn mạnh trong các văn kiện của
Đảng tại đại hội XI.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định một trong những
nhiệm vụ cơ bản mà chúng ta cần phải thực hiện trong 5 năm 2006 – 2010 là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và để hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều cần thiết trước hết là nắm vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường đó, đồng thời nâng cao vai trò và

6
Việt Thắng, (2017), Đa dạng hóa, đa phương hóa trên cơ sở độc lập tự chủ, Đại đoàn kết – Cơ quan trung ương
của mặt trận Tổ quốc Việt Nam, http://daidoanket.vn/chinh-tri/da-dang-hoa-da-phuong-hoa-tren-co-so-doc-lap-
tu-chu-tintuc355400

8
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình
tổ chức sản xuất, kinh doanh, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của
các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, trong đó có thị trường khoa
học và công nghệ và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.2. Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường dịnh hướng xã hội
chủ nghĩa tại đại hội X
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu kinh tế thị
trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiện và đặc
điểm cụ thể của Việt Nam; là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc
bản chất của chủ nghĩa xã hội, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh"; động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc;
đồng thời coi trọng khuyến khích cả vật chất và tinh thần, kết hợp hài hòa các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội.
Ðây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, vai
trò làm chủ xã hội của nhân dân và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, được nhân dân đồng tình và là chủ thể xây dựng; sự nắm bắt và tự giác vận dụng
sáng tạo xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, tiếp
thu có chọn lọc thành tựu của nền văn minh nhân loại, sử dụng và phát huy cao độ vai
trò tích cực của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế tối đa những khuyết tật của tính
tự phát trong kinh tế thị trường, nhằm thực hiện có kết quả mục tiêu từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, để Việt Nam có thể hội nhập với thế giới, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Ðây cũng là thể hiện sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của
Ðảng và nhân dân ta, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
– Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Ðảng và kim chỉ nam cho hành
động cách mạng.
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh
tế. Hơn thế nữa, ta cũng cần phải chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập
trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, kế thừa có chọn lọc các

9
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực
tiễn đổi mới của nước ta. Cuối cùng, nên nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước.
1.2.3. Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng XHCN. Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ
vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước. Thứ ba, chúng ta chủ động hội nhập, dựa
vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Thứ
tư, ta phải nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng bộ thị trường trong
nước. Cuối cùng, song song với việc xây dựng, phát triển đồng bộ thị trường, ta phải
nhanh chóng xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh. Từ đó, đất nước ta đã gặt hái được
những thành tựu đó là: Chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; đường lối đổi
mới của Đảng đã tạo con đường pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
hình thành và phát triển; các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển
thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới; cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống.

1.3. Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững
1.3.1. Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một sự phát triển cân đối giữa ba cực tăng trưởng kinh tế,
xã hội và môi trường, không được xem nhẹ cực nào. Ở nước ta, quan điểm phát triển
nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị
quyết của Đảng.
1.3.2. Nguồn lực con người
Là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần đạo đức, phẩm chất, trình
độ tri thức, vị thế xã hội…Vì vậy, con người như là chủ thể hoạt động sáng tạo tham
gia cải tạo tự nhiên và làm cải biến xã hội.

10
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

1.3.3. Tại sao lại lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững?
Sự tồn tại bền vững và phát triển theo con đường tiến bộ xã hội của một quốc gia
nào cũng phụ thuộc vào năm nguồn lực chủ yếu: vốn, khoa học và công nghệ, con
người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước, trong đó, nguồn lực con
người luôn được coi là yếu tố cơ bản và quyết định vì:
[1] Các nguồn lực khác không có khả năng tự thân mà phải thông qua nguồn lực con
người mới phát huy được tác dụng.
[2] Các nguồn lực khác dùng nhiều thì hết, trái lại, nguồn lực con người càng dùng
càng phát triển.
a) Về kinh tế
Bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tang trưởng kinh tế nhanh và ổn định. Vì vậy,
phải có các nhân tố tất yếu: nhân tố con người, các yếu tố vật chất do con người tạo ra
và nhân tố tự nhiên.
Dưới góc độ kinh tế, nguồn lực con người (NLCN) là lực lượng lao động cơ bản
của xã hội, cả hiện tại và tương lai. Vai trò của người lao động được V.I.Lenin nhấn
mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. Con người là một đầu vào trực tiếp
của quá trình sản xuất, là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi kết hợp
với con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác con người là đối
tượng kha thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển bền vững, là nguồn lực
của mọi nguồn lực.
Đầu tư cho phát triển NLCN mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc
khai thác sử dụng các nguồn lực khác, hơn nữa, hiệu quả đầu tư cho phát triển NLCN
có độ lan tỏa đồng đều, mang lại sự công bằng hơn về cơ hội phát triển cũng như việc
hưởng thụ các lợi ich của sự phát triển. Kinh tế tăng trưởng mang lại sự giàu có về vật
chất, cho nên, con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cuối cùng của phát
triển kinh tế.
b) Về xã hội
Bền vững về mặt xã hội là phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xóa đói
giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã
hội. Ở góc nhìn này, mục tiêu của phát triển bền vững là nâng cao chất lượng cuộc sống

11
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

con người, không phân biệt tầng lớp, chủng tộc, giới tính, vùng miền. Cho nên, trước
hết cần phải phát triển con người một cách bền vững, nói cách khác, là làm tang năng
lực và phạm vi lựa chọn của con người để họ có một cuộc sống ấm no hạnh phúc, thì
mới có thể phát triển xã hội bền vững.
Từ thực tiễn phát triển đất nước trong thời gian qua Đảng ta đã rút ra bài học
kinh nghiệm và cũng là tư tưởng chỉ đạo trong thời gian tới: Phát triển nhanh đi đôi với
nâng cao tính bền vững. Từ những ý trên, có thể thấy, quan điểm của Đảng luôn đề cao
vai trò của con người, nổi lên tư tưởng hàng đầu, lấy con người làm trung tâm của sự
phát triển.
1.4. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại
1.4.1. Nền tảng cho sự phát triển
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện, Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị
trí, vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) đối với sự phát triển kinh tế – xã hội;
đồng thời, luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để KHCN phát triển. Quan điểm coi
KHCN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa được khẳng định và quán triệt trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới.
Trước Đại hội VI, Đảng ta đã xác định cách mạng khoa học – kỹ thuật là then
chốt trong ba cuộc cách mạng của thời kỳ khôi phục và kiến thiết đất nước sau thống
nhất. Đại hội VI (1986) coi KHCN là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước. Đại hội VII (1991) khẳng định KHCN là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đại hội Đảng VIII (1996) và Đại hội IX (2001) coi KHCN là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X (2006) nhấn mạnh
vai trò động lực của KHCN trong phát triển kinh tế tri thức. Đại hội XI (2011) đề ra
đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và KHCN giữ vai trò then chốt trong
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, là động lực then chốt của quá trình phát triển
nhanh và bền vững.
Khi bàn về mối quan hệ giữa khoa học và sản xuất, tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ I của Hội Phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam (ngày 18/5/1963), Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện
nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn

12
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều…
Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải tiến những cái đó. Khoa học phải từ sản xuất mà
ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao
động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội
thắng lợi”.
Vai trò của khoa học và công nghệ tiếp tục được nêu rõ trong Báo cáo tổng kết
20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội (1991 – 2011), Đảng ta đã chỉ rõ: KHCN cùng với giáo dục và đào tạo phải được
coi là quốc sách hàng đầu. KHCN giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản
xuất, phân bố lại lực lượng lao động; nâng cao trình độ quản lý, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm hàng hoá, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường – sinh thái, bảo đảm
chất lượng và tốc độ phát triển kinh tế; góp phần tích cực trong đấu tranh bảo vệ chủ
quyền của đất nước…
1.4.2. Thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta luôn nhất quán xác định
khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy đất nước
phát triển nhanh và bền vững. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phát
triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đó là một trong những đột phá chiến
lược của đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn tìm tòi, thử nghiệm,
áp dụng những mô hình, chiến lược công nghiệp hóa phù hợp với thực tiễn đất nước.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) đã đưa ra
quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Hội nghị
nhấn mạnh quan điểm coi khoa học - công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; chỉ rõ việc cần thực hiện đồng thời hai quá trình công nghiệp hóa và hiện đại

13
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

hóa: “Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa… hình thành những mũi nhọn phát
triển kinh tế theo trình độ tiên tiến của khoa học – công nghệ thế giới”.7
Nhờ thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên nền tảng khoa học – công nghệ, trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được
thành tựu to lớn: Đạt ngưỡng thu nhập trung bình năm 2008; nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng cao: giai đoạn 2011 – 2015 đạt 5,9%, giai đoạn 2016 – 2019 đạt 6,8%; quy mô
nền kinh tế tăng 2,4 lần từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 271,2 tỷ USD năm 2020. GDP
bình quân đầu người tăng từ 1331 USD năm 2010 lên 2779 USD năm 2020. “Chất
lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển
dịch sang chiều sâu”8. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 19%
năm 2010 lên 50% năm 2020. Khoa học – công nghệ từng bước khẳng định vai trò động
lực trong phát triển kinh tế – xã hội. Tiềm lực khoa học – công nghệ của đất nước được
tăng cường. Hiệu quả hoạt động khoa học – công nghệ được nâng lên, tạo chuyển biến
tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo. Trình độ khoa học - công nghệ
sản xuất được nâng cao, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
1.4.3. Khắc phục hạn chế và hướng tới mục tiêu phát triểu bền vững.
Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế như: việc tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ còn hạn chế, nhất là công nghệ cao. Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng cơ chế, chính
sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính, chưa tạo
được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài. So với yêu cầu
phát triển của đất nước, đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, chưa hiệu quả. Hệ
thống thông tin, thống kê khoa học và công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ
việc xây dựng chiến lược, chính sách.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số quốc
gia; phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đồng thời thống nhất
quan điểm đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả
các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc

7
Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2019
8
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021

14
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định
để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, góp phần thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những định hướng này thể hiện
cụ thể trên những nội dung sau:
Một là, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh trên nền tảng số. Nền
công nghiệp quốc gia vững mạnh là yếu tố nền tảng quyết định sức cạnh tranh, năng
suất lao động và quy mô của nền kinh tế. Để xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững
mạnh, đại hội XIII yêu cầu: Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển,
làm chủ công nghệ hiện đại. Phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh,
có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ, chất lượng
nguồn nhân lực đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và
phát triển kinh tế số. Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh
chuyển đổi sang công nghệ số, tập trung phát triển công nghiệp nền tảng, nhất là công
nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả
năng tham gia sâu, có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ưu tiên phát triển những
ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Dựa trên công nghệ mới,
hiện đại để phát triển các ngành công nghiệp vẫn còn có lợi thế (chế biến nông sản, dệt
may, da giày…) tạo nhiều việc làm, sản xuất hàng xuất khẩu, đóng góp lớn vào giá trị
gia tăng quốc gia. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ cao, khu kinh
tế, khu công nghiệp. Nâng cao trình độ khoa học - công nghệ ngành xây dựng đủ năng
lực thiết kế, thi công các công trình xây dựng lớn, phức tạp, hiện đại, có khả năng cạnh
tranh trong nước và quốc tế.
Hai là, xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô
thị làm động lực phát triển từng vùng, địa phương. Đô thị hóa và kinh tế đô thị luôn là
chiến lược trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu là hướng
tới hình thành các trung tâm đô thị nhằm tạo nền tảng hạ tầng và các nguồn lực, nhất là
nguồn lực về khoa học - công nghệ cho sự phát triển và chuyển đổi số. Đô thị luôn là
trung tâm, kinh tế đô thị có sức thu hút, lan tỏa, là điều kiện rất thuận lợi để tiếp thu,
ứng dụng, nghiên cứu, sáng tạo khoa học - công nghệ. Do vậy, phát triển đô thị, kinh tế
đô thị là mắt xích quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, cần
nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát quá trình đô thị hóa, phát triển đô thị vệ tinh, hạn

15
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

chế xu hướng tập trung quá mức vào các đô thị lớn; xây dựng đô thị hiện đại, văn minh,
đô thị thông minh, đa dạng về loại hình, có bản sắc đặc trưng về kiến trúc, văn hóa ở
từng địa phương.
Ba là, thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân
văn minh. Nông nghiệp, nông thôn luôn là mục tiêu quan trọng của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tư duy
phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải trên nền tảng đổi mới sáng tạo. Các yếu tố đầu vào,
đầu ra và quy trình, công nghệ sản xuất nông nghiệp cần được tối ưu hóa, hiện đại hóa
dựa trên thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, đại hội XIII định hướng
phải chủ động phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ
cao, nông nghiệp sinh thái dựa trên tiến bộ khoa học – công nghệ. Phát huy tiềm năng,
lợi thế của từng vùng, từng địa phương, đổi mới tổ chức, phát triển kinh tế hợp tác, thu
hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công
nghiệp, dịch vụ, sản xuất với bảo quản, chế biến, xây dựng thương hiệu, tiêu thụ, nâng
cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn, kết nối nông thôn với đô thị. Tiếp tục đẩy mạnh Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, phát triển
mạnh khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số đã đặt ra yêu
cầu hiện đại hóa khu vực kinh tế dịch vụ với tốc độ cao hơn. Theo đó, Đại hội XIII xác
định rõ định hướng hiện đại hóa kinh tế dịch vụ trên một số vấn đề cơ bản: Tập trung
phát triển một số ngành dịch vụ như du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ thông
tin, vận tải, logictics, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý… Hiện đại hóa và mở
rộng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao, dịch vụ thương mại… Tổ chức
cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.
Năm là, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển bền vững dựa trên trụ cột hiện đại hóa
khoa học - công nghệ khai thác biển. Thành tựu to lớn của khoa học – công nghệ trong

16
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phép nhanh chóng hiện đại hóa để
khai thác hiệu quả và bền vững kinh tế biển. Đại hội XIII xác định rõ việc cần thiết phải
dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học - công nghệ để tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý
thống nhất quy hoạch không gian biển, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên
ngành về biển đảo. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế biển.
Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy mạnh đào tạo
nguồn nhân lực kinh tế biển. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ,
điều tra tài nguyên, môi trường biển. Xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao
năng lực giám sát môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven
biển.
Sáu là, đẩy mạnh đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công
trình hiện đại. Tập trung ưu tiên đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, cụm công
trình, dự án hạ tầng trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường
không kết nối các vùng, khu vực, các khu trung tâm kinh tế, phát triển hạ tầng năng
lượng, nhất là năng lượng tái tạo, bảo đảm cung cấp đủ, ổn định năng lượng cho nền
kinh tế. Phát triển hệ thống thủy lợi, hồ, đê, đập, nâng cao năng lực phòng, chống thiên
tai, thích ứng với biển đổi khí hậu. Xây dựng đồng bộ, hiện đại hạ tầng ở các đô thị,
nhất là đô thị lớn; tạo bứt phá trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông,
xây dựng, kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia. Chú trọng phát triển hạ tầng số và bảo đảm an
ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận
tài nguyên số bởi đây là hạ tầng giữ vị trí quyết định khả năng, tốc độ chuyển đổi số,
đồng thời cũng là nền tảng để thành lập và vận hành các doanh nghiệp số trong cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Như vậy, Đại hội XIII là sự kế thừa, phát triển và có bước đột phá về tư duy lãnh
đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ. Trọng tâm là tăng tốc, bứt phá, thực hiện đồng
thời cả hai quá trình là chuyển đổi nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp sang
chủ động nghiên cứu, ứng dụng, sáng tạo công nghệ và chuyển đổi nền kinh tế công
nghiệp sang nền kinh tế số dựa trên nền tảng tri thức, đổi mới, sáng tạo. Trong quá trình
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao
năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, khoa học – công nghệ và đổi

17
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

mới sáng tạo luôn giữ vai trò trung tâm. Chính nguồn tài nguyên trí tuệ này là nền tảng
cốt lõi, đồng thời là phương tiện hữu hiệu để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc.

1.5. Phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của phát triển văn hóa,
tiền đề để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nếu không có tăng trưởng kinh tế, sẽ
không có điều kiện để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bên
cạnh đó, tăng trưởng kinh tế là cở sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế- xã hội, theo đó
phát triển kinh tế là kết quả tổng hợp của sự tăng trưởng. Tiến bộ và công bằng xã hội
luôn là mục tiêu hướng tới, có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí trong đó lấy
con người làm trung tâm.
1.5.1. Quan điểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội.
Điều đó phản ánh sâu sắc tư duy mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Xác định mục tiêu quan trọng đến năm
2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, là bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã
hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính thống
nhất và mâu thuẫn trong quá trình tăng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử
lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội. Tư tưởng đó dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội của Đảng.
Giai đoạn 1986 – 1990, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, được đánh dấu bằng
Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986). Đại hội VI, lần đầu tiên đặt vấn đề về mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế với việc giải quyết các mục tiêu xã hội khi xác định:

18
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

“Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng
những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”9.
Giai đoạn 1991 – 1995, định hướng gắn kết tăng trưởng với tiến bộ và công bằng
xã hội thể hiện trong nội dung Cương lĩnh năm 1991. Các định hướng chính sách lớn
trong giai đoạn 1991 – 1995 tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển các thành
phần kinh tế, hình thành các thị trường nhân tố sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế thị
trường. Chính sách xã hội bắt đầu tập trung vào giải quyết những vấn đề cơ bản nhất,
đó là cải cách và đổi mới chính sách tiền lương cho phù hợp khi chuyển đổi sang cơ chế
thị trường, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội
(BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và chăm sóc sức khỏe cho cả đối tượng ngoài khu vực
nhà nước. Văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát
triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính
sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”10. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994), mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được Đảng xác định một cách rõ
ràng hơn: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển” 10.
Giai đoạn 1996 – 2000, bên cạnh tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao với mục tiêu
tăng trưởng cao hơn giai đoạn trước (tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 9% – 10%
hàng năm), quan điểm về phát triển xã hội nhấn mạnh thêm vấn đề tạo việc làm, giảm
thất nghiệp và xóa đói giảm nghèo (XĐGN). Định hướng chính sách nhằm tăng gắn kết
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội đã cụ thể hơn. Văn kiện Đại
hội lần thứ VIII của Đảng nêu: “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện

9
Thủ tướng chính phủ, Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Cổng thông tin điện tử
- Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchienluoc
phattrienkinhtexahoi?docid=1254&substract=&strutsAction=ViewDetailActi on.do
10
PGS.TS Phạm Văn Linh, (2020), Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Tổ chức Nhà Nước, https://tcnn.vn/news/detail/48145/Moi-quan-he-giua-phat-trien-
kinh-te-voi-thuc-hien-tien-bo-va-cong-bang-xa-hoi-o-Viet- Nam-hien-nay.html

19
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những
vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”11.
Giai đoạn 2001 – 2005, quan điểm của Đảng về tăng trưởng có sự thay đổi rõ
nét, đó là tăng trưởng nhanh, nhưng bền vững. Mục tiêu về tốc độ tăng GDP khoảng
7,5% hàng năm, tức thấp hơn giai đoạn trước; đồng thời cần chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Việc tiếp tục thực hiện công bằng xã hội thể hiện qua quan điểm chính là tạo chuyển
biến mạnh về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người,
tạo việc làm và cơ bản XĐGN. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường”11.
Giai đoạn 2006 – 2010, Đảng chủ trương thực hiện các định hướng chính sách
lớn trong giai đoạn này theo hướng kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội thông qua chính
sách kinh tế. Đại hội lần thứ X, Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khi coi đây
là một trong những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội
Đảng nêu: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải
quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”2011.
Giai đoạn 2011 – 2016, Đảng khẳng định rằng, tiến bộ xã hội và công bằng xã
hội là hai mục tiêu song trùng của sự phát triển xã hội; mục đích tối cao của tăng trưởng
kinh tế là nhằm phát triển con người; mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho
cùng, là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; mặt khác, tăng trưởng kinh tế đồng thời giúp con người có
nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa, đưa xã hội tiến lên những nấc thang
mới trong lịch sử nhân loại. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “kết hợp chặt
chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công

11
Xem chú thích số 10 trang 21

20
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần”12.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân”12. Như vậy, điều đó đã định hướng nội dung, phương hướng và giải
pháp cơ bản đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong tình
hình mới; coi hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tăng trưởng
kinh tế là cơ sở, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, ngược lại, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội là điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững, có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Chỉ có phát triển kinh tế nhanh và bền vững mới có cơ sở để giải quyết các
vấn đề xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra
trong quá trình phát triển, cũng như thực hiện mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con
người, vì con người.
1.5.2. Quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
“Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát
triển”12, là hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới (phát triển bền
vững và bao trùm), góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn quan điểm về phát triển bền
vững, phát triển bao trùm hiện đang được thảo luận nhiều trên thế giới cũng như tính xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển.
Ở đây, cần phải thấy rằng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước,
từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển bao quát nhiều nội dung sâu sắc:
Đó là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới phát triển
văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công
bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mục tiêu tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội cần được thực hiện

12
Xem chú thích số 10 trang 21

21
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển. Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội;
mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực
tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc
những người có công, những người không may gặp khó khăn, cơ nhỡ. Điều này vừa thể
hiện đúng quy luật của sự phát triển lành mạnh, bền vững trong thời đại ngày nay, vừa
nói lên mục đích, bản chất của xã hội ta. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này thì không
thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là không hơn gì kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa, càng không thể nói đến tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội sẽ tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế chứ không phải là gánh nặng kìm hãm
tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát
triển con người, phát huy nhân tố con người. Tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở
để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có
hiệu quả, thiết thực. Để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trở
thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, hưởng thụ và cống hiến.

22
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Quá trình toàn cầu hóa và công tác hội nhập ngày càng được đẩy mạnh và trở
thành xu thế của thế giới. Trong tình hình đó, Đảng ta đã nhận ra phát triển công nghiệp
hóa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để phát triển
bền vững thì nguồn nhân lực có thể chất, tinh thần đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức,
vị thế xã hội, ... là không thể thiếu bởi nguồn lực con người chính là yếu tố cơ bản cho
sự phát triển cả về mặt kinh tế và xã hội.
Để phát triển yếu tố con người cần đi sâu vào phát triển giáo dục. Chính vì vậy
khoa học công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo phải được coi là quốc sách hàng đầu.
Mà trong đó khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản
xuất, phân bố lại lực lượng lao động; nâng cao trình độ quản lý, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm hàng hoá, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường – sinh thái, bảo đảm
chất lượng và tốc độ phát triển kinh tế; góp phần tích cực trong đấu tranh bảo vệ chủ
quyền của đất nước. Đảng chủ trương trong việc bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhằm phát triển xã
hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người.

23
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

CHƯƠNG 2: TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG GIÁO DỤC


KHOA OISP CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH HIỆN NAY

2.1. Đánh giá thực hiện.


2.1.1. Chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục của chương
trình tiên tiến/chất lượng cao OISP của trường Đại học Bách Khoa
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Trường đại học Bách khoa với chủ trương trong thời gian từ 2011 – 2015 là trờ
thành một trong các trường hàng đầu của cả nước theo định hướng nghiên cứu, ngang
tầm là các trường địa học tiên tiến ở Châu á. Trong đó lấy môi trường học tập làm việc
và nghiên cứu là cơ sở môi trường. Chương trình và chất lượng đào tạo là nguồn gốc cơ
bản dể xây dựng. Trong đó hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
là để phát triển và tạo điều kiện để tiếp xúc kiến thức khoa học, công nghệ trên của thế
giới và tiếp cận với xu thế toàn cầu hóa.
Trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến 2020, tầm nhìn của trường Bách Khoa
là trở thành trường đại học sáng tạo, tiên phong và chủ động hội nhập quốc tế. Với sứ
mạng là đào tạo đội ngũ trí thức có năng lực lãnh đạo. Mỗi cán bộ, học sinh – sinh viên
của trường đại học Bách Khoa đều có khả năng sáng tạo tri thức thông qua nghiên cứu
khoa học và chuyển giai công nghệ. Từ đó mỗi cá nhân đều phải hiểu được sứ mạng
của mình có trách nhiệm với xã hội và phục vụ cộng đồng. Giải pháp của Trường và
Khoa OISP trong đào tạo nguồn nhân lực ngành kĩ thuật môi trường dựa trên giá trị cơ
bản được Đại học bách khoa hướng đến và những sự kiện tổ chức của trường: Từ những
chủ trương trên đại học Bách Khoa đã đề ra những giá trị cơ bản cần đạt được để đáp
ứng sứ mạng của nhà trường. Trong đó bao gồm bồi dưỡng, nâng cao năng lực và tâm
huyết của đội ngũ quản lý, giảng viên và sinh viên. Theo quan sát của chứng em và vấn
đề trên thì trong khoảng thời gian này trường đã tổ chứ rất nhiều hoạt động đối với toàn
trường nói chung và ngành môi trường nói riêng. Ví dụ, trong Khoa Tài nguyên và môi
trường truyền thông cho mọi người nhận biết được những lợi ích, tiềm năng, xu hướng
của ngành kĩ thuật môi trường. Khoa tài nguyên và môi trường Đại học Bách Khoa
TP.HCM luôn tạo điều kiên để sinh viên tham quan tìm hiểu môi trường sống xung

24
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

quanh, môi trường chất thải doanh nghiệp hay những cuộc thi về sáng tạo giải pháp
trong giải quyết vấn đề về ô nhiễm môi trường sống, tạo nên giá trị bằng môi trường
sáng tạo và đổi mới giáo dục.
Chương trình đào tạo của các chương trình tiên tiến, chất lượng cao OISP luôn
cần phải cập nhập, đổi mới trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hội nhập với
quốc tế, cũng như định hướng tập trung ưu tiên cho các nghiên cứu, ứng dụng trong lĩnh
vực khoa học – kỹ thuật, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0. Trường Đại học Bách Khoa luôn tổ chức cho sinh viên tham gia nghiên cứu khoa
học mọi năm tạo điều kiện cho sinh viên sáng tạo, học hỏi, tìm tòi để theo kịp cuộc cách
mạng 4.0 thế giới. Giáo trình, tài liệu được nhà trường biên soạn phù hợp, có tính ứng
dụng cao trong thực tế và chuẩn hóa đảm bảo theo chất lượng của chương trình quốc
tes, không những đảm bảo những kiến thức nền tảng được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định, mà còn phù hợp với nền giáo dục các cử nhân/kỹ sư tương lai của thế giới. Nguồn
tài liệu cũng được nhà trường đầu tư đa dạng phong phú, mang lại sự hiệu quả cao trong
công tác nghiên cứu, học tập của đội ngũ cán bộ, giảng viên cũng như người học.
Nhà trường cũng nâng cao chất lượng quản trị đại học, đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong giảng dạy và phát triển các dịch vụ phục vụ người học nhằm hướng
đến nâng cao chất lượng đào tạo. Tiếp tục xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên, báo
cáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa, bảo đảm
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, nâng cao chất lượng nhằm đảo bảo tốt công tác giảng
dạy cho sinh viên. Giảng viên khoa môi trường trường Đại học Bách Khoa luôn luôn
tham gia các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, cập nhật những kiến thức mới,
tham gia nghiên cứu khoa học để đảm bảo luôn cung cấp nội dung giảng dạy chất lượng
và phù hợp với xã hội, công nghiệp hóa hiệ đại hóa đất nước. Nhà trường đã cập nhật,
phát triển về chương trình đào tạo từ đào tạo theo hình thức niên chế sang đào tạo theo
học chế tín chỉ; chương trình đào tạo được xây dựng theo cách tiếp cận chuẩn của khu
vực và quốc tế, đổi mới phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm, gắn đào
tạo với nhu cầu xã hội. Điều này giúp sinh viên, người học chủ động trong việc học tập,
nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn Ngoài ra, Khoa còn tổ chức giao lưu với các đoàn
sinh viên nước ngoài, các trường đại học lớn, các doanh nghiệp để giúp sinh viên trau

25
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

dồi kiến thức, chất lượng học tập. Sinh viên chất lượng cao còn được giảng dạy chuyên
môn bằng tiếng Anh và có giáo sư nước ngoài giảng dạy.
Chủ trương quốc tế hóa, liên kết giáo dục của trường Đại học Bách Khoa Thành
phố Hồ Chí Minh đã được bắt đầu từ năm 1998. Khi đó, trường chỉ liên kết với Trường
Quản lý Maastricht. Tính đến thời điểm hiện tại, trong gần 23 năm thực hiện công cuộc
này, trường đã đạt hái được rất nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2006, trường thành lập
Văn phòng Đào tạo Quốc tế OISP với chuẩn tiếng Anh của các nhân viên là IELTS 6.0
nhằm quản lý hoạt động liên kết với các trường thành viên. Đồng thời, từ 2006 – 2009,
trường tiếp tục sở hữu thêm các chương trình thạc sĩ như MBA – MCI, IMP. Nhìn
chung, từ khi bắt đầu hội nhập, Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt
được rất nhiều thành tựu trong việc liên kết giáo dục ngoài nước. Có thể nhận xét rằng,
trong thời kỳ đầu, trường chủ trương hội nhập giáo dục qua hình thức du hoc, thực hiện
liên kết ngoài nước là chủ yếu. Điều này hoàn toàn đúng đắn bởi vào giai đoạn trên,
trường chỉ là 1 đại học non trẻ nếu xét trên phạm vi thế giới. Do vậy, việc thực hiện liên
kết theo hình thức đơn giản nhất như đã nêu trên là hoàn toàn hợp lý.
Khi trường đã dần được mở rộng và có vị thế nhất định, chủ trương quốc tế hóa
ngoài nước dần được chuyển sang quốc tế hóa ở sân nhà. Từ những năm 2015, trường
đổi mới bước ngoặt phát triển du học sang kiểm định các tiêu chuẩn quốc tế với mục
tiêu nâng cao giá trị văn bằng của trường lên tầm được công nhận rộng rãi toàn phần
hay một phần tại nhiều quốc gia, trường đại học trên thế giới. Có thể giải thích đơn giản
rằng, khi trường đạt các tiêu chuẩn đó, các văn bằng được cấp bởi trường dù là đào tạo
tại Việt Nam nhưng vẫn có giá trị ngang các hệ bằng đào tạo bởi các trường khác trên
thế giới. Tương tự, các chỉ học phần cũng có giá trị quy đổi tương đương hoặc được
công nhận một phần bởi các trường đó. Điều này giúp tạo lợi thế rất lớn cho người học
trong quá trình xin việc, định cư nước ngoài hay tiết kiệm thời gian, chi phí khi du học
trao đổi từ trường Bách Khoa sang các trường khác trên thế giới. Cụ thể hơn, năm 2015,
trường đạt tiêu chuẩn MOET. Từ 2010 đến 2020, hướng phát triển kiểm duyệt tiêu
chuẩn được đẩy mạnh, trường liên tục đạt được các tiêu chuẩn của nhiều quốc gia, đại
học khác như AUN – QA, ACBSP, IACBE, CTI & ENAEE,... Có thể suy ra rằng, ngoài
các thành tựu liên kết với các trường thành viên qua hình thức du học, trường Đại học

26
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh còn đạt được các tiêu chuẩn đào tạo, góp phần gia
tăng vị thế, tính cạnh tranh của mình.
Tóm lại, hiện nay, chủ trương chính của trường là quốc tế hóa ngay tại sân nhà,
mang môi trường quốc tế về khuôn viên trường. Đồng thời, chủ trương này là phương
án ứng phó rất hiệu quả đại dịch Covid 19, khi các quá trình toàn cầu hóa trên toàn thế
giới đang bị khựng lại. Nhìn chung, về các thành tựu, chỉ trong vỏn vẹn 23 năm quốc tế
hóa, trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã rất thành công trong liên
kết đào tạo quốc tế, minh chứng bởi rất nhiều thành tựu đáng ngưỡng mộ.
2.1.2. Kết quả.
2.1.2.1. Những thành tựu mà Khoa OISP của trường Đại học Bách Khoa
Tp. Hồ Chí Minh đã đạt được trong việc hợp tác giáo dục quốc tế
Nhờ triển khai nhiều chương trình như Swiss–AIT–Vietnam (SAV), European
Master in Mechanics of Constructions (EMMC), ... trường đã đào tạo nhiều thạc sĩ và
tiến sĩ cũng như kỹ thuật viên có trình độ cao. Cụ thể hơn, tính đến cuối 2003, SAV đã
đào tạo 195 thạc sĩ và 12 tiến sĩ. Tính đến cuối năm 2008, EMMC đã đào tạo được 192
thạc sĩ. Chương trình cũng đã hỗ trợ nhiều trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu
cho các phòng thí nghiệm của Trường ĐH Bách khoa đồng thời với sự tài trợ của Bộ
ngoại giao Pháp vào Trung tâm Bảo dưỡng Công nghiệp, trung tâm đã đào tạo được
gần 700 kỹ thuật viên trình độ cao cho các nhà máy xí nghiệp ở Việt Nam.
Tính tới nay, trường đã đạt được gần 27 tiêu chuẩn đào tạo, sở hữu hơn 32
chương trình quốc tế. Số lượng đối tác liên kết là 23 trường thành viên. Ngoài ra, còn
nhiều chương trình, đối tác doanh nghiệp hiện đang liên kết với trường. Trong kế hoạch
5 năm của mình, trường có định hướng đạt được 32 tiêu chuẩn tiếp theo và liên kết thêm
nhiều đối tác mới.
2.1.2.2. Những khó khăn, hạn chế mà Khoa OISP trường Đại học Bách
Khoa Tp. Hồ Chí Minh đã đạt được trong việc hợp tác giáo dục
quốc tế.
Trong những năm qua, hợp tác đào tạo quốc tế đã góp phần đáng kể trong việc
giúp các trường đại học ở Việt Nam nói chung và trường đại học Bách Khoa nói riêng
thực hiện những bước đi vững chắc trong hội nhập giáo dục quốc tế. Tuy nhiên, ngoài

27
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

những cơ hội, trường đại học Bách Khoa cũng đứng trước nhiều khó khăn và thách thức
khi thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế.
Đầu tiên, khi nhu cầu về hợp tác đào tạo quốc tế không ngừng tăng lên về quy
mô, các tiêu chuẩn kiểm duyệt giáo dục quốc tế ngày càng nghiêm ngặt và khó khăn.
Các phương thức dần trở nên phức tạp, chuyên hóa hơn về yêu cầu đào tạo. Do vậy, các
chương trình quốc tế phải tuân thủ các quy định của các tổ chức kiểm định chất lượng
quốc tế hoặc các quy định của các trường đại học, các tổ chức đào tạo nước ngoài. Việc
nâng cao chất lượng một mặt đòi hỏi người học phải cố gắng cao hơn, mặt khác đòi hỏi
các trường đối tác phía Việt Nam phải có đầu tư cả về cơ sở vật chất và con người. Tuy
Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đang sở hữu rất nhiều công nhận giáo dục
quốc tế nhưng để tránh bị tụt hậu, cả giảng viên, sinh viên trường vẫn cần nổ lực nhiều
hơn để tiếp tục hoàn thành thêm nhiều kiểm duyệt giáo dục khác
Tiếp theo, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, thị trường giáo dục Việt
Nam sẽ mở cửa hơn với sự tham gia nhiều hơn của các tổ chức giáo dục, các trường đại
học nước ngoài, tạo ra cạnh tranh lớn hơn. Trong bối cảnh đó, các chương trình quốc tế
tại Việt Nam sẽ thật sự bước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt. Điều này khiến chương trình
quốc tế của trường đại Bách Khoa phải cạnh tranh không chỉ bằng học phí mà quan
trọng hơn là bằng chất lượng dịch vụ với các tổ chức giáo dục nước ngoài.
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế đòi hỏi trường đại học Việt Nam phải được cơ
cấu lại để thích ứng với thể chế của kinh tế thị trường. Nhìn chung, trường đại học Bách
khoa hiện nay chưa được tổ chức theo mô hình cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của thị
trường, chưa thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường. Theo The Human Capital
Report 2016 của WEF, Việt Nam xếp thứ 68/130 về Chỉ số vốn con người (Human
Capital Index, được dùng để đánh giá chất lượng giáo dục của các quốc gia). So với các
nước trong khu vực ASEAN, chỉ số này của Việt Nam hơi thấp hơn so với vị trí trung
bình của khu vực. Hệ thống giáo dục và đào tạo vẫn còn thiếu liên thông giữa các trình
độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành;
phương pháp thi cử, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất.
Cuối cùng, vì nằm trong hệ thống WTO, hệ thống giáo dục Việt Nam phải hội
nhập với các nước, tuy nhiên, các trường đại học Việt Nam nói chung và trường đại học
Bách Khoa còn thiếu (hoặc chưa có) những hiệp định song phương và đa phương về

28
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ giáo dục. Ðiều này là khó khăn và thách thức
rất lớn đối với hệ thống giáo dục Việt Nam khi hội nhập. Ðây cũng là công việc mà Bộ
Giáo dục và Ðào tạo Việt Nam phải thực hiện trong những năm tới.
2.2. Giải pháp của hhóm
2.2.1. Toàn cầu hóa với những cơ hội và thách thức? Tác động tích cực và
tiêu cực của toàn cầu hóa trong việc hợp tác giáo dục quốc tế.
Xuất hiện từ những năm 1950, thuật ngữ Toàn cầu hóa (globalization) đã mau
chóng trở thành xu thế thời đại. Có thể nói, toàn cầu hoá là một hiện tượng đột phá,
mang tính cách mạng, làm thay đổi tư duy, nhận thức của nhân loại trên mọi phương
diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Sự xoá mờ ranh giới giữa các quốc gia, sự co
hẹp khoảng cách địa lý đã đẩy nhanh tốc độ biến đổi về cấu trúc kinh tế - chính trị trong
quan hệ liên quốc gia, đa quốc gia, kéo theo những chuyển đổi mạnh mẽ về đời sống
văn hoá – xã hội của nhân dân khắp thế giới. Một mặt, toàn cầu hoá phá vỡ những cấu
trúc theo khuôn khổ bị ràng buộc bởi cái gọi là biên giới quốc gia. Một mặt khác, toàn
cầu hoá thiết lập mục tiêu về một thế giới phẳng, một thế giới không ngừng giao lưu,
học hỏi và kết nối. Từ đó, “Toàn cầu hóa với những cơ hội và thách thức” là một nhận
định này hoàn toàn hợp lý. Toàn cầu hóa có thể mở ra những cơ hội phát triển nhưng
đồng thời có thể làm cản trở quá trình tiến bộ của một đất nước.
Về những cơ hội, “Toàn cầu hóa” là cơ hội, xu thế tất yếu, diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội hiện đại: kinh tế, văn hóa, giáo dục…, tác động
trực tiếp đến con người. Toàn cầu hóa mở ra khả năng phát triển, phổ cập công nghệ
thông tin và các phương tiện viễn thông, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương
mại và tạo ra khả năng thực thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một không gian toàn
cầu rộng lớn. Bên cạnh đó, việc liên kết quốc tế tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hoá
và tư tưởng rộng rãi, cho phép người dân ở mỗi quốc gia tiếp xúc với phong tục, tập
quán, ngôn ngữ, nghệ thuật, nét đặc trưng tác thành bản sắc dân tộc. Sự tiếp xúc, giao
lưu văn hoá đó làm giảm dần những khác biệt, tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau. Lối sống
cũng nhờ đó phong phú, đa dạng và cởi mở hơn. Từ đó mang con người xích lại gần
nhau hơn, đem lại khả năng giải quyết một số vấn đề chung đang đối mặt với toàn cầu
hoá kinh tế và sự phát triển xã hội.

29
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

Về những thách thức, toàn cầu hoá cũng mang lại nhiều vấn đề khiến các quốc
gia phải mau chóng tìm biện pháp giải quyết nếu không muốn bị hoà tan về văn hoá, bị
thao túng bởi chính trị, bị dẫn dắt bởi kinh tế, xã hội trong nước bất ổn, môi trường tự
nhiên và các nguồn tài nguyên bị tổn hại. Dưới góc nhìn từ triết lý nhân sinh, toàn cầu
hoá là hiện tượng, là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người. Trong xu hướng
ấy, có dòng chảy thuận, nhưng cũng có nhiều dòng chảy nghịch. Có những dòng chảy
thực sự khai phóng, làm mới tư duy, tinh thần, lối sống, phong cách dân tộc, nhưng
cũng có dòng chảy đang “cố tình” làm tan loãng, xóa mờ, thậm chí làm biến dạng “hồn
cốt” dân tộc. Cụ thể như việc các quốc gia sẽ cùng chịu các vấn đề chung trong sự phát
triển kinh tế quốc gia, như những vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài
nguyên, vấn đề dân số và sức khỏe cộng đồng, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội
và tội phạm mang tính quốc tế. Nghiêm trọng hơn, về mặt chính trị, những thách thức
nghiêm trọng của toàn cầu hóa đối với chủ quyền quốc gia sẽ xuất hiện. Trong bối cảnh
toàn cầu hoá hiện nay, người ta thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia
dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không
có và không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên
ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá. Điều này làm gia tăng xung đột giữa một số quốc
gia với nhau. Điển hình hiện nay là Trung Quốc và Mỹ. Hai quốc gia này hiện đang
chiến tranh kinh tế với nhau, xuất phát từ những phương án hợp tác không lành mạnh,
với mong muốn kìm hãm kinh tế lẫn nhau. Sự xung đột giữa hai cường quốc trên kéo
theo sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội ở cả hai nước và nhiều nước khác đang hợp
tác với họ trên thế giới.
Ở Việt Nam, hai khía cạnh tích cực và tiêu cực được thể hiện rất rõ. Về kinh tế,
không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và đang tạo
ra những cơ hội cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế
thế giới để trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đổi mới công nghệ.
Cụ thể, Việt Nam từ khi mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, có nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư, thương mại phát triển xuyên biên giới,
... Đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới
và khu vực như BTA, AFTA, WTO, … Đây là cơ hội mà để ngành kinh tế Việt Nam,
đặc biệt là các doanh nghiệp có điều kiện phát triển và có sức cạnh tranh trên thị trường

30
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

quốc tế. Tuy nhiên, toàn cầu hoá đã làm cho sự phân hoá giàu nghèo cũng như sự chênh
lệch về thu nhập, mức sống ngày càng tăng. Sự chênh lệch đó diễn ra ở mọi phương
diện, ở từng địa phương, trong từng doanh nghiệp. Về xã hội, toàn cầu hoá đã mang lại
nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ kinh
tế, chính trị, ngoại giao. Tuy nhiên, Việt Nam cũng giống như nhiều nước khác trên thế
giới đang đứng trước những hiểm hoạ của thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, …
Đặc biệt toàn cầu hoá kinh tế cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường của đất
nước đã làm nảy sinh tư tưởng thực dụng ở không ít người. Những tác động đó cùng
với một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của dân vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước. Nghiêm trọng hơn, các thế lực phản động thù địch
cũng lợi dụng quan hệ liên kết quốc tế của Việt Nam nhằm chống phá đội lốt “dân chủ,
tự do”, truyền bá tư tưởng phản cách mạng vào trong nước. Về văn hóa, sự giao lưu
quốc tế rộng rãi trên cơ sở của phát triển kinh tế toàn cầu cũng có những tác động không
nhỏ tới lĩnh vực văn hóa. Cùng với việc phục hồi, phát huy các giá trị văn hoá; nền văn
hoá Việt Nam có điều kiện tiếp thu các giá trị mới của nền văn hoá thế giới và ngày
càng trở nên đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, cùng với những tác động tích cực, toàn
cầu hoá cũng gây ra những hệ quả tiêu cực đối với nền văn hoá Việt Nam như: một số
giá trị văn hoá truyền thống không được bảo tồn, gìn giữ; một số người thay đổi nhanh
chóng lối sống, tha hoá đạo đức, … Về giáo dục, quá trình dịch vụ hóa giáo dục gắn với
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục đã làm cho chức năng của giáo dục có sự
thay đổi, được nâng lên một nấc thang mới trong tương quan với các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội. Đó là chức năng kinh tế, đầu tư, tạo lập giá trị mới và kết nối xã hội,
cạnh tranh quốc tế… Giáo dục không còn chỉ thuần túy là đào tạo nhân lực và phúc lợi
xã hội. Sự giao thoa, đối thoại, hợp tác, cạnh tranh giữa các nền giáo dục làm cho nền
giáo dục của mỗi nước vừa có giá trị dân tộc, vừa có giá trị quốc tế – nhân loại. Sự
thắng, thua của một nền giáo dục không phải chỉ ở chiếm lĩnh thị phần giáo dục lớn hay
nhỏ, trình độ cao hay thấp, mà còn ở chỗ biết tiếp thu, phát huy có hiệu quả những giá
trị tích cực, tiên tiến hơn của các nền giáo dục khác. Nắm chắc, phát huy những giá trị
của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các giá trị quốc tế để hội nhập có hiệu quả là hướng đi
cần chú trọng.

31
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

Nhìn chung, sự tác động của toàn cầu hoá đối với xã hội Việt Nam là mạnh mẽ
và sẽ còn tiếp tục tăng thêm trong những năm tới. Điều quan trọng là chúng ta phải biết
khai thác, tận dụng những mặt tích cực của toàn cầu hoá để tạo ra sức mạnh chiến thắng
các tác động tiêu cực của nó.
2.2.2. Để tận dụng tốt cơ hội, vượt qua được thách thực trường cần những
biện pháp gì?
Qua việc đánh giá khác qua những cơ hội, thách thức trong quá trình hội nhập
cũng như nhìn nhận lại những thành tựu đạt được, những khó khăn mà trường Đại học
Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt gặp, giải pháp được nhóm đề xuất bao gồm
2 hướng: Quốc tế hóa ở sân nhà và quốc tế hóa ở nước ngoài.
Đầu tiên, quốc tế hóa sân nhà có thể hiểu đơn giản là mang môi trường quốc tế
về chính nơi tổ chức đào tạo của trường, bao gồm các hoạt động quốc tế hóa ngay trong
chương trình đào tạo, công tác giảng dạy và cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy. Các
chương trình quốc tế đầu tiên của trường bắt đầu từ năm 1998. Khi đó, liên kết đào tạo
quốc tế của trường chỉ bao gồm các hỗ trợ du học nước ngoài cho sinh viên. Thế nhưng,
như đã nêu ở phần các thành tựu mà trường đạt được, sau 2015, có hoạt động kiểm
duyệt chương trình đào tạo quốc tế của trường được đẩy mạnh. Cụ thể, trường liên tục
kiểm định và đạt được rất nhiều tiêu chuẩn đào tạo quốc tế như MOET, AUN-QA, ISO
9001:2008, ... Có thể thấy rằng, những hoạt động trên góp phần công nhận mức hiệu
lực của các văn bằng đào tạo của trường, góp phần hỗ trợ sinh viên trong hoạt động giáo
dục quốc tế hay chuyển giao hồ sơ học tập để tiếp tục học tập tại nước ngoài. Cụ thể,
trong điều kiện mức sống tại các nước khác trên thế giới ngày càng tăng cao, nhu cầu
du học toàn thời gian của sinh viên Việt Nam ngày càng ít do chênh lệch quá lớn về chi
phí sinh hoạt, học tập tại nước ngoài quá lớn so với Việt Nam. Đồng thời, yếu tố gia
đình cũng không cho phép nhiều sinh viên sống và học tập biệt lập trên một đất nước
xa lạ khác. Bên cạnh đó, trong tình hình dịch bệnh Covid 19 đang hoành hành, theo báo
cáo của Văn phòng Đào tạo Quốc tế OISP trong hội nghị sinh viên OISP 2021, số lượng
sinh viên trao đổi hiện đang giảm do sự khó khăn trong khâu thủ tục và vấn để sức khỏe.
Vì vậy, việc các văn bằng của trường tuy được đào tạo tại Việt Nam, nhưng lại được
công nhận tương đương hoặc một phần trên phạm vi quốc tế có ý nghĩa rất to lớn trong
quyết định học tập của người học trong tương lai, khi họ muốn thăng cấp bằng lên các

32
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

bậc đào tạo cao hơn như thạc sĩ, tiến sĩ tại các quốc gia khác trên thế giới hay xin việc,
định cư tại nước ngoài. Vì vậy, hiện tại, trường cần mở rộng thêm các hoạt động kiểm
duyệt, công nhận văn bằng theo các chuẩn quốc tế, góp phần nâng cao uy tín đào tạo
của trường. Cụ thể hơn, nhà trường có thể thông qua việc tổ chức các hội nghị sơ kết và
tổng kết về hợp tác quốc tế, để đánh giá được tính hiệu quả từ các chương trình hợp tác
quốc tế, giúp cán bộ giảng viên nâng cao ý thức về các hoạt động hợp tác quốc tế là một
trong những biện pháp chủ yếu để phát triển Nhà trường, góp phần quan trọng vào việc
nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học và giảng dạy của giảng viên. Đặc
biệt, văn phòng Đào tạo Quốc tế chủ động phối hợp với các đơn vị có liên quan xây
dựng một số quy định, quy trình và các cơ chế thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của một số chương trình giáo dục hợp tác quốc tế
tại Trường Đại học Bách Khoa. Sau khi đã nâng cao chất lượng đào tạo, trường có thể
đăng ký thẩm duyệt bởi các chương trình giáo dục quốc tế.
Ngoài ra, việc hỗ trợ các sinh viên ngoại quốc của các trường liên kết đang học
tại trường cũng vô cùng quan trọng, giúp họ yên tâm hơn trong việc lựa chọn Đại học
Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung là địa điểm học
tập. Điển hình, rất nhiều sinh viên từ các quốc gia như Philippines, Nigeria, Nhật, ...
hiện là sinh viên của trường. Đặc biệt hơn, trong bối cảnh Covid 19, trường Đại học
Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã có những thay đổi kịp thời theo xu hướng chung
của thế giới - dạy và trực tuyến. Việc chuyển đổi phương pháp dạy và học tuy vẫn còn
nhiều khó khăn, song đã đáp ứng kịp thời nhu cầu học tập của sinh viên Việt Nam cũng
như sinh viên quốc tế đang theo học tại trường. Bên cạnh đó, cần tăng cường định hướng
sinh viên theo các tiêu chuẩn quốc tế trên, góp phần xây dựng sinh viên Bách Khoa lối
sống và làm việc như một công dân quốc tế. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến quy trình
thực hiện các hoạt động mời chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy một số môn chuyên
ngành, tham dự hội thảo, trao đổi học thuật. Đưa ra quy định rõ ràng, cụ thể về cơ chế
quản lý, kiểm tra, giám sát và phân công giữa các đơn vị trong hoạt động hợp tác quốc
tế trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, cùng có lợi, cùng phát triển.
Do vậy, trong thực tiễn toàn cầu hóa đang khựng lại bởi bệnh dịch và các vấn đề
xã hội, trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh nên cân nhắc phương án
nâng cao hội nhập trong nội bộ trường. Góp phần nâng cao năng lực giảng dạy của đội

33
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

ngũ giáo viên, năng lực đầu ra của sinh viên và uy tín cũng như vị thế quốc tế của
trường.
Tiếp theo, liên kết chương trình quốc tế truyền thống ở đây có thể hiểu là thực
hiện hội nhập giáo dục theo cách truyền thống, bằng cách đưa sinh viên tham gia trực
tiếp quá trình đào tạo tại nước ngoài. Hiện tại, trường Đại học Bách Khoa Thành phố
Hồ Chí Minh hiện đang cung cấp 32 chương trình đào tạo quốc tế, liên kết với nhiều
trường thuộc nhiều quốc gia khác nhau như Nhật, Úc, Mỹ, New Zealand, Pháp,... Điển
hình nhất là chương trình kĩ sư Việt-Pháp (PFIEV) dành cho khoa Kỹ thuật Xây dựng
có liên kết với Đại học Khoa học ứng dụng Lyon – một trong những trường danh tiếng
nhất về đào tạo kỹ thuật của khối đại học quốc gia Pháp và trên thế giới. Tính đến năm
2020, trường đã và đang triển khai chương trình Liên kết Quốc tế cho các ngành: Khoa
học Máy tính, Kỹ thuật Máy tính, Kỹ thuật Điện – Điện tử, Kỹ thuật Cơ Điện tử, Kỹ
thuật Xây dựng, Kỹ thuật Dầu khí, Kỹ thuật Hóa học, Kỹ thuật Hóa Dược, Công nghệ
Thực phẩm, Kỹ thuật Môi trường, Quản trị Kinh doanh. Việc mở rộng các nhóm ngành
liên kết cũng góp phần hỗ trợ sinh viên trong việc lựa chọn ngành nghề cũng như quốc
gia để chuyển tiếp du học. Những chương trình này đều thuộc nhiều bậc đào tạo khác
nhau, bao gồm đại học, thạc sĩ, ... Có thể thấy rằng, những chương trình này cho phép
người học thoải mái định hướng tương lai cho bản thân. Đồng thời, các thủ tục pháp lý,
visa cũng được trường hỗ trợ thực hiện. Trong thời buổi toàn cầu hóa, sinh viên của
khối đào tạo quốc tế này đang tăng theo từng năm. Vì vậy, việc cải tiến hình thức đào
tạo này cũng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa giáo dục. Việc đầu
tư cho các khóa học học theo chương trình quốc tế hay các chương trình liên kết quốc
tế, đã mang đến cho sinh viên Việt Nam cơ hội được tiếp cận với chương trình học tiên
tiến của thế giới nhưng với mức phí không đắt đỏ như trực tiếp đi du học ở nước ngoài.
Để thực hiện được điều đó, Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh cần mở
rộng phương án chủ động thiết lập mối quan hệ với các trường đại học có uy tín trên
thế giới nhằm mở rộng hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi giảng viên và
sinh viên. Ngoài ra, nhà trường cần chủ động trong việc tham gia các hoạt động đối
ngoại, hợp tác quốc tế; chú trọng bồi dưỡng chuyên môn và trình độ ngoại ngữ cho đội
ngũ giảng viên và sinh viên tại trường; xây dựng các chương trình trao đổi sinh viên
quốc tế, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, chương trình Chất Lượng Cao

34
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

học 100% tiếng Anh hay các chương trình Việt – Pháp, Việt – Nhật được đào tạo và
giáo dục bằng song ngữ; tăng cường ký kết thỏa thuận hợp tác với các quốc gia trên thế
giới; mở rộng liên kết đào tạo với các trường đại học nước ngoài có uy tín. Đồng thời,
trường có thể liên kết với các trường thành viên qua hình thức trao đổi sinh viên, giảng
viên ngắn hạn. Đây là một hình thức đào tạo linh hoạt và lưu động hơn hình thức du
học toàn phần thông thường.
Ngoài ra, để hỗ trợ cho các giải pháp chính được nêu trên, việc quảng bá hình
ảnh trường cũng rất quan trọng. Hình thức thực hiện có thể bao gồm tổ chức các hội
nghị, hội thảo quốc tế; cập nhật thường xuyên các hoạt động hợp tác quốc tế trên các ấn
phẩm như: Báo cáo thường niên, Tạp chí khoa học, Tập san, ... Nâng cấp, phát triển
website của nhà trường cả về hình thức lẫn nội dung bằng song ngữ tiếng Việt và tiếng
Anh. Xây dựng hình ảnh nhà trường thông qua các video, clip, tờ rơi... được thể hiện
bằng nhiều thứ tiếng; để thu hút sự quan tâm của các cá nhân cũng như các tổ chức quốc
tế góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế của Đại học Bách Khoa Tp. Hồ Chí Minh.

35
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


Tóm lại, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thông qua công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hợp tác quốc tế, Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, mà cụ thể
là khoa OISP phải tăng cường chủ động phát triển liên kết với các trường đại học hàng
đầu trên toàn thế giới nhằm thúc đẩy hợp tác trong giáo dục và nghiên cứu khoa học.
Đồng thời, trường cũng như khoa có thể hỗ trợ về việc trao đổi giảng viên - sinh viên,
để tăng cường cơ hội được tiếp cận và trau dồi thêm những kiến thức khoa học công
nghệ tiên tiến từ các nước phát triển.
Bên cạnh đó, nhà trường phải chủ động tham gia các hoạt động đối ngoại và hợp
tác quốc tế; phải chú trọng phát triển kỹ năng nghề nghiệp và trình độ ngoại ngữ cho
giảng viên và sinh viên tại trường đại học; phải thiết lập các chương trình trao đổi sinh
viên quốc tế, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, chương trình cao học giảng
dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, hoặc chương trình Việt - Pháp, Việt - Nhật được đào tạo
và giáo dục hoàn toàn bằng tiếng Anh. đa ngôn ngữ; củng cố việc tạo dựng các thỏa
thuận hợp tác với các nước trên toàn thế giới; thiết lập kết nối đào tạo với các trường
cao đẳng nước ngoài hàng đầu. Đồng thời, trường có thể thiết lập mối quan hệ với các
trường thành viên thông qua hình thức trao đổi sinh viên và giảng viên ngắn hạn. Đây
là một phương pháp giáo dục dễ thích nghi và dễ vận chuyển hơn so với chương trình
du học toàn thời gian truyền thống.
Ngoài ra, để hỗ trợ các giải pháp chính nói trên, điều quan trọng là phải quảng
bá hình ảnh của trường. Các chiến lược thực hiện có thể bao gồm việc tổ chức các hội
nghị và hội thảo quốc tế; Cập nhật các hoạt động hợp tác quốc tế một cách thường xuyên
thông qua các ấn phẩm như báo cáo thường niên, tạp chí khoa học hoặc tạp chí. Tăng
cường và phát triển trang web của trường cả về thiết kế và nội dung thông qua việc sử
dụng song ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Phát triển hình ảnh của trường thông qua các
bộ phim, clip và tài liệu quảng cáo bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau; thu hút sự quan tâm
của cả các cá nhân và tổ chức quốc tế, góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế của Trường
Đại học Bách Khoa TP.HCM.

36
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

PHẦN KẾT LUẬN


Ở phần mở đầu của bài luận này, những mục tiêu cơ bản đã được đặt ra:
Một là, làm rõ những chủ trương của Đảng về thực hiện đối ngoại trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay;
Hai là, phân tích và làm rõ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục của
trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay;
Ba là, làm rõ những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện liên kết, hợp tác
quốc tế của Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm những thành tựu và
hạn chế;
Bốn là, đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả hợp tác quốc tế
trong giáo dục của trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau các quá trình phân tích và làm rõ, các vấn đề nêu trên có thể được khái quát,
tóm tắt lại như sau:
Về những chủ trương của Đảng về thực hiện đối ngoại trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng đã có tất nhiều đối
sách phù hợp với thực tiễn hiện tại của thế giới và đất nước. Điển hình, những cải cách
về hội nhập, quốc tế hóa đã gặt hái được rất nhiều thành công. Bên cạnh đó, các mục
tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo cũng rất cụ thể và rõ ràng, đáp ứng và phản ánh tất tính
thực tiễn của chủ trương về thực hiện đối ngoại trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đặt biệt, trong thời đại của công cuộc
phát triển 4.0, xu thế hợp tác phát triển, của các vấn đề nóng kinh tế, xã hội ở các cường
quốc và dịch bệnh Covid 19, Đảng đã có nhiều đối sách khôn kéo nhằm giữa vững châm
ngôn: sẵn sàng làm bạn và đối tác trên tinh thần hòa binh, tôn trọng độc lập chủ quyền
của nhau. Tuy những chính sách này có thể xuất hiện những hạn chế mới trong tương
lai khi tình hình toàn cầu hóa thay đổi, nhưng qua những thành tựu mà chủ trương hiện
tai mang lại, ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào Đảng về năng lực lãnh đạo cũng như
cương vị lãnh đạo duy nhất của dân tộc Việt Nam, kể cả trong thời đại mới
Về những chủ trương của trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh
về hợp tác và liên kết quốc tế trong giáo dục, như đã nêu trên, ở giai đoạn đầu, chủ

37
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

trương quốc tế hóa của trường chủ yếu chỉ xảy ra ở nước ngoài, tức du học. Tuy nhiên,
hiện nay, chủ trương này dần chuyển sang hướng quốc tế hóa ở sân nhà. Sự thay đổi
này giúp góp phần đem môi trường quốc tế về khuôn viên trường, giúp người học dễ
tiếp cận với môi trường này hơn. Đặc biệt, đây còn là một hướng ứng phó tốt cho đại
dịch Covid 19 khi du học là một vấn đề rất nan giải. Bên cạnh đó, để chứng minh tính
hiệu quả của chủ trương này, các thành tựu cũng được nêu ra song song với quá trình
phân tích. Tuy nhiên, những hạn chế, thách thức của chủ trương này cũng được làm rõ,
góp phần tạo nên bức tranh toàn cảnh, khách qua hơn về quốc tế hóa tại trường Đại học
Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh.
Về những đề xuất phát triển trong chủ trương hội nhập quốc tế của trường, thông
qua phân tích, làm rõ chủ trương quốc tế hóa, 2 hướng giải pháp được đề ra nhằm góp
ý thực hiện 2 chủ trương chính của trường kể từ khi hoạt động liên kết được khởi động:
Quốc tế hóa ở sân nhà và quốc tế hóa ở nước ngoài. Nhìn chung, cả 2 hướng phát triển
này đều cần được phát huy. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, quốc tế hóa ở sân nhà
vẫn là chính. Các giải pháp cho hướng đi này có thể được tóm lại bao gồm nâng cao
kiểm định giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất cho phù hợp với môi trường quốc tế, phát
triển định hướng sinh viên, giảng viên theo hướng quốc tế hóa. Bên cạnh đó, quốc tế
hóa ở nước ngoài cũng cần quan tâm ở mức độ nhất định. Để làm được việc này, các
chương trình liên kế du học cũng cần được mở rộng, các trao đổi ngắn hạn cũng là một
giải pháp tốt cho hướng đi này trong thời điểm hiện tại. Tóm lại, những giải pháp này
được đặt dựa trên góc nhìn của sinh viên. Do vậy, các giải pháp này tập trung chủ yếu
vào các nền tảng của 1 môi trường học tốt: quốc tế, thuận tiện và tiết kiệm.

38
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Ban chấp hành Trung ương (18/11/2016), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 07-
NQ/TW, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
[2] Ban Tuyên giáo Trung ương (01/09/2017), Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội
nhập quốc tế”, Ban Tuyên giáo Trung ương.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội.
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[11] Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
[13] Đặng Xuân Hoan (01/12/2020), Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế – từ góc độ quản lý nhà nước, Tạp chí Quản lý nhà nước.
[14] Doãn Chính (2015), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[15] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.1,4,9,12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39
GVHD: TS. Đào Thị Bích Hồng

[16] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[17] Lưu Ngọc Hải và Đặng Công Thành (16/12/2019), Đường lối đối ngoại của Đảng
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII - Một tầm cao mới, Báo điện tử Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
[18] Mạnh Hà và Quang Chuyên (09/02/2015), Nhận thức về đối tác, đối tượng trong
hội nhập quốc tế hiện nay, Tạp chí Quốc phòng Toàn dân.
[19] Ngọc Mai (21/01/2021), Nhận diện chính sách đối ngoại mới của Mỹ, Báo Thanh
Niên.
[20] Nguyễn Mạnh Hùng (18/02/2021), Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn
cầu hóa của Việt Nam, Tạp chí cộng sản
[21] Nguyễn Mạnh Hùng (22/04/2019), Giữ vững nguyên tắc chiến lược trong quan hệ
đối ngoại, Tạp chí Quốc phòng Toàn dân.
[22] Nguyễn Minh Trí (20/10/2020), Tiến bộ xã hội tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học
Xã hội Việt Nam, số 1 – 2020.
[23] Nguyễn Thị Tố Quyên (05/03/2018), Hội nhập quốc tế về kinh tế với ổn định
chính trị - xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị số 9.
[24] Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2000), Tiến bộ xã hội: Một số vấn đề lí luận
cấp bách, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[25] Nguyễn Trọng Nghĩa (07/01/2020), Xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn,
góp phần giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong hội nhập quốc tế,
Tuyên giáo – Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương.
[26] Nguyễn Xuân Phúc (26/11/2019), Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông,
giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực
mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, Tạp chí Cộng Sản.
[27] Nguyễn Xuân Thắng (01/03/2020), Tình hình thế giới, khu vực: Cơ hội và thách
thức đối với Việt Nam, Tuyên giáo – Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương.
[28] Phạm Văn Sơn (21/01/2021), Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao
hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Quốc phòng toàn dân.
[29] Phan Thị Hồng Nhung (27/11/2019), Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong
quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị.

40
Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

[30] Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê Việt Nam năm 2017, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
[31] V.I. Lênin (1981), Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
[32] Văn phòng Đào tạo Quốc tế (15/04/2021), Báo cáo Hội nghị sinh viên OISP 2021,
tài liệu nội bộ.
[33] Vũ Văn Hiền (04/10/2020), Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại theo cương lĩnh của
Đảng trong thời kì đổi mới, Tạp chí Cộng sản.
[34] http://www.gso.gov.vn, truy cập ngày 20/3/2022
[35] ttp://www.brandsvietnam.com/17031-32-nam-doi-moi-Viet-Nam-lot-Top-50-
nen-kinh- te-the-gioi, truy cập ngày 20/3/2022
[36] https://vass.gov.vn/tap-chi-vien-han-lam/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-
trong-boi-canh-cuc-dien-kinh-te-the-gioi-moi-20, truy cập 15/4/2022
[37] https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/ve-thuc-hien-co-hieu-qua-tien-trinh-hoi-
nhap-kinh-te-quoc-te-giu-vung-on-dinh-chinh-tri-xa-hoi-trong-boi-canh-nuoc-ta-
tham-gia-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-277250, truy cập
14/4/2022
[38] https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-
nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/duong-loi-
doi-ngoai-cua-dang-theo-tinh-than-nghi-quyet-dai-hoi-xii-mot-tam-cao-moi-
544967.html, truy cập 24/3/2022
[39] https://nhandan.com.vn/dang-va-cuoc-song/duong-loi-doi-ngoai-dai-hoi-xiii-voi-
khat-vong-phat-trien-cua-dat-nuoc-640738/, truy cập 24/3/2022
[40] https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/9943-quan-triet-nguyen-tac-
bao-dam-loi-ich-toi-cao-cua-quoc-gia-dan-toc-tren-co-so-cac-nguyen-tac-co-
ban-cua-luat-phap-quoc-te-binh-dang-cung-co-loi-trong-quan-he-doi-ngoai-thoi-
ky-hoi-nhap-quoc-te.html, truy cập ngày 05/04/2022
[41] http://hvctcand.edu.vn/tin-tuc/tin-tuc-khac/loi-ich-quoc-gia-dan-toc-viet-nam-
trong-boi-canh-toan-cau-hoa-hoi-nhap-quoc-te-1802, truy cập ngày 05/04/2022
[42] http://tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/bao-ve-loi-ich-quoc-gia-
dan-toc-theo-tinh-than-nghi-quyet-dai-hoi-xii-cua-dang/9223.html, truy cập ngày
05/04/2022.

41

You might also like