You are on page 1of 31

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA



BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI

QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA QUY LUẬT
ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY

LỚP L05 --- NHÓM 14 --- HK 221

NGÀY NỘP 02/12/2022

Giảng viên hướng dẫn: TS. An Thị Ngọc Trinh

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Đỗ Đặng Mỹ Trân 2110604
Cao Chu Minh Trí 1933007
Huỳnh Ngọc Bảo Trí 2112510
Lê Đức Trí 2115083
Võ Minh Trọng 2012300
Nguyễn Đức Anh Tuấn 2115177

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................4

PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................6

CHƯƠNG 1. QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT..................................6

1.1. Những khái niệm cơ bản....................................................................................6


1.1.1. Phương thức sản xuất...................................................................................6
1.1.2. Lực lượng sản xuất.......................................................................................7
1.1.3. Quan hệ sản xuất........................................................................................10
1.2. Nội dung của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất..........................................................................12
1.2.1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai thành tố cơ bản cấu thành
nên phương thức sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, ràng
buộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất xã hội.....................................................12
1.2.2. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết
định đối với quan hệ sản xuất...............................................................................12
1.2.3. Quan hệ sản xuất luôn có khả năng tác động ngược trở lại, đối với việc
bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất...............................13
1.2.4. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu
thuẫn biện chứng...................................................................................................14
1.3. Ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất...................................................................................15

CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY............................................................................................16

2.1. Khái quát về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.........................................16


2.2. Vai trò của khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công
nghiệp 4.0 hiện nay..................................................................................................17
2.3. Đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của khoa học công nghệ đáp
ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.........................................19

2
2.3.1. Những kết quả đạt được trong việc phát huy vai trò của khoa học công
nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.........................19
2.3.2. Những hạn chế nhất định trong việc phát huy vai trò của khoa học
công nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay................23
2.3.3. Những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế trong việc phát huy vai trò
của khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện
nay 26

KẾT LUẬN..................................................................................................................29

TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................30

3
PHẦN MỞ ĐẦU

 Tính cấp thiết của đề tài và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu:

Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước Đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VI năm
1986 đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương đổi mới phương thức quản lý
kinh tế và cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nước ta đã thực hiện đa
dạng hóa các hình thức phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn, trí tuệ và các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống
an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, chăm lo đời sống của người lao động. Bên cạnh đó,
Đảng và Nhà nước ta cũng có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường,
mở rộng hợp tác quốc tế; tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế
tri thức, văn minh của thế giới, kinh nghiệm quốc tế,… để phát triển, hiện đại hóa lực
lượng sản xuất và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Tuy nhiên, trong nhận
thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời
gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém,
xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Chúng ta phải thấy rằng, lực lượng sản xuất yếu kém sẽ tác động tới
quy định trình độ, chất lượng của quan hệ sản xuất; cũng như sự thiếu toàn diện, đồng
bộ trong xây dựng, hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất sẽ có ảnh hưởng đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại. Chính vì vậy, trong bối cảnh
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi
đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục
nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang là một yêu cầu cấp thiết. Nhận thức được tầm quan
trọng đó, nhóm chúng em đã chọn đề tài “Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ý nghĩa thực tiễn của quy luật
đối với việc phát huy vai trò của khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của Cách
mạng công nghiệp 4.0 hiện nay”.

 Mục đích nghiên cứu:

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Nhất là trong cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, khoa học công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố không thể thiếu
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì lẽ đó, trên cơ sở phân
4
tích quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, bài viết làm rõ
sự cần thiết của việc vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đánh giá ý nghĩa thực tiễn của việc vận dung quy
luật trong nhiệm vụ phát huy vai trò của khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của
Cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế.

 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Bài viết này tập trung làm rõ sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát huy vai trò của khoa học công nghệ đáp ứng yêu
cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0. Từ việc phân tích những đặc điểm của cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển cùa khoa học công nghệ trong những năm gần
đây để làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng trên vào việc phát huy vai trò của khoa
học công nghệ cũng như các giải pháp nhằm khắc phục hạn chế trong việc phát huy để
đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0.

 Phương pháp nghiên cứu:


Nhóm chúng em đã dựa trên phương pháp luận theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như thống kê, khảo sát, phân tích,
tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp lịch sử và lôgíc,… để nghiên cứu đề tài này.
Việc nghiên cứu đề tài không những giúp chúng em nâng cao nhận thức mà còn là
nguồn tài liệu bổ ích, đưa ra phương pháp luận khoa học phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu sau này.
 Kết cấu đề tài:
Đề tài thực hiện gồm 4 phần, đó là: Phần mở đầu, Phần nội dung, Kết luận, Tài
liệu tham khảo. Trong phần nội dung được chia làm hai chương: Quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (Chương 1) &
Ý nghĩa thực tiễn của quy luật đối với việc phát huy vai trò của khoa học công nghệ
đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay (Chương 2).

5
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1. Những khái niệm cơ bản

1.1.1. Phương thức sản xuất

 Phương thức sản xuất là gì?

Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất
định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng, đó là phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tương ứng. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ hai mối quan
hệ “song trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ giữa con người với tự
nhiên và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. “Người ta
không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt
động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có
những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên,
tức là việc sản xuất”.1 Do vậy, phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện
đồng thời sự tác động giữa con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với
người để sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những
giai đoạn lịch sử nhất định.

 Các phương thức sản xuất:

Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, xã hội loài người trải qua những phương
thức sản xuất khác nhau: phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy, phương thức
sản xuất châu Á, phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong
kiến, phương thức sản xuất tư bản, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, phương
thức sản xuất cộng sản.

 Phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội:

1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.552.

6
Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình
độ phát triển của nền sản xuất xã hội và do đó là với trình độ phát triển của đời sống xã
hội nói chung, chủ nghĩa Mac-Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại
theo lịch sử thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất.

Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất
yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ
ngày càng cao hơn: “Phương thức sản xuất Á Châu, Cổ đại, Phong kiến và Tư sản hiện
đại”,...

Tính chất tuần tự trong quá trình thay thế và phát triển các phương thức sản
xuất cũng chính là qui luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại
nhưng với mỗi cộng đồng xã hội nhất định, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan
mà có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan
xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước bỏ
qua một hoặc một vài phương thức sản xuất nào đó (với tư cách là phương thức sản
xuất có tính chất phổ biến, giữ vai trò chủ đạo) và tiến thẳng lên phương thức sản xuất
cao hơn.

Đó chính là sự biểu hiện tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát
triển của mỗi cộng đồng người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân
loại. Tuy nhiên, dù lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú, đa dạng
như thế nào, thậm chí có những giai đoạn phát triển phải trải qua những con đường
vòng nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo hướng chung là phát triển theo chiều hướng
đi lên từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao hơn

1.1.2. Lực lượng sản xuất

 Lực lượng sản xuất là gì?

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo
ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự
nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất
được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt
kinh tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao
động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ năng lực thực tiễn

7
dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy, lực lượng sản xuất là
một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ
(phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự
nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện
năng lực thực tiễn cơ bản nhất – năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.

Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và
năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. người lao động là chủ
thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn
lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất.. Ngày nay, tron nền sản xuất xã hội, tỷ
trọng lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.

Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức ản xuẩt, bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của
sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho
phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật
chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm
biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.
Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động
là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng vơi công cụ lao động mà con người sử
dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Công cụ lao
động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào
đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của
con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn”
giữa người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây là “khí quan”
của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử
dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò
quyết định đến năng suất lao động. Ngày nay, trong điều kiện cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang phát triển, công cụ lao động được tin học hóa, tự động hóa và
trí tuệ hóa càng có vai trò đặc biệt quan trọng. công cụ lao động là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh
tế - xã hội trong lịch sử; là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người
và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, C. Mác khẳng

8
định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì
mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”2.

 Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất:

Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động
và công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ
cao trò quyết định, bởi vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao
động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng
thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng
của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động bị
hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thì do bản chất sáng tạo của mình,
trong quá trình lao động người lao động không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí
lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động
là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc cảu sự phát triển sản
xuất. Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không
thể thiếu, trình độ phát triển của công cụ lao động là nhân tố quyết định năng suất lao
động xã hội. lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng
bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong
đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính khách quan.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của lực lượng sản xuất là kết quả cảu sự thống nhất
biện chứng giữa khách quan và chủ quan.

 Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:

Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ. Tính
chất của lực lượng sản xuất nói lên tính cá nhân hoặc tính xã hội hóa trong việc sử
dụng tư liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao
động và công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ
của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học
vào sản xuất; trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động và đặc biệt là trình độ
phân công lao động xã hội. Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất không tách rời nhau.

2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.269.

9
Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, C. Mác khẳng
định: “Tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ trực
tiếp”3 . Ngày nay trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học sản xuất ra của
cải đặc biệt, hàng hóa đặc biệt. Đó là những phát minh sáng chế, những bí mật công
nghệ, trở thành nguyên nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất. Hiện nay,
khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất đã được rút ngắn làm
cho năg suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh. Khoa học kịp thời giải quyết những
mâu thuẫn, những yêu cầu do sản xuất đặt ra; có khả năng phát triển “vượt trước” và
thâm nhập vào tất cả các yếu tố của sản xuất. Tri thức khoa học được kết tinh, “vật
hóa” vào người lao động, người quản lý, công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự
phắt triển của khoa học đã kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con
người.

Trong thời đại ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứu tư đang phát
triển, cả người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hóa, nền kinh tế của nhiều
quốc gia đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó sự sản sinh,
phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là công nghệ cao, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân
tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và trong đời sống xã hội. Lực lượng sản
xuất phát triển trong mối quan hệ biện chứng với sản xuất.

1.1.3. Quan hệ sản xuất

 Quan hệ sản xuất là gì?

Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng
nhất – quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Quá trình
sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất.

 Các quan hệ sản xuất:

3
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.46, ph.II, tr.372.

10
Quan hệ trong sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối
sản phẩm lao động.

Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa
vị kinh tế - xã hội của cá tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ quản
lý và phân phối. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung
tâm của quan hệ sản xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực
lượng xã hội nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết
định việc quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm.

Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc tổ chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này có vai trò quyết định
trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc
kiềm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngày nay, khoa học tổ chức quản lý
sản xuất hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu quả quá trình sản
xuất.

Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải
vật chất mà các tập đoàn người được hưởng. Quan hệ này có vai trò đặc biệt quan
trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người; là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ,
nhịp điệu sản xuất, làm năng động hóa toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Hoặc ngược
lại, có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.

Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi
phối, ảnh hưởng lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hũu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết
định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách
khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.

11
1.2. Nội dung của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất

1.2.1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai thành tố cơ bản cấu thành
nên phương thức sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, ràng
buộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất xã hội

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định
sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác động biện chứng,
trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác
động ngược trở lại lực lượng sản xuất. C. Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời
sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý
muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình
độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ” 4 . Nếu quan hệ
sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là
quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

1.2.2. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết
định đối với quan hệ sản xuất

Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng
động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của quá trình sản xuất, có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu
thuẫn biện chứng đó là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ sở khách
quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là do biện
chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người; do tính năng động và cách mạng của sự
phát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động là chủ thể sáng tạo, là lực
lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển lực lượng sản
xuất trong tiến trình lịch sử.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. lực lượng sản xuất vận động và phát triển
4
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.14-15.

12
không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan
hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triẻn của lực lượng sản
xuất trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất
yếu của nên sản xuất xã hội là phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển. C. Mác
đã nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi
các quan hệ xã hội: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng
sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản
xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa
lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản
công nghiệp”5 .

Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới
trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Bằng năng lực
nhận thức và thực tiễn, con người phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù
hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn.

1.2.3. Quan hệ sản xuất luôn có khả năng tác động ngược trở lại, đối với việc bảo
tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất

Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan
hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện
chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực
lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển 6. Sự phù hợp
bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; giữa các
yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự
phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người

5
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.
6
Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15.

13
lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong
sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.

Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt
đối mà chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phù hợp diễn ra trong
sự vận động và phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải
quyết mâu thuẫn. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định
mục đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực
thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều
hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy
mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học và công nghệ được áp dụng
nhanh chóng; người lao động nhiệt tình, hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động
được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không
phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó
chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.

1.2.4. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu
thuẫn biện chứng

Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình
độ cao hơn. C. Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các
lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện
có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những
hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng
xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã
hội”7.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác
động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội

7
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15.

14
loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản
xuất cộng sản nguyên thủy qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức
sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy
định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có những đặc điểm tác động riêng. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu phải thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dần dần loại trừ đối kháng xã
hội. Sự phù hợp không diễn ra “tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức
và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong xã hội xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến dạng” do nhận thức và vận dụng không
đúng quy luật.

1.3. Ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển
kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng
lao động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một
quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không
phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ
tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy tiện, chủ quan,
duy tâm, duy ý chí.

Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận
dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi
mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt
Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo quy luật này đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật

15
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY

2.1. Khái quát về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Thuật ngữ "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" đã được áp dụng cho sự phát
triển công nghệ quan trọng một vài lần trong 75 năm qua, và là để thảo luận về học
thuật. Khái niệm Công nghiệp 4.0 hay nhà máy thông minh lần đầu tiên được đưa ra
tại Hội chợ công nghiệp Hannover tại Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 2011.

Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự
tham gia của nhiều nước và trở thành một phần quan trọng của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.

Bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ
số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức
sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in
3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,...

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được gọi là Công nghiệp 4.0. Công nghiệp
4.0 tập trung vào công nghệ kỹ thuật số từ những thập kỷ gần đây lên một cấp độ hoàn
toàn mới với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy cập dữ liệu thời
gian thực và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng. Công nghiệp 4.0 cung
cấp một cách tiếp cận liên kết và toàn diện hơn cho sản xuất. Nó kết nối vật lý với kỹ
thuật số và cho phép cộng tác và truy cập tốt hơn giữa các bộ phận, đối tác, nhà cung
cấp, sản phẩm và con người. Công nghiệp 4.0 trao quyền cho các chủ doanh nghiệp
kiểm soát và hiểu rõ hơn mọi khía cạnh hoạt động của họ và cho phép họ tận dụng dữ
liệu tức thời để tăng năng suất, cải thiện quy trình và thúc đẩy tăng trưởng.

Công nghiệp 4.0 cho phép các nhà máy thông minh, sản phẩm thông minh và
chuỗi cung ứng cũng thông minh, và làm cho các hệ thống sản xuất và dịch vụ trở nên
linh hoạt và đáp ứng khách hàng hơn. Các thuộc tính của hệ thống sản xuất và dịch vụ
với Công nghiệp 4.0 đã được nêu bật. Những lợi ích mà Công nghiệp 4.0 mang lại cho

16
các doanh nghiệp đã được thảo luận. Trong tương lai, công nghiệp 4.0 dự kiến sẽ còn
phát triển mạnh mẽ hơn nữa và do đó các doanh nghiệp cần sẵn sàng để chuẩn bị cho
một sự đổi mình liên tục thể cập nhật các xu hướng hiện đại sắp tới...

2.2. Vai trò của khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp
4.0 hiện nay

Thứ nhất là, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Công nghiệp 4.0 đang giúp các công ty dễ dàng hợp tác và chia sẻ dữ liệu giữa
các khách hàng, nhà sản xuất, nhà cung cấp và các bên khác trong chuỗi cung ứng. Nó
cải thiện năng suất và khả năng cạnh tranh, cho phép chuyển đổi sang nền kinh tế kỹ
thuật số và cung cấp cơ hội để đạt được tăng trưởng kinh tế và bền vững.

Trong tương lai, sáng tạo công nghệ cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn từ phía
nguồn cung, với những lợi ích lâu dài về hiệu quả và năng suất. Chi phí giao thông vận
tải và thông tin liên lạc giảm xuống, hậu cần và các chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ trở nên
hiệu quả hơn, và các chi phí thương mại sẽ giảm, tất cả những điều đó sẽ giúp mở rộng
thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Kinh tế Việt Nam mặc dù đã và đang bị tác động nặng nề bởi đại dịch COVID-
19, nhiều lĩnh vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí có lĩnh vực tăng trưởng âm,
nhưng GDP vẫn có tốc độ tăng trưởng dương nhờ sự phát triển của kinh tế số.

Thứ hai là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Trong môi trường của Công nghiệp 4.0, tất cả các bên trong chuỗi cung ứng chia
sẻ dữ liệu từ các trang web sản xuất, phương tiện, kho hàng và cơ sở dữ liệu của họ
trong thời gian thực (real time). Real time POS (Point of Sale) và dữ liệu hàng tồn kho
được cập nhật liên tục để người dùng hiểu tình hình kinh doanh. Đơn đặt hàng khẩn
cấp của khách hàng có thể được cập nhật kịp thời và đáp ứng sự hài lòng của khách
hàng. Tình trạng và vị trí của sản phẩm có thể theo dõi và kiểm soát được. Chất lượng
sản phẩm được kiểm soát tốt hơn và hàng tồn kho được quản lý tốt hơn. Cài đặt thiết
bị được tự điều chỉnh dựa trên các vật liệu được sử dụng, sản phẩm được sản xuất và
các điều kiện môi trường khác. Sản phẩm sản xuất hàng loạt được tùy chỉnh theo nhu
cầu của từng khách hàng. Thiết bị có thể được giám sát từ xa và trục trặc có thể được
dự đoán chính xác. Dù loại hình kinh doanh là gì, công nghệ có thể kết nối khách

17
hàng, nhà cung cấp, đối tác, thiết bị sản xuất và sản phẩm trong suốt vòng đời của sản
phẩm và dịch vụ.

Tại Việt Nam, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và
dịch vụ những năm qua đã đạt những thành tựu tích cực, phát huy tốt lợi thế so sánh
của các ngành kinh tế. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam
đã xây dựng được cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút đầu tư, thu hút các
nguồn lực xã hội cho phát triển dài hạn và bền vững.

Thứ ba là, thúc đẩy nâng cao chất lượng, sự cạnh tranh của hàng hóa.

Công nghiệp 4.0 nâng cao khả năng cạnh tranh toàn cầu thông qua hợp tác và liên
minh các công ty. Có thể thấy rằng trong tương lai các sản phẩm sẽ không còn được
xây dựng bởi một công nhân mà bởi một robot hoặc lập trình viên.

Hình 1

Trong nhiều ngành công nghiệp, đang xuất hiện các công nghệ tạo ra những
phương thức hoàn toàn mới đáp ứng các nhu cầu hiện tại và phá vỡ đáng kể các chuỗi
giá trị công nghiệp hiện có. Sợ xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh sáng tạo, nhanh
nhạy, với việc tiếp cận các nền tảng kỹ thuật toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai, tiếp
thị, bán hàng và phân phối, có thể lật đổ những người đương nhiệm nhanh hơn bao giờ
hết bằng cách cải thiện chất lượng. tốc độ, hay giá cả đối với giá trị cung cấp.

18
Thứ tư là, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Giống như các cuộc cách mạng trước đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có
tiềm năng nâng cao mức thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng cuộc sống cho
người dân trên toàn thế giới. Cho đến nay, những người được hưởng lợi nhiều nhất là
người tiêu dùng có đủ khả năng sử dụng và truy cập vào thế giới kỹ thuật số. Công
nghệ đã giúp tạo các sản phẩm và dịch vụ mới có thể gia tăng hiệu quả và thỏa mãn
cuộc sống cá nhân của chúng ta. Tất cả việc như gọi taxi, đặt vé máy bay, mua sản
phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem phim, hay chơi trò chơi hiện đều có thể được thực
hiện từ xa thông qua mạng Internet.

2.3. Đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của khoa học công nghệ đáp ứng
yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay

2.3.1. Những kết quả đạt được trong việc phát huy vai trò của khoa học công
nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay

Một là, về Khoa học chính trị và kinh tế, đã và đang cung cấp các luận cứ sâu
sắc và kịp thời trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả
của hệ thống chính trị; bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, khẳng định con
đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của đất nước; đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế, chính trị
và xã hội; có nhiều đóng góp thiết thực trong việc bảo đảm sự ổn định chính trị của đất
nước trong điều kiện mới và đề xuất các chủ trương, chính sách lớn về hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền
kinh tế.

Hình 2. Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 30 năm dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử

19
Hai là, về Khoa học xã hội và nhân văn, đã phát triển hệ thống lý luận mới về
vai trò của văn hóa, lịch sử, con người và các nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững,
tác động vào quá trình thay đổi nhận thức và hành vi, bồi đắp trí tuệ của con người
Việt Nam trong xã hội hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc,
góp phần xây dựng các nền tảng của một xã hội văn minh và hội nhập với thế giới.

Hình 3.Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các đại biểu thực hiện nghi thức phát động nhắn tin “Toàn dân ủng hộ phòng,
chống dịch bệnh COVID-19”. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN

Ba là, về Khoa học tự nhiên, đã có tiến bộ vượt bậc về lượng và chất trong
những năm gần đây. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam tăng gần gấp
ba lần so với đầu nhiệm kỳ, bình quân hằng năm tăng trên 20%. Các nghiên cứu cơ
bản định hướng ứng dụng đã tạo ra nhiều kết quả nổi bật trong lĩnh vực hóa học, cơ
học, khoa học thông tin và máy tính, sinh học nông nghiệp, y sinh dược học; nhiều nhà
khoa học trẻ Việt Nam đã nhận được các giải thưởng khoa học danh giá trong nước và
quốc tế. Các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học trái đất và môi trường đã góp phần
nâng cao năng lực dự báo, phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí
hậu ở Việt Nam. Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên có đóng góp rất quan
trọng trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, đặc biệt là bậc sau
đại học; gia cố nền tảng, năng lực nghiên cứu và đội ngũ cán bộ khoa học tài năng
trong các trường đại học, viện nghiên cứu.

20
Một số trường đại học của Việt Nam đã đứng trong tốp 1000 trường đại học
xếp hạng cao trên thế giới. Với sự đầu tư đúng hướng của Nhà nước, chúng ta đã dần
tạo lập được môi trường học thuật tiên tiến và lành mạnh trong nước, thu hút nhiều nhà
khoa học trẻ được đào tạo ở nước ngoài về nước tiếp tục phát triển các trường phái
nghiên cứu tiên phong, hình thành được một số tập thể khoa học mạnh có trình độ
quốc tế. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ
thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.

Bốn là, về Khoa học kỹ thuật và công nghệ, đã phát triển lên một tầm cao mới
về năng lực và trình độ nghiên cứu, đóng góp ngày càng hiệu quả hơn cho phát triển
kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.

Các công nghệ chủ chốt của Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhanh chóng tiếp
thu, thúc đẩy ứng dụng trong các chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ. Trình độ công nghệ của nền sản xuất được cải thiện và nâng cao đáp ứng yêu
cầu sản xuất hàng hoá phục vụ trong nước và xuất khẩu.

Năm là, về Nông nghiệp, các nhà khoa học đã tạo được các giống cây trồng mới
có năng suất và chất lượng vượt trội so với khu vực và thế giới. Nhiều tiến bộ kỹ thuật
và quy trình công nghệ mới được ứng dụng rộng rãi trong trồng trọt, chăn nuôi, bảo
quản sau thu hoạch và chế biến, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Hình 4

Khoa học và công nghệ đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông
nghiệp, 38% sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các
nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, điều nhân.

21
Sáu là, về Công nghiệp và dịch vụ, các chuyên gia công nghệ trong nước đã đủ
năng lực thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng, giàn
khoan dầu khí tự nâng ở vùng nước sâu; thiết kế, thi công các loại cầu vượt sông khẩu
độ lớn, hầm đường bộ, nhà cao tầng, nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn.

Hình 5

Công nghệ thông tin và truyền thông thế hệ mới, công nghệ số được ứng dụng
rộng trong các ngành dịch vụ ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông. Nhiều
công nghệ cao như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, mạng di động 5G
đã và đang được phát triển. Hệ tri thức Việt số hóa - hệ sinh thái số do người Việt làm
chủ, có năng lực tích hợp mọi tri thức, thông tin, dữ liệu công cộng, tài nguyên số của
Việt Nam, sẽ được đưa vào sử dụng, phục vụ người dân và doanh nghiệp trong thời
gian tới.

Bảy là, về Quốc phòng và an ninh, đã thiết kế, chế tạo mới và cải tiến được
nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống
giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng.

Hình 6.85% vũ khí trang bị kỹ thuật


của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
là kết quả nghiên cứu trong nước, đáp
ứng các yêu cầu tác chiến.

22
Tám là, về lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhiều công nghệ
và kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao rõ rệt
chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí cho người dân và xã hội. Việt Nam
nằm trong tốp 3 nước ASEAN và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc xin, rất
thành công trong công tác phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao như ghép
tạng và đa tạng, thụ tinh nhân tạo, ứng dụng tế bào gốc và kỹ thuật sinh học phân tử,…

Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên cứu,
phát triển kit xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất robot,
máy thở, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị
COVID-19. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu giúp Việt Nam
kiểm soát và khống chế dịch bệnh, là minh chứng rõ nhất cho hiệu quả của sự đầu tư
kiên trì và chiến lược cho tiềm lực khoa học công nghệ nước nhà trong nhiều năm qua.

2.3.2. Những hạn chế nhất định trong việc phát huy vai trò của khoa học công
nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay

Một là, hạn chế về năng lực khoa học, công nghệ.

Hiện nay, Năng lực khoa học, công nghệ, sự đổi mới sáng tạo của chúng ta còn
hạn chế và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn non trẻ, manh mún.

Sau một thập kỷ thực hiện Chiến lược, các chỉ tiêu đầu vào của hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D) như số lượng các bài báo khoa học và số bằng sáng
chế đã cải thiện. Mặc dù không thể phủ nhận những nỗ lực lớn của các Bộ, ngành và
các cơ quan có liên quan, tuy nhiên, các chỉ tiêu đầu vào và chỉ tiêu đầu ra liên quan
đến hoạt động nghiên cứu và phát triển dường như có tác động rất ít tới cải thiện năng
suất và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

Vẫn còn ít hoạt động đổi mới sáng tạo và nghiên cứu và phát triển (R&D) trong
khu vực kinh doanh. (Theo Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và
Công nghệ), số lượng DN nhận thức được sự cần thiết của việc đầu tư R&D đang
chiếm tỷ lệ thấp. Một số DN trích lập Quỹ phát triển KHCN hàng năm, nhưng không
dùng đến, sau đó phải hoàn nhập. Theo số liệu do Tổng cục Thuế cung cấp năm 2019

23
cho thấy: cả nước có 138.139 DN thành lập mới, tăng 5,2% so với năm 2018, nhưng
số DN trích lập Quỹ lại giảm từ 181 DN (năm 2018) chỉ có 164 DN (năm 2019).
Trong top 10 DN có số trích lập và sử dụng Quỹ nhiều nhất, thì 70% là thuộc khối DN
nhà nước)8.

Sự hạn chế của nguồn lực R&D thể hiện qua số lượng các nhà nghiên cứu tính
trên một triệu dân. Tỉ lệ nhân lực làm R&D trên dân số của Việt Nam tương đối thấp
so với các quốc gia khác, tỉ lệ này chỉ tương đương 20% so với tỷ lệ trung bình của
khu vực EU, tương đương 7,6% của Hàn Quốc, tương đương 29,8% của Malaysia,
tương đương 58% của Thái Lan. Nguồn nhân lực R&D của Việt Nam chủ yếu đến từ
khu vực nhà nước (84,13%), trong khi khu vực ngoài nhà nước chiếm 13,8%9.

Đánh giá quá trình thực hiện chiến lược vẫn chưa như kỳ vọng và mục tiêu đặt
ra. Khoa học và công nghệ vẫn chưa thực sự là động lực cải thiện năng suất và năng
lực cạnh tranh để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Thiếu một giải pháp đủ khả thi để khuyến khích các doanh nghiệp và đầu tư tư
nhân vào hoạt động nghiên cứu, đổi mới, ứng dụng khoa học, công nghệ. Cải cách cơ
chế quản lý khoa học và công nghệ đặc biệt là về tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
và sử dụng nhân tài - tiến triển chậm. Năng lực của các nhà khoa học còn hạn chế,
thiếu những nhà khoa học hàng đầu; số lượng bằng sáng chế và số lượng tác phẩm
được công bố trên các tạp chí quốc tế có danh tiếng bị hạn chế.

Hai là, Khoa học, công nghệ lạc hậu.

Việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp chưa
được tiến hành đồng bộ. Máy móc thiết bị đưa vào sản xuất còn lạc hậu so với thế giới.

Tại hội thảo “Tăng cường công tác truyền thông khoa học và công nghệ đối với
phóng viên, biên tập viên báo chí khu vực phía Nam” Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa
học và công nghệ Nguyễn Quân (nhiệm kỳ 2011 - 2016) đã nhìn nhận công nghệ Việt
Nam đang sử dụng rất lạc hậu. Cụ thể hơn, ông cho biết theo đánh giá của Phòng
Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam
sử dụng lạc hậu so với thế giới vào khoảng 30 năm, và khoảng cách so với khu vực
cũng vài chục năm. Trong khi đó hiện nay một vòng đời công nghệ vào khoảng 10
8
https://kinhtevadubao.vn/hoat-dong-nghien-cuu-va-phat-trien-trong-doanh-nghiep-viet-nam-thuc-trang-va-giai-
phap-23428.html
9
https://baochinhphu.vn/dau-tu-vao-rd-tai-viet-nam-can-su-vao-cuoc-hon-nua-cua-cac-dn-lon-102299707.htm

24
năm, nghĩa là sau khoảng một thập niên sẽ có một thế hệ công nghệ mới ra đời. Với
tốc độ phát triển này của công nghệ, Việt Nam lạc hậu đến 2-3 thế hệ công nghệ so
với thế giới.

Việc sử dụng những công nghệ lỗi thời, lạc hậu cũng có thể gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường như vụ việc Công ty Formosa Hà Tĩnh đầu độc môi
trường biển bốn tỉnh miền Trung do sử dụng công nghệ không đúng với cam kết; hay
một nhà máy ở Hậu Giang mỗi ngày sử dụng 20.000 m3 nước sông Hậu, thải ra môi
trường 20.000 m3 nhưng chỉ xử lý được 20%.

Giá rẻ là lý do đầu tiên mà các doanh nghiệp đưa ra để biện bạch cho quyết
định đầu tư này. Cùng một loại thiết bị như nhau nhưng dây chuyền của Trung Quốc
có giá chỉ bằng 1/3 so với của Nhật Bản hay châu Âu. Thêm nữa, các địa phương khi
phê duyệt dự án đầu tư, kể cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, thường không
tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, Sở Khoa học - Công nghệ, cho nên không
đánh giá được trình độ công nghệ của dự án hay dây chuyền thiết bị được nhập khẩu.
Chỉ đến khi những dây chuyền thiết bị này hoạt động gây ô nhiễm môi trường, không
hiệu quả, lúc ấy người ta mới nhớ đến các nhà khoa học.

Ba là, chi tiêu cho khoa học công nghệ còn thấp.

Chi tiêu cho khoa học công nghệ của Việt Nam hiện nay chỉ khoảng 0,44%
GDP, khá thấp so với bình quân của thế giới là 2,23% GDP (Thái Lan 0,78%;
Singapore 2,2%; Malaysia 1,3%, Trung Quốc 2,1%).

Việt Nam chưa có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng hệ
thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều
cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhưng chưa thể đáp
ứng được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu tư
tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ
0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những
thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được
nâng lên dần, nhưng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư
không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN và môi trường thì đầu tư tài chính cho kha
học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân
hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.000
25
USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nước
trong khu vực châu Á .

Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí
nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt
động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà không thể tạo ra được
thành quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu không có các chính sách điều chỉnh, các cơ
quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ
nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm
huyết.

2.3.3. Những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế trong việc phát huy vai trò của
khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện
nay

Một là, nâng cao năng lực khoa học công nghệ.

Để nâng cao năng lực khoa học công nghệ chúng ta cần phải thúc đẩy nghiên
cứu và phát triển khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng kết hợp với phát triển công nghệ
trong một số ngành, lĩnh vực mới có thế mạnh. Đặc biệt cần thúc đẩy nghiên cứu và
giảng dạy về khoa học công nghệ ở các cơ sở giáo dục, các doanh nghiệp. để thúc đẩy
nghiên cứu khoa học c thì các chính sách, thể chế cũng cần đổi mới theo hướng xóa bỏ
các rào cản hành chính để giảm thời gian làm thủ tục giấy tờ, tạo động lực thu hút
người trẻ say mê với khoa học; cần bảo đảm tính công bằng và minh bạch trong xét
duyệt đề tài nghiên cứu và xem xét lại quy trình nghiệm thu đề tài với mục tiêu là hiệu
quả nghiên cứu. Cải tiến thủ tục xét duyệt đề tài theo hướng đặt hàng hằng năm và liên
kết các đơn vị sử dụng (doanh nghiệp, tổ chức) và các cơ quan nghiên cứu.

Các bộ, ngành, các địa phương cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong chỉ
đạo phát triển khoa học công nghệ, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính
sách. Chủ trương đổi mới cơ chế tài chính và quản lý hoạt động khoa học - công nghệ
đã được khẳng định trong Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31-10-2012 Hội nghị Trung
ương 6 khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển khoa học và công
nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

26
Tập trung hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với doanh nghiệp là
trung tâm, gắn kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp
nhằm kiến tạo và tích lũy tài sản trí tuệ, tạo ra nguồn lực mới cho tăng trưởng kinh tế
nhanh, bao trùm và bền vững.

Hai là, xóa bỏ công nghệ lạc hậu.

Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng
tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập
khẩu công nghệ mới.

Để ngăn chặn nguy cơ Việt Nam trở thành bãi rác công nghệ, ông Ngô Đức
Mạnh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đề nghị quy định chặt chẽ việc
chuyển giao công nghệ gắn với đảm bảo môi trường. Đồng thời, bổ sung quy định về
trách nhiệm của hội đồng thẩm định trong việc chuyển giao công nghệ. Theo đó, nếu
công nghệ được chấp thuận nhưng sau này phát hiện sự lạc hậu, gây ô nhiễm môi
trường thì hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm. Đồng thời, ông cũng chỉ ra là
công nghệ vào Việt Nam không chỉ bằng con đường đầu tư mà còn qua vay vốn ODA,
ưu đãi tín dụng. Vì khi vay vốn chúng ta thường bị ràng buộc phải sử dụng công nghệ
của quốc gia cho vay. Do đó, cần giám sát chặt công nghệ không chỉ đối với các dự án
đầu tư nước ngoài mà còn từ nguồn vốn ODA và các hợp đồng tín dụng khác.

Ngoài ra cũng cần để doanh nghiệp mở rộng đầu tư, sẵn sàng rót tiền mua sắm
trang thiết bị, công nghệ sản xuất mới... trước hết cần làm cho doanh nghiệp có niềm
tin vào chính sách, trong đó tính ổn định và yếu tố khuyến khích rất quan trọng.

Xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình khoa học và công nghệ cấp
quốc gia, cấp doanh nghiệp phục vụ đổi mới hiện đại hóa công nghệ khai thác và chế
biến khoáng sản; đẩy mạnh thực hiện cơ chế đối tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện
nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Đào tạo nâng cao trình công quản lý, trình độ khoa
học và công nghệ, nâng cao tay nghề cho các cán bộ quản lý và người lao động trong
các doanh nghiệp... Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và phát triển công
nghệ.

Ba là, tăng chi tiêu cho khoa học công nghệ.

27
Theo Tiến sĩ Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh
nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là
một xu hướng tất yếu, đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.

Cần phải đầu tư phát triển các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại một số
thành phố lớn và khu vực kinh tế trọng điểm, kết nối liên thông với hệ thống các trung
tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn
giao dịch công nghệ khu vực và thế giới.

Đẩy mạnh việc xúc tiến thị trường khoa học và công nghệ tại các địa bàn có
nhiều nguồn cung công nghệ cao, tiên tiến và thân thiện môi trường, các thị trường
tiềm năng mà Việt Nam có lợi thế thông qua các hiệp định thương mại tự do. Tăng
cường tổ chức các sự kiện xúc tiến thị trường khoa học và công nghệ quy mô vùng,
quốc gia và quốc tế; quảng bá thị trường khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo;
lồng ghép, phối hợp với các sự kiện xúc tiến thương mại và đầu tư với xúc tiến thị
trường khoa học và công nghệ.

Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường khoa học và công
nghệ, đẩy mạnh kết nối trung ương với địa phương, viện, trường với doanh nghiệp và
người dân. Từng bước liên thông, tích hợp với các nền tảng kỹ thuật về thị trường
khoa học và công nghệ trong nước và quốc tế.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ.
Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí,
vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của thị trường khoa học và công nghệ. Phát triển các
doanh nghiệp tiên phong trong mua bán công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ
nguồn.

Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ lõi thông qua
các viện nghiên cứu, trường đại học để giải mã, hấp thụ và làm chủ công nghệ, đẩy
nhanh tốc độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.

Xây dựng chính sách khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển cơ
sở dữ liệu lớn, chia sẻ dữ liệu, thông tin để đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái khoa học
và công nghệ, khởi nghiệp một cách toàn diện và đồng bộ.

28
KẾT LUẬN

Một là, qua quá trình nghiên cứu đề tài, có thể thấy rằng lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời
nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản
nhất của sự vận động, phát triển xã hội.

Hai là, sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được
điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Chỉ có sự thích ứng, phù hợp đó của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất mới có
thể tiếp tục phát triển.

Ba là, có thể thấy rằng khoa học công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát
triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực; vì vậy mang đến những cơ hội và thách
thức đối với sự phát triển khoa học công nghệ. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có
chiến lược phát triển khoa học, công nghệ phù hợp với xu thế trên thế giới trong bối
cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Bốn là, để phát huy vai trò của khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của cách
mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, chúng ta cần tận dụng có hiệu quả những thời cơ của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra; đồng thời tiến hành toàn diện, đồng bộ nhiều
giải pháp cụ thể như:

i) Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học công nghệ, trường đại học
cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên
tiến của thế giới.

ii) Chú trọng đào tạo nhân lực về mặt công nghệ và tri thức mới cũng như xây
dựng một môi trường hỗ trợ sáng tạo.

iii) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, mở rộng thị
trường hoạt động khoa học công nghệ.

Đó chính là những kết quả mà chúng em thu được qua việc nghiên cứu đề tài
trên. Chúng em cũng thấy rằng việc nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn quy
luật có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ
nhanh, bền vững; giúp đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục & đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
2. TS. Lê Thị Chiên (2021), Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và bổ
sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản,
Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
3. ThS. Trần Anh Chung (24/10/2020), Giải pháp tài chính thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Truy cập từ
https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/giai-phap-tai-chinh-thuc-day-chuyen-
dich-co-cau-kinh-te-nganh-trong-cach-mang-cong-nghiep-40-329070.html
4. Ts Phùng Văn Hiền (25/09/2017), Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học. Truy cập từ
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dao-tao-boi-duong/item/2187-mot-so-
giai-phap-nang-cao-chat-luong-hoat-dong-nghien-cuu-khoa-hoc-trong-cac-co-
so-giao-duc-dai-hoc.html
5. Đặng Hiếu (24/10/2021), Phát huy lợi thế cách mạng công nghiệp 4.0, giải
quyết việc làm trong bối cảnh dịch bệnh. Truy cập từ
https://dangcongsan.vn/cung-ban-luan/phat-huy-loi-the-cach-mang-cong-
nghiep-40-giai-quyet-viec-lam-trong-boi-canh-dich-benh-594868.html
6. Hiền Hòa (28/01/2021), “Phát huy vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới
sáng tạo. Truy cập từ https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/phat-huy-vai-tro-
cua-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-573755.html
7. Minh Khoa (2/10/2018), Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là gì, Truy cập từ
http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/cuoc-cach-mang-cong-
nghiep-4-0-la-gi-4319
8. TS. Lê Minh Nghĩa (15/11/2019), Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (phần 1). Truy cập từ
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/gia-tri-cot-loi-cua-chu-nghia-mac-lenin-
ve-moi-quan-he-giua-luc-luong-san-xuat-va-quan-he-san-xuat--phan-1.html
9. PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc & ThS Nguyễn Thị Thanh Hà (26/10/2020),
Nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ
thực tiễn Việt Nam. Truy cập từ
30
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3266-nhan-
thuc-ro-hon-moi-quan-he-giua-luc-luong-san-xuat-va-quan-he-san-xuat-tu-
thuc-tien-viet-nam.html
10. Nguyễn Thị Phương (2016), Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí khoa học và công
nghệ, Tập 4, Số 2, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế
11. Quốc Thanh & Mỹ Dung (26/08/2015), Công nghệ VN lạc hậu 2 - 3 thế hệ...
Truy cập từ https://tuoitre.vn/cong-nghe-vn-lac-hau-2-3-the-he-958437.htm
12. Hải Vân (24/05/2019), Phát huy vai trò của khoa học và công nghệ trong phát
triển kinh tế nhanh, bền vững. Truy cập từ
https://www.tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/55000/phat-huy-vai-tro-cua-
khoa-hoc-va-cong-nghe-trong-phat-trien-kinh-te-nhanh%2C-ben-vung.aspx

31

You might also like