You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN MÔN THMLN

ĐỀ BÀI: Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, hãy phân tích tính tất yếu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội.

Họ và tên SV: Lê Khánh Huyền


Lớp tín chỉ: Triết học Mác - Lênin
Mã SV: 11222885

GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

HÀ NỘI, NĂM 2023


MỤC LỤC
Đặt vấn đề........................................................................................................................... 2
I. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất...................................... 3
1. Các khái niệm.......................................................................................................... 3
1.1. Phương thức sản xuất
1.2. Lực lượng sản xuất
1.3. Quan hệ sản xuất
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất trình độ của lực lượng
sản xuất.................................................................................................................... 5
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và biến đổi
của quan hệ sản xuất.
2.2. Tác động ngược trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
II. Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, hãy phân tích tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.............................................. 8
1. Thế nào là công nghiệp hóa-hiện đại hóa?.................................................................... 8
1.1. Công nghiệp hóa là gì ?
1.2. Hiện đại hóa là gì ?
2. Sự cần thiết và tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa ở Việt Nam ...................................................................................................... 9
3. Phân tích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.......................................................................................................... 10
4. Kết luận....................................................................................................................... 14
ĐẶT VẤN ĐỀ

Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức
nhất
định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình. Trong tác phẩm “Sự
khốn cùng của triết học” Mác viết:…Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài
người thay đổi phương thức của mình, do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống
của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Phương thức sản
xuất-cách thức mà con người tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa Mác-Lê nin khẳng định: Trong mỗi
nấc thang lịch sử nhất định của xã hội, một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
sẽ phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiểu kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Ngay sau khi giành được độc lập, thống nhất đất nước, Đảng cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta lựa chọn con đường tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa. Thấm nhuần và vận dụng sáng
tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tại Đại hội VIII Đảng
cộng sản Việt Nam đã xác định: Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời
kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là quá trình chuyển đổi một
cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên
sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghê, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao. Để Việt Nam tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua gia đoạn phát triển
Tư bản chủ nghĩa thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.
Nhận thức được tầm quan trọng của nghiên cứu lý luận về lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là một việc làm cần thiết và mang tính cấp bách. Chính vì
vậy, em đã chọn đề tài: “Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hãy phân tích tính tất yếu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa

2
xã hội”. Do điều kiện và trình độ có hạn nên bài viết của em còn có nhiều thiếu
sót. Em rất mong sự giúp đỡ của giáo viên giảng dạy để em hoàn thiện bài tiểu
luận này. Em xin chân thành cảm ơn thầy.
I. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1. Các khái niệm
1.1. Phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tương ứng. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động
giữa con người với giới tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra của
cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
1.2. Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, tạo
ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của tự nhiên
theo nhu cầu của con người và xã hội. Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa
“lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là năng lực thực tiễn
dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy lực lượng sản xuất là
một hệ thống các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ
(phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến tự nhiên,
sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động
là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây
là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động, là điều
kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động
và phương tiện lao động, trong đó công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trong thời đại cách mạng khoa học
4.0 vai trò của công cụ lao động càng đặc biệt quan trọng. Công cụ lao động là yếu
tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của

3
mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử; là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại
kinh tế khác nhau. Chính vì vậy C.Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác
nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào”. Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản
xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động. Trong lực lượng sản
xuất, người lao động là nhân tố giữ vai trò quyết định vì người lao động là chủ thể
sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Các tư liệu sản xuất cũng chỉ là sản phẩm
lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản
xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Người lao động là nguồn
gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ. Tính
chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hay tính chất xã hội hóa trong
việc sử dụng tư liệu sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ
lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động;
trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ kỹ
năng kinh nghiệm của người lao động và đặc biệt là trình độ phân công lao động xã hội.
Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là không tách rời
nhau. Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học có khả
năng phát triển “vượt trước” và thâm nhập vào tất cả các yếu tố của sản xuất, trở thành
mắt khâu bên trong của quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển trong mối quan
hệ biện chứng với quan hệ sản xuất.
1.3. Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế-vật chất giữa người
với
người trong quá trình sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu
đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với
nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
quy định quan hệ quản lý và phân phối. Các mặt trong quan hệ sản xuất gắn bó chặt
chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất.

4
Chủ nghĩa Mác-Lê nin khẳng định rằng: Mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận động và phát triển của các
phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai
mặt của một phương thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất có tác động to lớn trở lại
đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát
triển; Nếu không phù hợp thì kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là
quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến
đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính
năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển; còn quan hệ sản xuất lầ
hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động
của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. C.Mác
viết: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng
hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp.”. Lực lượng sản xuất quyết định
sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, quyết định đến nội dung
và tính chất của quan hệ sản xuất.

2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất trình độ của lực lượng
sản xuất.
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và biến đổi của quan
hệ sản xuất.
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình có tính năng động, cách
mạng, thường xuyên vận động và phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá
trình sản xuất, có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng
đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ sở khách quan quy định sự vận
động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là do biện chứng giữa sản xuất và
nhu cầu con người; do tính năng động và cách mạng của sự phát triển công cụ lao động;

5
do vai trò người lao động là chủ thể sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế
thừa khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không
ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở
thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền
sản xuất xã hội là phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển. C. Mác đã nêu tư tưởng
về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi quan hệ xã hội:
“Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có những
lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay
đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những
quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối
xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới
trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Bằng năng lực nhận
thức và thực tiễn, con người ohat hiện và giải quyết mâu thuẫn thiết lập sự phù hợp mới
làm cho quá trình sản xuất phát triển tới một nấc thang cao hơn.

2.2. Tác động ngược trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan hệ
sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện chứng giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi tính khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của
lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp
bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; giữa các yếu
tố cấu thành quan hệ sản xuất; giữa kực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp

6
bao gồm cả việc tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao dộng
sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần lao động.
Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối
mà chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phù hợp diễn ra trong sự vận
động và phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu
thuẫn.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu
hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
chiều hướng đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan
hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy
mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học và công nghệ được áp dụng nhanh
chóng; người lao động nhiệt tình, hăng hái sản xuẩt, lợi ích của người lao động được đảm
bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ
kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiêm, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra
trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất diễn ra từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao
hơn. C. Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng
sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...trong đó từ
trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển
của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng
sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện
chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là
lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất chiếm hữu nô
lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang
phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

7
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy
định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có
những đặc điểm tác động riêng. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu phải thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù
hợp không diễn ra “tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng
quy luật quan hệ sản xuất trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến
dạng” do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.

II. Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, hãy phân tích tính tất yếu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội.
Đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội khi mà nền sản xuất
chưa vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã để lại cho đất nước chúng
ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực lượng
sản xuất thấp kém. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách
mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, một quá trình vừa xóa bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mớ
từ gốc đến ngọn. Nhận thức được điều đó, ban chấp hành trung ướng Đảng khóa VII đã
khẳng định “ Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Vậy khái niệm của công
nghiệp hóa - hiện đại hóa là như thế nào? Tính tất yếu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa
trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa của Việt Nam ra sao?

1. Thế nào là công nghiệp hóa - hiện đại hóa ?


1.1. Công nghiệp hóa là gì ?

8
- Công nghiệp hóa là một giai đoạn phát triển lịch sử, không chỉ đơn thuần là những biến
đổi về kinh tế mà còn bao gồm cả các biến đổi về văn hóa, xã hội từ trạng thái nông
nghiệp, từ nền văn minh nông nghiệp lên nền văn minh công nghiệp.
- Đây chính là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh
tế quốc dân.
- Công nghiệp hóa không chỉ là giới hạn trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất mà
còn trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội và thường được gọi là công
nghiệp hóa đất nước.
1.2. Hiện đại hóa là gì ?
- Công nghiệp hóa là quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và
trình độ tiên tiến nhất của thời đại hiện nay.
- Diễn ra ở nhiều nước, cả nước phát triển và đang phát triển.
- Cơ sở để tăng tốc, đuổi kịp các nước phát triển.

2. Sự cần thiết và tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt
Nam.
Trong điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp kém, công cụ lao
động thô sơ, cơ cấu kinh tế dựa trên nông nghiệp là chủ yếu, đa số dân cư sống bằng nghề
nông nghiệp, cơ cấu nghành nghề trong nông nghiệp cũng đơn giản - cơ bản là độc canh
lúa nước. Nền sản xuất vật chất của xã hội dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu và mang
nặng tính tự cấp tự túc, tỷ xuất hàng hoá trong nền kinh tế thấp. Trong điều kiện chiến
tranh ác liệt, nền kinh tế với cơ sở vật chất - kỹ thuật nói trên khó tồn tại và phát triển
bình thường. Năm 1990, công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 22,6% thu nhập quốc dân.
Thu nhập bình quân đầu người là nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới và có nguy cơ tụt
hậu xa hơn.
Từ tình hình nói trên, nếu không có sự thay đổi và phát triển thì nền kinh tế
không thể tăng trưởng nhanh, đất nước không thể vượt qua tình trạng nghèo nàn và kém
phát triển. Vì vậy, con đường tất yếu để ta thoát khỏi tình trạng đó là phải tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của xã hội mới là dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
ở nước ta còn do yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá quyết định. Sản phẩm của

9
nền sản xuất xã hội không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội nói chung, mà chúng
còn phải được đem bán, chúng phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường, có khả năng
giữ vững và mở rộng thị trường... Do vậy, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phải được
sản xuất dựa trên môt nền tảng vững chắc của cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại một cơ
cấu lành nghề linh hoạt, hợp lý, chi phí trên một đơn vị sản phẩm ở mức thấp nhất. Phân
công lao động ở trình độ cao, kỹ thuật hiện đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị
trường, khả năng thu lợi nhuận lớn, tăng khả năng tích luỹ cho nền kinh tế và tham gia
vào quan hệ kinh tế quốc tế ở mức độ cao hơn. Từ đó lại thúc đẩy kinh tế trong nước phát
triển hơn nữa.
Ngoài những cơ sở kinh tế đã nêu trên, sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước ở
nước ta còn do yêu cầu bảo vệ tổ quốc, tăng cường tiềm lực quốc phòng của quốc gia chi
phối. Sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế ở mỗi nước luôn đi đôi với sự nghiệp bảo vệ,
giữ gìn những thành quả mọi mặt đã đạt được. Trong tình hình phức tạp của bầu không
khí chính trị kinh tế hiện nay, các lực lượng phản động trong nước và ngoài nước luôn
tìm mọi cách để cản trở, phá hoại sự nghiệp phát triển kinh tế nói riêng và sự nghiệp xây
dựng xã hội mới ở nước ta nói chung. Vì vậy chúng ta luôn phải tăng cường, củng cố,
hiện đại hoá lực lượng quốc phòng để nó trở thành lực lượng hùng mạnh, có khả năng
bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, để cùng chung sức với các dân tộc bảo vệ nền hoà bình
thế giới, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Hiện đại hoá quốc
phòng, tăng sức mạnh vật chất - kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, giành thế chủ động
trong mọi biến động chính trị... chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền công nghiệp
hiện đại và một nền kinh tế phát triển mạnh vững chắc.
Tóm lại sự cần thiết và tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước được
bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội, yêu cầu củng cố an ninh
quốc phòng và yêu cầu của việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài của đất nước.

3. Phân tích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Từ cuối thế kỷ thứ XVIII đến nay, trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp
hoá khác nhau: Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Các loại công nghiệp hoá này, xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học và công nghệ là
giống nhau. Song chúng có sự khác nhau về mục đích, về phương thức tiến hành, về sự

10
chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công nghiệp hoá diễn ra ở các nước khác nhau,
vào những thời điểm lịch sử khác nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau,
do vậy nội dung khái niệm cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung khái quát
nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước
công nghiệp.
Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá trình phát
triển. Quá trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện
chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo
hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không chỉ tuần tự trải qua các bước
cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ công truyền
thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và
mang tính quyết định.
Đây là sự nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lê nin, trong đó có quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vào thực tiễn cách mạng nước ta của
Đảng cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin đã chỉ ra có hai con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội:
một là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; hai là quá độ từ một phương thức
sản xuất trước tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, Đảng cộng sản Việt
Nam đã lựa chọn con đường thứ hai tức là từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Cũng chính vì lẽ đó những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có những đặc điểm riêng. Đó là: Còn tồn tại một nền
kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất; Tồn tại nhiều
loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen
hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau; Kết cấu giai cấp
của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng, phức tạp gồm: Giai cấp công nhân, nông dân,
tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản, đồng thời các giai cấp, tầng
lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau; Tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá
khác nhau, các yếu tố văn hóa tư tưởng cũ và mới này cũng thường xuyên đấu tranh với
nhau...Vì thế để cải biến nền kinh tế hiện có tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phương

11
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa chúng ta không có cách nào khác ngoài việc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ
nghĩa tư bản đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa tư bản trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu
của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Tức là có thể hiểu, cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có
trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành
một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do vậy, từ chủ
nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế
mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với
nước ta, từ một nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì việc xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu, từ không đến có, từ
gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa
xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa. Do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ
thể của nước ta, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Đồng thời công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và Việt Nam tích cực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Tất cả những mục tiêu trên là do yêu cầu phải rút ngắn
khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật và công nghệ giữa Việt Nam và thế giới.
Đồng thời phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Như vậy ở Việt Nam, việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật để phát triển kinh
tế, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Trong đó,
công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là chìa khóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam không chỉ là để tạo ra một nền công nghiệp mạnh, chủ yếu trong nền kinh tế quốc
dân, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà còn là để cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân

12
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì lẽ đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
một tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta nhằm tạo tiền đề thúc đẩy sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật cho
người lao động và trình độ ứng dụng những phát minh khoa học mới vào sản xuất đồng
thời đưa máy móc vào sản xuất, cải tiến công cụ lao động... làm cho lực lượng sản xuất
phát triển mạnh mẽ đáp ứng cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực
chất là quá trình củng cố và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai
trò của Nhà nước và mối quan hệ giữa công nhân, nông dân, trí thức, nhằm tạo môi
trường thuận lợi để tiếp tục phát triển lực lượng sản xuất. Đây cũng là lý do để Đảng ta
lựa chọn công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một tất yếu
bởi vì nó tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng
sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần quyết định
sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta sẽ tạo điều kiện vật chất cho việc củng
cố, tăng cường vai trò của kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng
tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát
triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế – xã hội. Thực chất đây
là sự thúc đẩy phát triển về chất đối với người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ
tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất – kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo
đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều
kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân
công và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để thực hiện xã hội

13
hóa sản xuất về mặt kinh tế – kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là nhằm phát triển toàn diện, các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất;
đồng thời cũng là để củng cố, hoàn thiện và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
đảm bảo cho quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp sự phát triển của trình độ lực
lượng sản xuất do công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại. Tính tất yếu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
quy định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất đã được chủ nghĩa Mác - Lê nin chỉ ra. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá sẽ là một bước tăng cường quan trọng cho cơ sở vật chất, kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa.

4. Kết luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa to lớn về phương pháp luận. Nó chỉ ra cho các nhà hoạt động thực tiễn
rằng: Muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là
phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ,
thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Từ nhận thức đó để thấy khi ban hành các chính sách, chủ trương cần tôn trọng, căn
cứ vào các yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế, không thể tùy tiện, chủ quan,
duy ý chí. Để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tất
yếu phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như Đảng ta đã chỉ ra. Đây là
sự nghiệp to lớn, toàn diện, hết sức khó khăn, phức tạp song nhất định thắng lợi bởi đây
là sự vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế cơ bản mà chủ nghĩa Mác-Lê nin đã phát
hiện ra. Nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất cho ta cơ sở khoa học và cách mạng để thấm nhuần, nhận thức và thực
hiện đúng đắn quan điểm, đường lối, chính sách do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Qua
đó cho ta niềm tin vào sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam do Đảng cộngsản Việt Nam
lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Qua đây cũng cho ta một thế giới quan, phương pháp luận
đúng đắn để nhận thức và thực hiện thắng lợi đường lối lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, đấu tranh với những quan điển tư tưởng sai trái, phản động khác.

14
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trinh triết học Mác - Lênin ( Dành cho bậc đại học không chuyên lý luận chính trị
), Nxb Chính trị Quốc gia sự thật Hà Nội, 2022.
2. Quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, tác giả Nguyễn Đức Thành.
3. Vai trò của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả Nguyễn Thị Hồng
Hạnh.

You might also like