You are on page 1of 15

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ


MÔN:
TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
ĐỀ BÀI: 08
Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật “quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”
để lý giải sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện
nay.

HỌ VÀ TÊN : Phạm Ngọc Thanh Hà


MSSV : 452153
LỚP : 4521
NHÓM : 04

Hà Nội, 2021
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ


MÔN:
TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
ĐỀ BÀI: 08

Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
“quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất” để lý giải sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.

HỌ VÀ TÊN : Phạm Ngọc Thanh Hà


MSSV : 452153
LỚP : 4521
NHÓM : 04

Hà Nội, 2021

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................... 3
I, Lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ............................... 3
1, Lực lượng sản xuất ................................................................................ 3
2, Quan hệ sản xuất ................................................................................... 4
3, Quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ..................................................................................... 5
II, Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
“quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất” để lý giải sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam
hiện nay. ....................................................................................................... 7
1, Một số khái niệm ................................................................................... 7
2, Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay ........................... 7
3, Nguyên nhân của sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam
hiện nay. ..................................................................................................... 8
4, Đề xuất một số vấn đề tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam .............................................. 10
KẾT LUẬN .................................................................................................... 11

2
MỞ ĐẦU
Một trong những thành tựu to lớn nhất của Mác là Chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Đây là bước ngoặt to lớn trong lịch sử triết học loài người. Bằng phương
pháp biện chứng và lập trường duy vật về lịch sử, Mác đã tìm ra quy luật phát
triển của xã hội loài người qua các thời kỳ lịch sử.
Theo ông, xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao và từ
tương ứng với mỗi giai đoạn nhất định là một hình thái kinh tế - xã hội. Trong
đó, quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Bằng nội dung và ý
nghĩa phương pháp luận của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất”, em sẽ lý giải về sự tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế ở nước ta hiện nay

NỘI DUNG
I, Lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin về quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1, Lực lượng sản xuất
a, Khái niệm
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên giới tự
nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Lực lượng
sản xuất chính là thước đo quan trọng nhất của sự tiến bộ xã hội
b, Kết cấu lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất của hai yếu tố là người lao động
và tư liệu sản xuất, trong đó “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động”. Người lao động là chủ thể của quá
trình lao động sản xuất với năng lực và trí tuệ của mình, sử dụng tư liệu lao
động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành
sản xuất. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối
tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ phận
của giới tự nhiên được con người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất.
Đối tượng lao động gồm hai dạng là dạng tự nhiên và dạng nhân tạo. Tư liệu
lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác
3
động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao
động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao
động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động trong đó công cụ lao
động giữ vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động luôn cải
tiến, hoàn thiện không ngừng đã làm biến đổi tư liệu sản xuất. Xét đến cùng,
đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của
công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là
tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
2, Quan hệ sản xuất
a, Khái niệm và kết cấu quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ
về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất,
quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của của sản xuất; giữa ba mặt của
quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn
định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng
sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong
từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ
chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã
hội khác.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình
sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do
quan hệ sở hữu quyết định và phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên
có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở
hữu làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó
kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ

4
của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm nền sản xuất.
3, Quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
a, Nội dung
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức
sản xuất, chúng tồn tại không thể tách rời nhay, tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự
vận động và phát triển xã hội.
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển.
Sự phát triển đó suy cho cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của
lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình
độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ
lực lượng sản xuất thể hiện ở sự phát triển của công cụ lao động, trình độ,
kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công
lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới
ra đời, khi đó mối quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình
thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp
một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng
sản xuất có cơ sở phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm
cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng
sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất
dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản
xuất tiếp tục phát triển. Khi đó phương thức sản xuất cũ sẽ mất đi, phương
thức mới ra đời thay thế. Mác đã viết “Tới một giai đoạn phát triển nào đó
5
của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những
quan hệ sản xuất hiện có… trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất,
những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất.
Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.”
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản
xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến
thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao
động xã hội, đến phát triển và ứng dụng và ứng dụng khoa học và công
nghệ… và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời,
lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một các giả tạo so với trình độ phát triển lực lượng
sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó, theo quy
luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
b, Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Muốn thúc đẩy xã hội phát triển thì phải tạo điều kiện để phát triển lực
lượng sản xuất, phải nâng cao chất lượng lao động, cải tạo công nghệ, công
cụ sản xuất hay nói cách khác là phải phát triển công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Cần phải thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, tránh bảo thủ hoặc chủ quan duy ý chí sẽ khiến lực lượng
sản xuất bị kìm hãm.
Đối với Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, để tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển
thì cần phải xây dựng nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế.

6
II, Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
“quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất” để lý giải sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.
1, Một số khái niệm
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế không
tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành
cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
2, Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung
cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc,
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng
cao. Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới
nói chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng.
Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba
thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp.
Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ
vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này
là Nhà nước (được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhà nước
thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước được
giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường.
Các Doanh nghiệp nhà nước tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh
vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh;
những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không
đầu tư.
Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh
tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ
kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập
đoàn tư bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh
doanh cá thể (hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch

7
vụ...), chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư
nhân tư bản (tư bản trong nước và tư bản ngoài nước), tập đoàn tư bản.
Thành phần kinh tế hỗn hợp gồm các công ty, các doanh nghiệp, các
hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ
sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư
nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước
ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể
kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc
đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng
hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận,
chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng
cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
3, Nguyên nhân của sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.
Từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến trước thời kỳ đổi
mới 1986, nước ta thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, bao cấp. Mặc dù huy động sức người sức của để xây dựng, phát
triển đất nước nhưng nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng,
tăng trưởng kinh tế thấp. Do chưa có nhận thức đúng đắn nên chưa không
thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế thị trường
chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hoá; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động
lực kinh tế đối với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ…
quá nhấn mạnh một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ
yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân
phối.
Khi xác lập quan hệ sản xuất, ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu,
làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn
dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá
bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát
triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp
nhiều khó khăn. Những hạn chế đó, có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân
chủ yếu là chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí dẫn đến việc nhận thức
8
và vận dụng chưa đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhận thức được vấn đề, tại Đại hội VI, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ
quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Từ đó, Đảng và Nhà nước đã tiến hành đổi mới toàn diện về mọi mặt,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó tồn
tại nhiều thành phần kinh tế.
Do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay đa dạng, không
đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây dựng một quan hệ sản xuất
phù hợp. Nếu trước kia chúng ta chỉ công nhận sự tồn tại của hai thành phần
kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần
kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động thì nay đã có
sự đa dạng, mở rộng với việc công nhận thêm các thành phần kinh tế khác:
thành phần kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản,
tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong
đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được
củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là
một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lí của nhà nước nhằm tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ
được sự ổn định về chính trị, gắn với công bằng xã hội.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có: quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất ở trình độ cao có tác động mở đường cho
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhờ đó, vẫn những con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy,
từ một đất nước thiếu ăn quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ
bên ngoài; hàng tiêu dùng khan hiếm, người lao động không có việc làm…
đã trở thành một đất nước không những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực

9
phẩm dự trữ và đến nay xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu
tiêu dùng trong nước được thỏa mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển,
nền kinh tế – xã hội sôi động, đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ
đổi mới cơ chế, chính sách nhằm không ngừng phát triển các thành phần kinh
tế, các tiềm năng của xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh
của bên ngoài được huy động.
Nhìn tổng thể trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây
dựng, phát triển đất nước. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng bước
hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy
cơ tụt hậu xa về kinh tế đang là một yêu cầu cấp thiết.
4, Đề xuất một số vấn đề tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Một là, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế.
Hai là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, về sở hữu và các khu vực kinh tế, giải quyết những vấn đề
còn vướng mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng
sản xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở
hữu ở nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vấn đề sắp xếp,
đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; vai trò kinh tế tập thể, kinh
tế hợp tác; vai trò động lực phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh tế hỗn hợp, kinh tế cổ phần và
các mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực kinh tế của nền kinh tế nước ta
trong quá trình phát triển bền vững đất nước.

10
Ba là, tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư
duy mới về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về hội
nhập, về phương thức phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể
chế nhằm huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực; thực hiện cơ chế
thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong
phân phối các tư liệu sản xuất; bảo đảm bình đẳng thực sự giữa các khu vực
kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa các tổ chức trong cung ứng các dịch vụ công
(giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ…) và phúc lợi xã hội, đảm bảo an sinh
xã hội, cuộc sống của nhân dân.
Bốn là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế; huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tạo động lực phát triển;
từng bước hoàn thiện chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế;
gắn kết chặt chẽ 3 trụ cột phát triển bền vững: kinh tế - xã hội - môi trường;
vai trò văn hoá, xã hội, con người và đổi mới sáng tạo, công bằng, bình đẳng.
Tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện chế độ phân phối, phúc lợi xã hội,
cải cách chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người lao động và nhân dân.

KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng sự tồn tại nhiều thành phần
kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam là tồn tại khách quan, phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Đó là sự vận dụng đúng đắn quy
luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất” tạo điều kiện cho đất nước tiếp tục phát triển, hướng tới xây dựng chủ
nghĩa xã hội.

11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Trịnh Thúc Huỳnh; Giáo trình Triết học Mác – Lênin; Nhà xuất bản chính
trị quốc gia; Hà Nội; 2006
2, Nguyễn Đức Luận; Về vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay
https://vnuf.edu.vn/ve-van-de-phat-trien-nen-kinh-te-nhieu-thanh-phan-o-
nuoc-ta-hien-nay.html
Cập nhật: 20/03/2009; Truy cập: 12/03/2021
3, Vũ Văn Phúc; Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te-nhieu-thanh-phan-trong-nen-kinh-
te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567515.html
Cập nhật: Thứ bảy, 31/10/2020; Truy cập: 12/03/2021
4, Phạm Bá Thịnh, Nguyễn Thị Duyên; Vận dụng quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
http://truongchinhtrithanhhoa.gov.vn/web/trang-chu/khoa-hoc-thong-tin-tu-
lieu/bai-viet-chuyen-de/van-dung-quy-luat-ve-su-phu-hop-cua-quan-he-
san-xuat-voi-trinh-do-phat-trien-cua-luc-luong-san-xuat-trong-cong-cuoc-
doi-moi-o-nuoc-ta-hien-nay.html
Cập nhật: 04/08/2016; Truy cập: 16/03/2021
PHỤ LỤC

Tem phiếu thời kì bao cấp

Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam
1

You might also like