You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC

˜&™

BÀI TIỂU LUẬN


Môn học: Triết học Mác – Lênin

Đề tài: Từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, phân tích vai trò của người lao động trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0

Sinh viên thực hiện : Hà Quang Phú


Mã sinh viên : 11214679
Lớp chuyên ngành : Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực 63
Khoá : 63
Lớp học phần : LLNL1105(221)_16
Giảng viên hướng dẫn : Nghiêm Thị Châu Giang

Hà Nội - 05/2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 2

I. LÝ LUẬN CHUNG ......................................................................................... 4

I.1: Lực lượng sản xuất .................................................................................. 4

I.1.1: Khái niệm lực lượng sản xuất ............................................................. 4

I.1.2: Kết cấu lực lượng sản xuất ................................................................. 4

I.2: Quan hệ sản xuất...................................................................................... 5

I.2.1: Khái niệm quan hệ sản xuất ................................................................ 5

I.2.2: Kết cấu quan hệ sản xuất .................................................................... 5

I.3: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ................................................................................................. 7

I.3.1: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
...................................................................................................................... 7

I.3.2: Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất. . 7

I.3.3: Sự tác động ngược trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất ............................................................................................................... 8

II. VẬN DỤNG: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ................................... 10

II.1: Yếu tố tri thức ....................................................................................... 10

II.2: Yếu tố kỹ năng và kỹ xảo ..................................................................... 12

II.3: Yếu tố khoa học kỹ thuật – công nghệ ................................................ 14

KẾT LUẬN........................................................................................................ 16

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 17

1
LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên toàn cầu đang diễn ra mạnh
mẽ hơn bao giờ hết. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mở ra một kỷ
nguyên hoàn toàn mới, ở đó hàng loạt những máy móc tối tân cùng hàng loạt công
nghệ tiên tiến ra đời thay thế cho sức lao động của con người - vốn từ lâu đã là
hạn chế trong các hoạt động sản xuất do bị cản trở về mặt giới hạn sinh học. Cuộc
cách mạng này tạo ra những biến chuyển tích cực trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội từ nông nghiệp đến công nghiệp, dịch vụ. Song bên cạnh đó, chúng ta
không thể phủ nhận rằng lực lượng sản xuất, đặc biệt là người lao động, đóng vai
trò rất quan trọng và gần như không thể thiếu đối với mọi quá trình sản xuất vật
chất.

Tuy nhiên, để người lao động có thể giữ vững được vai trò của bản thân
trong hoạt động sản xuất thì buộc họ phải “vận động” sao cho trước hết là thích
nghi với bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp hoá hiện đại hoá, sau đó làm
chủ hoàn toàn và cuối cùng là tiến lên hình thái quan hệ sản xuất cao hơn thúc đẩy
tiến trình phát triển của lịch sử để phù hợp với trình độ của lực lượng lao động nói
chung. Điều này cũng giải thích cho sự phát hiện vĩ đại mang tính bước ngoặt của
C.Mác trong lịch sử triết học của nhân loại: đó là phát hiện chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Bằng lập trường duy vật về lịch sử và phương pháp luận biện chứng, Mác đã
tìm ra quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Với cống hiến này, lần đầu tiên lịch sử được nhận thức và lý giải đúng như
bản thân nó, khách quan và chân thực.

Có thể thấy rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương thức sản
xuất, không loại trừ một quốc gia dân tộc nào. Điều đó đòi hỏi chúng ta muốn
phát triển kinh tế đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì người lao
động phải nhận thức đúng vai trò của bản thân trong quá trình sản xuất vật chất
và biết bản thân cần hành động như thế nào để phù hợp với quy luật khách quan.

2
Thấy được vị trí và ý nghĩa của thực trạng, em mạnh dạn đưa ra nhận định của
mình về đề tài: “Từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, phân tích vai trò của người lao động trong cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0”.

Do kiến thức của em vẫn còn hạn chế nên trong quá trình làm bài vẫn còn
nhiều sai sót khó tránh khỏi, rất mong cô có thể góp ý để bài làm của em có thể
trở nên tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô !

3
I. LÝ LUẬN CHUNG

I.1: Lực lượng sản xuất

I.1.1: Khái niệm lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của
giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.

I.1.2: Kết cấu lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ
thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản
xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hoá” tạo ra sức
sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các
thời kỳ nhất định.

Người lao động không chỉ bao gồm công nhân trực tiếp, mà còn gồm cả
công nhân gián tiếp và các nhà quản lý. Cùng với quá trình phát triển của khoa
học, kỹ thuật và công nghệ, tỷ lệ đội ngũ công nhân gián tiếp ngày càng tăng lên.
Khoa học kỹ thuật là một bộ phận của lực lượng sản xuất; là cái cốt lõi, yếu tố
quyết định trình độ của lực lượng sản xuất.

Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì ở đâu và bất cứ lúc nào người
lao động cũng là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất. C.Mác cho rằng
mỗi thế hệ con người bao giờ cũng nhận được những lực lượng sản xuất ấy do thế
hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho hoạt động sản xuất mới.
C.Mác kết luận: “... Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát
triển cá nhân của những con người”.

Tư liệu sản xuất là những điều kiện cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm
tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là cái mà lao động tác
động vào, cải biến nó thành vật phẩm có ích. Tư liệu lao động là những vật mà
con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động. Tư liệu lao động có hai

4
loại: loại tác động trực tiếp vào đối tượng lao động gọi là công cụ lao động, loại
tác động gián tiếp vào đối tượng lao động gọi là phương tiện sản xuất.

Trong các bộ phận của tư liệu lao động thì công cụ lao động có một vai trò
đặc biệt quan trọng vì nó làm tăng khả năng hoạt động có hạn của con người, công
cụ lao động là cái để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đánh giá
sự phát triển của các thời đại kinh tế không đánh giá thời kỳ ấy sản xuất ra sản
phẩm gì mà đánh giá thời kỳ ấy sản xuất bằng công cụ gì. Mác viết: “Những thời
đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng
sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”.

I.2: Quan hệ sản xuất

I.2.1: Khái niệm quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất.

I.2.2: Kết cấu quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan
hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi và quan hệ trong phân phối sản
phẩm lao động:

Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan
hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm, đặc trưng cho quan hệ
sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết
định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi và quan hệ phân
phối sản phẩm, cũng như các quan hệ xã hội khác.

Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc tổ chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này
5
có vai trò quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản
xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản
xuất xã hội. Ngày nay, khoa học tổ chức quản lý sản xuất hiện đại có
tầm quan trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.

Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập
đoàn người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách
thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng.
Quan hệ này có vai trò đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích
con người; là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất
làm năng động hoá toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Hoặc ngược lại, có
thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.

Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại,
chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình
thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi
quan hệ xã hội. Quan hệ sản xuất còn là một mặt của phương thức sản xuất, nếu
lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng” của sản
xuất vật chất, thì quan hệ sản xuất biểu hiện mặt thứ hai của quan hệ đó, tức là
quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.

Một xã hội cụ thể thường bao gồm ba loại quan hệ sản xuất cơ bản là: quan
hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất
mầm mống của xã hội tương lai; trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng
giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung
của đời sống kinh tế - xã hội và tạo ra cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, để phân
biệt xã hội này với xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ
sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định và có sự tác động trở lại quan hệ
sản xuất đóng vai trò chủ đạo.

6
I.3: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất

I.3.1: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một
trong những nguyên lý cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là quan hệ
cơ bản của toàn xã hội, quyết định sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài
người. Lực lượng sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực
lượng sản xuất. C. Mác đã viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình,
con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của
họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ
phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ”.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai thành tố cơ bản cấu thành
phương thức sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc lẫn
nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Mỗi phương thức sản xuất hay quá trình sản
xuất xã hội không thể tiến hành được nếu thiếu một trong hai thành tố trên; trong
đó, lực lượng sản xuất chính là nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá
trình này, còn quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được điều
chỉnh, thay đổi cho phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Chỉ có sự thích ứng, phù hợp đó của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất
mới có thể tiếp tục phát triển. Đây cũng là quy luật cơ bản nhất của sự vận động
và phát triển xã hội.

I.3.2: Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất.

Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể
hiện trên hai mặt thống nhất với nhau: lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất

7
đó và cũng do đó mà khi lực lượng sản xuất thay đổi thì cũng tất yếu đòi hỏi phải
có những thay đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất.

Mọi sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất đều bắt đầu từ sự
biến đổi của lực lượng sản xuất. Bởi lẽ lực lượng sản xuất là nội dung của quá
trình sản xuất có tính năng động, cách mạng thường xuyên vận động và phát triển;
bên cạnh đó, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất, mang
tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng đó lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Khi sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt
đến một trình độ nhất định thì sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có
và xuất hiện yêu cầu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Cơ sở khách quan quy định cho sự vận động và phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất là do biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người; do tính
năng động và cách mạng của sự phát triển công cụ lao động; do vai trò của người
lao động là chủ thế sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách
quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.

I.3.3: Sự tác động ngược trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có
tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất, vì vậy quan hệ sản xuất có thể
tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quá trình tác động trở lại của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra với hai khả năng: tác động tích cực hoặc
tác động tiêu cực. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với nhu cầu khách quan bảo tồn,
khai thác, sử dụng và phát triển của lực lượng sản xuất thì có tác động tích cực,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nếu không phù hợp với nhu cầu
khách quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động tiêu cực, kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong
những giới hạn, với những điều kiện nhất định.

8
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu
thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai mặt đối lập. Sự vận động
của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi từ sự
thống nhất đến mâu thuẫn và một khi mâu thuẫn được giải quyết thì tái thiết lập
sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử, tạo ra quá trình vận
động phát triển của phương thức sản xuất. C. Mác đã khẳng định: “Tới một giai
đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi
đó bắt đầu một cuộc cách mạng xã hội.

Sở dĩ lực lượng sản xuất phát triển không ngừng trong khi đó quan hệ sản
xuất lại có tính ổn định tương đối, vì nó gắn với các thiết chế xã hội, lợi ích của
giai cấp cầm quyền. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất
xã hội của nó. Chính vì thế mà C.Mác đã khẳng định: “Tổng hợp lại thì những
quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội,
và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển 16 lịch sử nhất
định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến,
xã hội tư bản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó
đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”.
Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thúc đẩy xã
hội loài người phát triển không ngừng như một quá trình lịch sử - tự nhiên

9
II. VẬN DỤNG: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

Xuất phát từ cơ sở lý luận đã phân tích trên quan điểm và nghiên cứu của
C. Mác, xét đến cùng, mọi sự thay đổi của đời sống xã hội đều bắt nguồn từ sự
biến đổi của lực lượng sản xuất mà trong đó, người lao động là lực lượng sản xuất
cơ bản nhất, quyết định nhất. Nhờ có sự tiến bộ của lực lượng sản xuất, con người
đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp, hiện đang tiến tới hoàn thiện và phát
triển trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư bùng nổ và đánh dấu sự xuất hiện của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo đã đưa
toàn thế giới bước vào kỷ nguyên công nghiệp hoá, hiện đại hoá mọi mặt. Vì vậy
vai trò người lao động trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 chắc chắn sẽ có
những thay đổi con người, bên cạnh việc đơn thuần tham gia vào việc sản xuất
vật chất, người lao động còn cần phải trau dồi tri thức và học hỏi thêm kĩ năng
chuyên môn, phát huy những kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng thành thạo các thành tựu
của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ,..

II.1: Yếu tố tri thức

Khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, trước hết người lao động sử
dụng sức mạnh cơ bắp. Tuy nhiên, nếu chỉ tiến hành sản xuất bằng sức mạnh thể
chất thuần tuý thì con người sẽ không thể tiến xa hơn động vật. Bởi vì con người
là một sinh vật xã hội nên bên cạnh sức mạnh cơ bắp, con người còn sở hữu trí
tuệ, ý thức và hoạt động tâm sinh lý do đó, quá trình lao động của con người luôn
khéo léo, linh hoạt và sáng tạo hơn. Đây cũng chính là điều tạo nên sự khác biệt
giữa con người và máy móc. Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khi mà hàng
loạt máy móc và sản phẩm trí tuệ nhân tạo mới ra đời giúp con người thực hiện
được những công việc nặng nhọc hay những công việc cần tính chính xác cao, đối
với người lao động mà nói, yếu tố tri thức càng trở nên quan trọng hơn. Vì nếu
không trau dồi tri thức mà cứ dậm chân tại chỗ, dần dần máy móc sẽ thay thế
người lao động từ đó mất đi cơ hội việc làm thậm chí mất đi vai trò chính trong
10
quá trình sản xuất vật chất. Trong Đại hội XII (2016), Đảng ta cũng đã nhấn mạnh
vai trò của trí thức và cho rằng Việt Nam phải vươn lên trình độ tiên tiến thế giới:
“Lấy khoa học, công nghệ, trí thức và NNL chất lượng cao làm động lực chủ yếu”
của nền kinh tế, chuyển dịch từ sản xuất thâm dụng lao động sang thâm dụng tri
thức và thâm dụng công nghệ.

Để nâng cao tri thức, người lao động bên cạnh việc trau dồi những kiến
thức chuyên ngành còn cần phải trau dồi những kiến thức tổng hợp của các ngành
khoa học khác nhau. Vì khi người lao động khi đã đủ kiến thức chuyên môn để
có thể trả lời cho câu hỏi làm thế nào để tham gia vận hành hoạt động sản xuất vật
chất, họ sẽ cần đến những kiến thức và hiểu biết xung quanh chuyên môn để giải
quyết vấn đề tiếp đó là làm sao có thể vận hành một cách trơn tru nhất? Kết hợp
tri thức chuyên môn và tri thức tổng hợp, người lao động sẽ am hiểu hơn và có
cái nhìn sâu sắc về công việc của mình. Từ đó, những phương pháp sản xuất mới
ra đời giúp gia tăng năng suất, nâng cao tay nghề người lao động và tăng giá trị
sản phẩm. Bên cạnh đó, trong thời đại 4.0 máy móc đang dần thay thế con người
trong hoạt động sản xuất, người lao động cần phải biết cách vận dụng kết hợp tri
thức linh hoạt của mình với sức lao động vượt trội của máy móc. Khi mà những
hạn chế của con người có thể được máy móc khắc phục và ngược lại, rất nhiều
những sản phẩm mang tính đột phá sẽ ra đời đáp ứng cho nhu cầu không ngừng
gia tăng của xã hội và gia tăng năng suất lao động rõ rệt. Thêm vào đó, trong xã
hội ngày nay, tri thức khoa học mang tính toàn cầu nên lực lượng sản xuất hiện
đại dựa trên tri thức khoa học cũng mang tính toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế trước
hết là toàn cầu hóa lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất hiện đại tạo nên mối
liên hệ bền vững giữa con người với tự nhiên. Trong mỗi đơn vị sản phẩm hiện
nay, hàm lượng tri thức tăng lên, hàm lượng vật liệu và năng lượng giảm đi, do
đó tác động của khí thải trong sản xuất năng lượng sẽ ít đi, làm giảm nguy cơ biến
đổi khí hậu toàn cầu. Chính vì vậy người lao động, với vai trò quyết định, phải
không ngừng học hỏi trau dồi tri thức khoa học toàn cầu để từ đó vận dụng tri

11
thức sử dụng công nghệ cao làm cho lượng chất thải của sản xuất giảm mạnh, làm
giảm tốc độ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hơn nữa còn tiến tới tái chế chất thải,
hướng tới nền kinh tế ít phát thải và chất thải. Bên cạnh đó, tầm hiểu biết càng
rộng, ta lại càng có cái nhìn xa hơn về tương lai, dự đoán trước được những xu
hướng phát triển, từ đó đề ra được kế hoạch chiến lược phát triển phù hợp, phát
huy thế mạnh người lao động, sáng tạo ra nhiều phát kiến mới ngày càng hữu
dụng trong cuộc sống. Như vậy, trong tiến trình vận động và phát triển của xã hội
loài người đặc biệt là trong thời đại 4.0, tri thức luôn là yêu cầu tất yếu đối với
người lao động để họ giữ vững vị trí trung tâm trong chuỗi sản xuất. C.Mác đã
nhấn mạnh: thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, tất cả những máy móc đều là
sản phẩm lao động của con người, đều là những cơ quan của bộ óc con người, do
bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đa vật hóa của tri thức.

II.2: Yếu tố kỹ năng và kỹ xảo

Với tư liệu sản xuất và cách thức sản xuất mới do cuộc cách mạng công
nghiệp tạo ra, bên cạnh yếu tố tri thức, người lao động thời kỳ 4.0 cần quan tâm
phát huy vai trò của mình thông qua yếu tố kỹ năng và kỹ xảo. Bởi người lao động
khi đã nắm chắc được tri thức khoa học, họ cần phải biến những tri thức thành kỹ
năng áp dụng vào thực tiễn mà trước hết là kỹ năng chuyên môn. Kỹ năng chuyên
môn còn được hiểu là là các kỹ năng mang tính học thuật của riêng từng lĩnh vực
khác nhau, đồng thời nó còn thuộc phạm trù chuyên sâu cho những kiến thức và
sự bài bản của những gì đã được học. Kỹ năng chuyên môn không phải mỗi người
từ khi sinh ra đã có mà phải trải qua một quá trình rèn luyện và học tập. Từ công
việc nhỏ nhặt nhất cho đến những công việc đóng vai trò then chốt trong quá trình
sản xuất đều đòi hỏi người lao động đáp ứng yêu cầu kỹ năng chuyên môn nhất
định, đây cũng là yếu tố quyết định giá trị của người lao động đối với doanh
nghiệp, tổ chức. Hơn nữa, trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay,
tư liệu sản xuất chính sẽ chuyển từ chủ yếu là vật chất sang phi vật chất, tức là lợi
thế về tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động phổ thông thấp sẽ ngày càng
giảm, sản xuất sẽ có xu hướng dịch chuyển từ các nước có nhiều lao động phổ
12
thông và tài nguyên sang những nước có nhiều lao động chuyên môn cao và gần
thị trường tiêu thụ. Với sự xuất hiện của các loại máy móc, vi tính cùng hàng loạt
các phát minh phục vụ cho cách mạng công nghiệp 4.0, người lao động càng phải
có kỹ năng chuyên môn đủ sâu, rộng và uyên thâm. Vì máy móc có hiện đại đến
đâu thì nó cũng chỉ phục vụ chuyên trách theo những lập trình ban đầu của con
người, còn người lao động khi có đủ kiến thức và kỹ năng chuyên môn, họ sẽ
không còn trực tiếp tham gia vào dây chuyền sản xuất như trước nữa mà họ sẽ trở
thành những người quản lý, điều khiển máy móc làm việc theo yêu cầu. Tác động
đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Ngoài yêu cầu cứng về kỹ năng kỹ thuật (mức trung bình và cao) bao
gồm những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt nhằm thực hiện công việc cụ thể thì
người lao động cần phải có những kỹ năng làm việc mềm hay cốt lõi như: khả
năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong công việc, kỹ năng sử dụng máy tính,
internet, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng an toàn và tuân thủ
kỷ luật lao động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng
tập trung...

Và đến một lúc nào đó, khi kỹ năng của người lao động đã đạt tới trình độ
thượng thừa, thực hiện một cách rất điêu luyện và khéo léo, những sản phẩm tạo
ra đạt chất lượng cao thì khi đó kỹ năng sẽ trở thành kỹ xảo. Việc vận dụng kỹ
xảo vào trong công việc giúp người lao động hoàn thành công việc một cách nhẹ
nhàng, không đòi hỏi hao tổn nhiều sức lực mà mang lại hiệu suất lao động và
hiệu quả cao. Bên cạnh đó, kỹ xảo sẽ giúp chúng ta tiếp cận được với nhiều nguồn
tri thức cao hơn từ đó sáng tạo ra được nhiều công nghệ mới phức tạp hơn, hữu
dụng hơn giúp đẩy nhanh quá trình sản xuất ngày càng đáp ứng được nhu cầu của
xã hội, nâng cao chất lượng đời sống của con người. Nhu cầu của con người là vô
hạn, trong thời đại 4.0 khi điều kiện sống càng được nâng cao, con người càng
chú trọng nhiều hơn về nhu cầu của họ, họ luôn tìm kiếm những thứ mới mẻ và
đáp ứng được đầy đủ nhất những kỳ vọng của họ. Vì vậy, để bắt kịp và đáp ứng

13
được những nhu cầu cấp thiết hằng ngày, trình độ sản xuất phải ngày càng được
hoàn thiện và cải tiến, điều đó chỉ làm được khi người lao động được trang bị đầy
đủ những kỹ xảo và trình độ chuyên môn.

II.3: Yếu tố khoa học kỹ thuật – công nghệ

Trình độ phát triển của khoa học - kỹ thuật là tiêu chí để phân biệt thời đại
phát triển trong lịch sử và tiến bộ xã hội của loài người, đặc biệt trong thời kỳ
cách mạng công nghiệp 4.0 khi mà khoa học – kỹ thuật trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, yếu tố này càng trở nên quan trọng hơn cả. Từ đó đòi hỏi người lao
động trong thời kỳ cách mạng công nghiệp phải tận dụng triệt để mọi thành quả
khoa học kỹ thuật – công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra nhiều thách thức cho người
lao động, song đây cũng là cơ hội tố để họ thích ứng với yếu tố khoa học kỹ thuật
– công nghệ, học tập các kỹ năng và phương pháp mới, để có thể làm việc cùng
những thiết bị máy móc ngày càng hiện đại, được kết nối và thông minh hơn khi
gần như mọi quá trình sản xuất vật chất trong thời buổi hiện nay đều có sự tham
gia của máy móc. Cách mạng công nghiệp đòi hỏi ở người lao động phải trang bị
đủ kỹ năng, đủ trình độ để có khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật – công nghệ
trong dây chuyền sản xuất; từ đó, người lao động cùng máy móc sẽ tạo ra những
bước đột phá trong quá trình lao động sản xuất gia tăng hiệu quả năng suất cùng
giá trị sản phẩm. Hơn nữa, thị trường lao động trong tương lai đang có xu hướng
chuyển dịch cơ cấu sang thâm dụng công nghệ. Bên cạnh yếu tố công nghệ thiết
yếu là máy móc, người lao động với đủ khả năng ứng dụng các mô hình nghiên
cứu khoa học hiện đại, khoa học kỹ thuật – công nghệ trong sản xuất sẽ đóng vai
trò là người quản lý, lập trình và điều khiển hoạt động của máy móc sao cho quá
trình sản xuất vật chất diễn ra được trơn tru, hiệu quả nhất.

Theo nghiên cứu của Viện Toàn cầu McKinsey, ước tính đến năm 2030 sẽ
có khoảng 400 đến 800 triệu việc làm trên toàn thế giới được thay thế bằng công
nghệ tự động hóa. Sự ra đời của các nhà máy thông minh, trong đó máy móc đóng

14
vai trò chủ đạo có thể tự vận hành toàn bộ quy trình sản xuất, thay thế dần các dây
chuyền sản xuất trước đây. Từ số liệu trên, chúng ta không thể phủ nhận rằng sự
xuất hiện của những lao động máy móc cùng công nghệ hiện đại là mối đe doạ to
lớn đối với vị thế của người lao động trong thời đại công nghiệp hoá – hiện đại
hoá. Tuy nhiên dù có trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học kỹ thuật -
công nghệ cũng chỉ là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản
xuất, yếu tố quyết định vẫn là con người, mặc dù khoa học kỹ thuật - công nghệ
nâng cao địa vị, vị thế và sức mạnh của con người. Song, khoa học kỹ thuật phát
triển, tác động phải thông qua con người và bị chi phối bởi con người. Vì thế, lực
lượng lao động cần phải biến thách thức thành cơ hội để phát huy vai trò quyết
định của mình đối với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Như vậy, nhiệm vụ của người lao động thời kỳ mới không còn dừng lại ở
việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất vật chất mà họ còn
phải liên tục trau dồi vốn tri thức; hoàn thiện kỹ năng chuyên môn, phát triển đa
dạng các kỹ năng mềm; phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm và đặc biệt
là nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật để trực tiếp là lực lượng nắm giữ vai trò là
lực lượng tận dụng và phát huy nguồn lực khoa học công nghệ - lực lượng sản
xuất trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 lên đến tầm cao mới. Để từ
đó, người lao động khẳng định vai trò của bản thân là lực lượng sản xuất cơ bản
nhất, quyết định nhất – một sự thật đã tồn tại bao thời đại.

15
KẾT LUẬN

Với những thành quả của công nghệ trong kỷ nguyên 4.0, sức mạnh cơ
bắp không còn yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất mà giờ đây, trí
tuệ và kỹ năng – kỹ xảo con người mới là thứ được đặt lên hàng đầu. Cùng với
đó là sự bùng nổ thông tin trong kho tàng tri thức của nhân loại, yêu cầu các thế
hệ mới tiếp thu, học hỏi để có thể thừa kế những tinh hoa do các thế hệ trước để
lại nhằm duy trì, khắc phục, tạo động lực cho sự phát triển của hoạt động sản
xuất, đời sống xã hội.
Trước đây, nói đến người lao động là chỉ nói tới những người tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất, ngày nay, do khoa học
và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, con người lao động tham
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất đang có xu hướng giảm, con người lao động
đứng ngoài quá trình sản xuất, điều khiển quá trình sản xuất thì đang có xu
hướng tăng lên, hay nói cách khác, công nhân áo xanh giảm, công nhân áo trắng
thì tăng lên. Điều này được C.Mác dự báo khi phân tích quá trình phát triển của
nền đại công nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển: “... toàn bộ quá
trình sản xuất thì biểu hiện ra không phải như là một quá trình phụ thuộc vào tài
nghệ trực tiếp của người công nhân, mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học
trong lĩnh vực công nghệ”, “... do đó đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có
thể thay thế công nhân... Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động
được nhập vào quá trình sản xuất, mà chủ yếu là một lao động trong đó con
người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất” và
“Thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công nhân lại đứng
bên cạnh quá trình ấy”.
Như vậy, ta một lần nữa thấy được tính đúng đắn của những cơ sở lý luận
xuất phát từ nhà hiền triết vĩ đại Các Mác khi áp dụng giải thích cho thực tiễn
cuộc sống cụ thể với đề tài nghiên cứu là vai trò của lực lượng lao động trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên cơ sở lý luận quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ
THẬT
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.27, tr.658.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 2002, t.23, tr.269.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1993, t.13, tr.14-16.
(5) LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT - GIÁ TRỊ CỐT
LÕI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN TRONG
ĐIỀU KIỆN MỚI PGS.TS. PHẠM VĂN LINH*
(6) TUẤN, PGSTSBÙ, and TS LÝ HOÀNG MAI. "ẢNH HƯỞNG CỦA
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐẾN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ NHỮNG GỢI Ý CHO VIỆT NAM." PHÓ
GIÁM ĐỐC–PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
(7) Khương, H. N. (2019). Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam. Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam,
Số, 24, 11-15.
(8) Phan, T. H., Vương, M. H., & Nguyễn, A. T. (2020). PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO LÀ CHÌA KHÓA GIẢI
QUYẾT NHỮNG THÁCH THỨC CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
4.0.

17
18

You might also like