You are on page 1of 9

Đề bài: Từ việc phân tích lý luận về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hãy vận dụng vào việc thực
hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bài làm

1. Khái niệm:
a) Lực lượng sản xuất: là sự kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của
giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc,
lực lượng sản xuất được xem trên cả hai mặt, đó là kinh tế - kỹ thuật (tư liệu
sản xuất) và mặt kinh tế- xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính
là kết hợp của “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là
toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời
kỳ nhất định. Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố
người lao động và tư liệu sản xuất cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp),
tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra
của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực
thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ những yếu tố cấu thành
nó như trình độ của công cụ lao động, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ
của người lao động.
b) Quan hệ sản xuất: là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa con người với con
người trong quá trình sản xuất vật chất, nó là hình thức của phương thức sản
xuất, là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất
bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và
quan hệ phân phối sản phẩm. Ba quan hệ đó liên hệ khăng khít với nhau,
thống nhất với nhau tạo nên một hệ thống mang tính ổn định tương so với
lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội
và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.

2. Quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định
sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác
động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn
quan hệ sản xuất tác động trở lại với lực lượng sản xuất. C.Mác viết: “Trong sự
sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định,
tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất,
những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất vật chất của họ. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại,
nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là
quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của xã hội.

a) Lực lượng sản xuất nắm vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất:

Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có
tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển, quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong
sự vận động của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất. Cơ sở khách quan quy định sự vận động phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất là do biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người,
do đó tính năng động và cách mạng của sự phát triển công cụ lao động, do vai
trò của người lao động là chủ thể sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu, do
tính kế thừa khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong tiến trình
lịch sử.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát
triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản
xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” tương đối
của quan hệ sản xuất. Phát triển lực lượng sản xuất trở thành “xiềng xích” kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã
hội là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp
với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển. C.Mác nêu tư tưởng về vai trò
của sự phát triển của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi quan hệ xã hội:
“Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất.
Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất
của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng
tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội
cho nhà tư bản công nghiệp.
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới
trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Con
người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát triển và giải quyết mâu thuẫn,
thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đặt tới một nấc
thang cao hơn.
b) Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối đến tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất được thực tiễn thông qua sự phù hợp
biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức
phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản
xuất phát triển. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu
thành quan hệ sản xuất, sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất, sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
Sự phù hợp bao gồm cả điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa
người lao động và tư liệu sản xuất, tạo điều kiện hợp lý cho người lao động
sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao
động.
Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp không có nghĩa là không
đồng nhất tuyệt đối mà chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng cả sự đặc biệt. Sự
phù hợp diễn ra trong sự vận động và phát triển, là một quá trình thường xuyên
nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu
hướng phát triển của nền sản xuất xã hội, hình thành hệ thống động lực thúc
đẩy sản xuất phát triển, đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản
xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo
hai chiều hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất
phát triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng, những thành tựu khoa
học và công nghệ được áp dụng nhanh chóng, người lao động nhiệt tình hăng
hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì sẽ kìm hãm, thậm
chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong
những giới hạn, với những điểu kiện nhất định.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuât svaf
quan hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp
mới ở trình độ cao hơn. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát
hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản
xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn. C.Mác đã khẳng định: “Tới một
giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất của xã hội mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất có…trong đó từ trước tới nay các lực lượng
sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là các hình thức phát triển của lực lượng sản
xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó
bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự
tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ hệ sản xuất làm cho
lịch sử xã hội loài ngươi và lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất,
từ phương thức sản xuất cộng sran nguyên thủy qua phương thức sản xuất
chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Trong xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định,
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có những đặc điểm tác động riêng. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu thiết lập chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dần
dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp không diễn ra “tự động”, đòi hỏi
trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội chủ nghĩ có thể bị
“biến dạng” do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.

3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội:


Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát
triển kinh tế, phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất và công cụ lao động.
Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải
căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của
mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu
kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy tiện, chủ quan, duy
tâm, duy ý chí. Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng
trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học
để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam

4. Vận dụng vào việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam:
Nếu như ở giai đoạn trước đổi mới 1976 – 1986, chúng ta đã mắc bệnh chủ
quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan khi không tính đến điều kiện của
một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển với lực lượng sản xuất còn
thấp, nhưng lại chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước nhằm
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xác lập kiểu “quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa thống trị” dựa trên chế độ công hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Chính sự nhận thức và vận dụng sai lầm đó đã được Đại hội lần thứ VI
của Đảng năm 1986 chỉ rõ: một trong những nguyên nhân cơ bản của sự khủng
hoảng kinh tế xã hội nói chung, của sự kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển
nói riêng trong những năm 1976 - 1980 là do trong nhận thức và hành động,
“chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn
tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng
quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất”.

Trong quá trình Cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm hàng đầu đến
việc nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu
quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt
Nam hiện nay. Trong khi tiến hành công nghiệp hóa – hiện địa hóa đất nước,
đặc biệt là qua 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 -
2010, chúng ta đã từng bước nhận thức và vận dụng quy luật này ngày càng rõ
và đúng đắn hơn. Đó là chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu;
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy đã góp phần quan trọng
để “đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng…, đặt bước phát triển
mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất”. Xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát
triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện của trình độ phát triển lực
lượng sản xuất đa dạng, không đồng đều. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mặt khác, tích cực chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực,
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức đúng yêu cầu đó,
trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách,
biện pháp thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản
xuất như: xác định rõ vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố và phát triển,
kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền
kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển…, tạo
cơ sở củng cố, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Mục đích của việc
xây dựng quan hệ sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa là nhằm khai thác các lợi
thế tiềm năng trong và ngoài nước, các thành phần kinh tế vào phát triển kinh
tế xã hội, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể khẳng định, đó là
thành tựu nổi bật nhất của sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể
của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

You might also like