You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW

KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG


--------***--------

Điểm bằng số Điểm bằng chữ

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Họ và tên: Vũ Thị Bích Hồng


Số thứ tự: 49
Mã sinh viên: 2253420055
Lớp tín chỉ: 22.09
Lớp: K16B-QLVH
Khoa: Văn hóa nghệ thuật

HÀ NỘI, 2023
TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW

KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Tên đề tài:

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ


SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT. THỰC TIỄN VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY
Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY

Họ và tên: Vũ Thị Bích Hồng

Số điện thoại: 0768345103

Học: Chiều thứ Bảy


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 1
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 1
4. Phương pháp nghiên cứu 1

B. NỘI DUNG 3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3

1.1 Các khái niệm liên quan 3


1.2 Lý luận về quan hệ sản xuất 3
1.3 Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản 5
xuất

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VẬN DUNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN 8


XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY

2.1. Giai đoạn năm 1975 đến năm 1986 8


2.2. Giai đoạn 1986 đến nay 9
2.3. Đề xuất một số vấn đề đặt ra về nghiên cứu lý luận và tổng kết thực 11
tiễn để tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất
và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với thực tiễn
Việt Nam trong thời gian tới

C. KẾT LUẬN 14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 15


A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trước khi bước vào công nghiệp hoá – hiện đại hoá và muốn thành công
trên đất nước cần phải có tiềm lực về kinh tế xã hội, trong đó lực lượng lao động
là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự kết hợp giữa lao động với tính chất
và trình độ phát triển kinh tế đây mới là yếu tố căn bản nhất. Đất nước ta đang
trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá với tiềm năng lao động to lớn
cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động tuy nhiên công cụ của
chúng ta còn lạc hậu. Ở nước ta trong giai đoạn này, phát triển kinh tế tập trung
ở hai lực lượng chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường
gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lao động ngoài quốc
doanh (thường gọi là doanh nghiệp tư nhân, thuộc kinh tế tư nhân). Với mong
muốn vận dụng những kiến thức đã học được từ bộ môn để phân tích vấn đề
này, em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Lý luận của chủ nghĩa mác về quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn vận dụng quy luật này ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ lý luận của chủ nghĩa Mác về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thực tiễn vận dụng quy luật này ở
Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp kết hợp Lôgic với lịch sử.

1
- Khảo sát, phân tích mặt chính trị-xã hội trên điều kiện kinh tế xã hội cụ
thể.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp có tính liên ngành và cụ thể: phân tích và tổng hợp; thống
kê; so sánh; điều tra xã hội học, sơ đồ hóa.

2
B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm liên quan
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản
xuất vật chất tại một số thời điểm nhất định trong lịch sử hình thành và phát
triển của xã hội loài người. Phương thức sản xuất đóng vai trò quan trọng ở hầu
hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Phương thức sản xuất cơ bản là sự
thống nhất các lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định và quan hệ sản
xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình
thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình
độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con
người tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của loài người.
Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người
trong quá trình lao động (tổ chức và quản lý sản xuất xã hội) . Quan hệ sản xuất
bao gồm quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản, quan hệ giữa tổ chức và
quản lý xã hội và quan hệ trong tiêu thụ các sản phẩm tạo ra. .. Quan hệ sản xuất
do con người tạo ra nhưng sự tồn tại và phát triển một cách tự nhiên không phụ
thuộc vào ý chí con người.
1.2. Lý luận về quan hệ sản xuất
Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tích cực của sản xuất thì
quan hệ sản xuất chính là mặt tự nhiên của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt:
Thứ nhất là quan hệ giữa người với vật thông qua việc chiếm hữu các tư
liệu sản xuất chính (gọi chung là quan hệ sở hữu)
Thứ hai là quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã
hội và cung cấp hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản lý)

3
Cuối cùng là quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản
phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối tiêu thụ)
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất
chủ yếu là quan hệ căn bản và đặc thù đối với mọi xã hội. Quan hệ về thị trường
quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sản
phẩm làm ra.
Trong xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề then chốt mà Đại hội
VI xác định là phải thực hiện cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý
và chế độ phân phối không được bỏ qua một mặt nào cả về phương diện lý luận,
không nghi ngờ gì nữa: chế độ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất. Nó là đặc
điểm để phân biệt giữa các quan hệ sản xuất khác nhau ở các thời đại kinh tế
khác nhau của lịch sử như trên đã nêu.
Thực tế lịch sử cho thấy rằng không một cuộc cách mạng xã hội nào chỉ
nhằm một mục đích kinh tế là để đảm bảo cho đất nước có điều kiện tiếp tục
phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của người dân cũng được cải thiện. Đó
là tính lịch sử tự nhiên của những sự chuyển đổi giữa các hình thái kinh tế – xã
hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của giai đoạn quá độ từ hình
thái kinh tế – xã hội nguyên thuỷ sang hình thái kinh tế – xã hội hiện đại.
Chỉ xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất
của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong
từng thị trường – xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị lúc nào cũng giữ
vai trò dẫn dắt các hình thức khác nhau giữa chúng để không những chúng trở
nên đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho việc ra đời và phát triển của nền kinh tế
– xã hội mới.
Nếu suốt trong quá khứ, đã không có một cuộc chuyển dịch nào từ hình
thái kinh tế – xã hội sang hình thái kinh tế – xã hội khác thực sự là một quá trình
tiến hoá êm ả, thì thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa
hoặc trước XHCN sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (CSCN) của thời
đại hiện nay cũng chỉ là một quá trình êm ả. Chủ nghĩa Mác – Lênin không bao

4
giờ coi hình thái kinh tế – xã hội nào đã tồn tại suốt từ xưa đến nay là chuẩn
nhất.
Trong các quốc gia – xã hội gắn với một quan hệ sản xuất cụ thể, điển
hình vẫn tồn tại nhiều quan hệ sản xuất lạc hậu, lỗi thời như là tàn tích của xã
hội cũ. Ngay ở tất cả những nước công nghiệp phát triển nhất cũng chưa có một
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt
nguồn sự phát triển không đều về kinh tế chẳng những giữa các nước với nhau
mà còn giữa các khu vực và các vùng khác nhau của một nước. Việc chuyển đổi
từ quan hệ sản xuất lạc hậu lên cao hơn nữa như C. Mác nói: "Không bao giờ
xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của các quan hệ đó chưa
chín muồi..." cần có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể sinh ra điều
kiện vật chất trên.
1.3. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
Trong tác phẩm nhằm phê bình khoa kinh tế – chính trị năm 1859 C. Mác
viết "Trong quá trình phát triển xã hội ra đời sống của mình, con người ta có
một số quan hệ nhất định, tất nhiên không phụ thuộc ý muốn của họ, tức là các
quan hệ sản xuất. Những quy luật này phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của con người...." Người ta cũng
coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất".
Cho đến nay hầu như quy luật trên đã được chứng minh cũng như nhiều
nhà nghiên cứu triết học Mác. Khái niệm "phù hợp" được hiểu với ý nghĩa phải
phù hợp mới tốt, mới hợp quy luật, không phù hợp là không đúng, là sai quy
luật. Có những vấn đề mà các lĩnh vực đưa ra với khái niệm "phù hợp" như vậy.
Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà xét một
cách khái quát thì đó là những dạng tổ chức và dạng những hoạt động từ đó hình
thành nên mối giao hệ chính căn bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối quan hệ của hai yêu tố
5
cơ bản này là gì? Phù hợp hay là không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn?
Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa trên.
Phù hợp là sự hài hoà, sự đồng nhất giữa những mặt đối lập hoặc "sự yên
tính" giữa các mặt.
Phù hợp là một xu hướng mà các dao động không ổn định sẽ cảm nhận
được.
Trong đó sự cân bằng chỉ là nhất thời còn sự không cân bằng là vĩnh viễn.
Chính đây là cội nguồn sinh ra sự vận động và phát triển. Ta biết rằng trong đó
cái tương đối không tách rời cái tuyệt đối và giữa chúng không tồn tại giới hạn
nào. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khách quan có thể hiểu sự ổn định như
một sự đứng yên, và sự không phù hợp được xem như sự vận động. Tức sự phát
triển của sản phẩm chỉ là nhất thời chứ không và không phải giữa chúng là mãi
mãi. Chỉ có thể quan niệm về sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận được
quy luật bất biến của sự vận động. Cũng vì thế mới có thể quan niệm về sự phát
triển chừng nào người ta thừa nhận, ý thức được sự phát triển trong mâu thuẫn
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận tính hữu hạn
không phù hợp giữa chúng.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của cuộc sống, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, nên
hình thành quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất – quy luật căn bản nhất của sự ổn định, phát triển xã hội.
Trình độ lực lượng sản xuất theo từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ
nhận thức tự nhiên của con người đối với giai đoạn lịch sử tương ứng. Trình độ
lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, tri thức, kinh
nghiệm và kĩ thuật lao động của con người, trình độ quản lý và quan hệ lao động
nội bộ, trình độ vận dụng khoa học vào thực tế.
Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ việc có tính chất
cá nhân thành tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ lạc hậu hoặc
phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất không có tính chất cá
6
nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ khoa học, tiên tiến, phân công lao động xã
hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
Sự vận động, phát triển của thị trường quyết định và làm biến đổi quan hệ
sản xuất để phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới hình thành, khi
ấy quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính chất độc lập tương đối với tác động vào quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất có tác động lên
thái độ con người trong lao động sản xuất, cách tổ chức lực lượng lao động xã
hội, sự phát triển và nghiên cứu khoa học và kỹ thuật.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật chủ yếu tác động tới toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự
kết thúc phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ thực dân nguyên thuỷ, qua chế
độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa rồi sang xã
hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong
đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến nhất.
Từ việc nghiên cứu một cách nghiêm túc khách quan, toàn diện, nhìn
thẳng vào sự thật chúng ta đã rút được những kinh nghiệm quý báu trong nhận
thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
xã hội về các vấn đề sau đây:
Nhận thức xã hội chủ nghĩa không trong một chỉnh thể, ngoài chế độ sở
hữu, chính muốn nhanh chóng thiết lập kinh tế thị trường với bất kì giá nào, coi
sở hữu tư nhân vượt khỏi bản chất của nó và cần phải được bãi bỏ; coi nhẹ việc
quản lý - sản xuất và lưu thông; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người tiêu
dùng, trong khi đời sống của nhân dân đang gặp nhiều khó khăn, v.v.

7
Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là coi thường quy luật
cung cầu, quan hệ tài chính - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo nên cơ chế kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất
loạt giống nhau trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau ở những vùng
miền, địa phương khác nhau (vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo) với những trình độ lực lượng sản xuất cũng khác nhau, tức là cào
bằng về quan hệ sản xuất gây ra nhiều trở ngại, khó khăn, nhất là trong phát
triển kinh tế, xã hội.
Từ đó Đại hội VI đã rút ra chân lý vô cùng quan trọng là "Đảng phải luôn
luôn bắt đầu từ thực tiễn, nhận thức và hành động theo quy luật tự nhiên", phải
"làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất để luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất".
Công cuộc đổi mới xét về nội dung chính là quay trở về với quy luật, nhận thức
đúng đắn hơn với một số tư tưởng căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và thời đại mới.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VẬN DUNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY
2.1. Giai đoạn năm 1975 đến 1986
Ở nước ta sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bảo vệ Tổ quốc
30/4/1975 đến đầu thời kỳ đổi mới 1986 vẫn thực hiện mô hình quản lý kinh tế
kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người,
sức của phục vụ kháng chiến và sản xuất, song kinh tế phát triển chưa theo chiều
sâu, hiệu quả thấp. quá chú trọng đến đổi mới quan hệ sản xuất mà không hiểu
đầy đủ nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối. Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo
dài, sản xuất giảm sút, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.
Những hạn chế như vậy, có nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân cơ bản
là chúng ta đã chủ quan, nóng vội, cực đoan dẫn đến việc nhận thức và áp dụng
chưa đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
8
của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tại của một đất
nước kinh tế kém phát triển, đời sống nhân dân thấp song luôn cố gắng tạo ra
một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Đảng
ta đã họp Hội nghị Trung ương lần thứ 24 khoá III, tại Hội nghị này đã công
nhận sự tồn tại của 5 thành phần kinh tế ở miền Nam và 3 thành phần kinh tế ở
miền Bắc. Mặc dù chưa phân định rạch ròi từng thành phần kinh tế nhưng đây
chính là tư tưởng của mô hình kinh tế đa thành phần, tuy nhiên, quá trình tổ
chức thực hiện đã không thống nhất áp dụng tư tưởng này trong thực tiễn xây
dựng quan hệ sản xuất sau khi đổi mới.
Mặc khác, với việc áp dụng hai hình thức nhà nước và tập thể theo mô
hình Liên Xô, xoá bỏ thị trường tự do và sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, kết hợp
CNXH với chủ nghĩa tư bản, thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp mệnh lệnh. Việc sử dụng mô hình xã hội chủ nghĩa dùng chung cho cả
nước đã đi vào khủng hoảng nghiêm trọng, đẩy đất nước lâm vào tình trạng khó
khăn, suy cho cùng nguyên nhân chính là việc thiết lập “quan hệ sản xuất” vượt
quá xa trình độ phát triển kinh tế và không phù hợp với điều kiện đất nước trong
thời bình. Trước thực trạng nêu trên, ở các địa phương đã tự phát tìm kiếm con
đường, lối thoát nhằm hoá giải bài toán tư duy kinh tế như hình thức khoán hộ
đầu tiên bắt nguồn từ Đồ Sơn , Vĩnh Lạc . Đây được coi là những “bước đột phá
lớn”, một bước thí điểm, tìm tòi quan trọng cho thời kỳ xây dựng đất nước 1986,
cốt yếu vẫn là cải tạo lại kết cấu hạ tầng sao cho phù hợp với trình độ hiện có
nhằm phát triển nền kinh tế, khắc phục khó khăn, nâng cao đời sống nhân dân.
2.2. Giai đoạn 1986 đến nay
Đại hội lần thứ VI của Đảng là dấu mốc lớn khẳng định công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, trong đó có sự đổi mới nhận thức và vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Như
vậy, nhìn từ định hướng đường lối, mục tiêu, cho đến chính sách, biện pháp cụ
thể phát triển kinh tế - xã hội được trình bày tại Đại hội VI, Đảng ta đều nhấn
mạnh vào tầm quan trọng khách quan của nó, phản ánh sự nhận thức mới của
9
Đảng ta về vấn đề cải tạo thị trường, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo các hướng xã hội chủ nghĩa và là cơ sở cho việc hoạch định đường lối
phát triển đất nước trong những nhiệm kỳ sau của Đảng. Trong đó, lấy kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 
Đại hội lần thứ IX của Đảng, trên cơ sở tổng kết 15 năm đổi mới và kế
thừa thành quả của công cuộc đổi mới, đặc biệt trong việc đi sâu cải tạo, xây
dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng đã tiếp tục bổ sung thêm 1 thành
phần kinh tế trong hệ thống cơ cấu kinh tế của nước ta, đó là “kinh tế có vốn đầu
tư ở nước ngoài”, mặc dù có không ít những ý kiến trái chiếu, song, xét thực tiễn
khách quan ở Việt Nam thì việc tồn tại thành phần kinh tế này là cần thiết cho
sự phát triển. Đảng đặt ra mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Về quan hệ sản xuất, Đảng khẳng định, tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế đa thành phần. Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật phải là bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển bền vững, bình đẳng và cạnh tranh công
bằng.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) đánh dấu nâng lớn cả nhận thức lý
luận và thực tiễn của quá trình đổi mới. Đại hội đã bổ sung nhận thức và hiểu
sâu hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã đề ra mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, đồng thời xác định 8 phương hướng cơ bản,
theo đó phải giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn, trong đó có việc giải quyết mối
quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và đổi mới, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, không nóng vội, cực đoan, duy ý chí. Đảng ta
đã có sự khẳng định rõ ràng về mối quan hệ cơ bản này "Trong công cuộc đổi
mới kinh tế, . .. phải kịp thời điều chỉnh các mặt cấu thành quan hệ sản xuất, đặc
biệt là quan hệ sở hữu, các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế để bảo

10
đảm sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, nhằm giải phóng và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất"
Qua tổng kết, có thể nói, lần này, Đảng ta đã có bước tiến lớn về nhận
thức trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn
với việc tuân thủ quy luật và sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của
lực lượng sản xuất, nhận thức rõ ràng hơn về vị thế, vai trò của các thành phần
kinh tế, trong đó có các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa so với thời kỳ
mới bắt đầu công cuộc đổi mới. Đại hội lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong điều
kiện thế giới và trong nước có nhiều biến đổi với sự xuất hiện của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ lần thứ tư, ảnh hưởng của đại dịch toàn cầu Covid –
19 dẫn đến các nguy cơ và thách thức to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội
nước ta. Kế thừa, phát triển từ 12 kỳ Đại hội trước đến Đại hội lần này, trải qua
35 năm đổi mới, Đảng ta luôn giữ vững một con đường, một đường lối, Đảng ta
đã quyết tâm phấn đấu, kiên định vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời
cũng vận dụng sáng tạo quy luật kinh tế thị trường phù hợp với sự phát triển của
thế giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức tốt quy luật kinh tế thị
trường thì sẽ tiếp tục thực hiện thắng lợi “khát vọng phát triển Việt Nam” từ nay
đến năm 2030, để nước Việt Nam phát triển mạnh lên và phồn vinh trước năm
2045, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
phát triển, thu nhập cao.
2.3. Đề xuất hướng giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với thực
tiễn Việt Nam trong thời gian tới
Một là, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn để nhận thức và vận dụng pháp luật XHCN phù hợp với xu thế phát triển
của khoa học kỹ thuật ở nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tăng cường hội nhập quốc tế.

11
Hai là, cần đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, về sở hữu đối với các khu vực kinh tế, khắc phục một số vấn đề còn
lúng túng, thiếu thống nhất, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng sản
xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu ở
nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vấn đề sắp xếp, lại, cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nước; vai trò kinh tế liên kết, kinh tế chia sẻ; vai
trò động lực phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài; vấn đề kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể và các mối quan hệ kinh tế
giữa các khu vực kinh tế của nền kinh tế nước ta trong tiến trình phát triển bền
vững đất nước.
Ba là, tập trung hoàn thiện tư duy và giải pháp phát triển đồng bộ cả về
thể chế, công nghệ, môi trường, văn hoá, xã hội. Xây dựng tư duy mới về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về thể chế, về phương thức phát
triển kinh tế. Đẩy mạnh cải thiện toàn diện thể chế về huy động và khai thác có
hiệu quả các nguồn lực; áp dụng cơ chế thị trường nhằm chuyển đổi hợp lý quan
hệ giữa Nhà nước và thị trường trong phân phối các tư liệu sản xuất; đảm bảo
bình đẳng thực sự giữa các khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hoá các tổ chức để
cung ứng các dịch vụ công (giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ. ..) và phúc
lợi xã hội, bảo vệ an sinh xã hội, sức khoẻ của nhân dân.
Bốn là, tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ về kinh tế và xã hội. Tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện thể chế và chính sách kinh tế - xã hội, nhằm bảo đảm sự
phát triển bền vững của đất nước. Xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao
và thu hút nhân tài, đặc biệt trong công tác quản lý, điều hành của nhà nước. Đổi
mới thể chế để đảm bảo hiệu lực thi hành pháp luật và chính sách; mở rộng dân
chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống các loại thị trường để đảm bảo tính thị trường trong
việc vận hành nền kinh tế; hoàn thiện cơ chế vận hành từng loại thị trường phù
hợp với thực tiễn của đất nước và thông lệ quốc tế. Khẩn trương nghiên cứu và
tổ chức thực thi có hiệu quả Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU
(EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, nhằm mở rộng các thị trường dịch vụ,
12
vốn, công nghệ, tài chính, logistisc, hàng hoá nông nghiệp, thuỷ sản, may mặc,
giày dép vv. .. cũng như thu hút dòng đầu tư chất lượng cao, tham gia sâu vào
chuỗi cung ứng toàn cầu, đóng góp tích cực làm cho kinh tế của đất nước tăng
trưởng nhanh, bền vững với chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Năm là, tiếp tục đổi mới căn bản mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy
mạnh, có hiệu quả phân bổ nguồn lực; tạo động lực phát triển; sử dụng bước
hoàn thiện chế độ sở hữu đối với các thành phần kinh tế; bảo đảm nền kinh tế
độc lập tự chủ trong thời kỳ mở cửa, tích cực hợp tác quốc tế; hài hoà chặt chẽ 3
trụ cột phát triển gồm: kinh tế - xã hội - tài chính; vai trò văn hoá, xã hội, môi
trường và đổi mới tiến bộ, gắn, bình đẳng. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hoàn
thiện chế độ chính sách trong các xã hội như cải tiến chế độ tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. .. nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
lao động và hợp tác.

13
C. KẾT LUẬN

Càng ngày chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện mối quan hệ
hữu cơ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn
giữa chúng qua các thời kỳ phát triển. Về đặc điểm kinh tế trong điều kiện xã
hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ loại "có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và đa dạng về các tư liệu sản xuất
chủ yếu" (Cương lĩnh năm 1991) thành "có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
công nghệ hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp" (Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011). Nhìn tổng quát trong 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, có thành tựu về nghiên cứu và
vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong điều kiện đổi mới và hội nhập
quốc tế, việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất gắn với từng bước hoàn
thiện quan hệ sản xuất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn tình trạng
tụt hậu xa về kinh tế đang là một yêu cầu cấp thiết. Tóm lại, có thể nói, công
cuộc đổi mới đất nước được Đảng ta khởi xướng trong 35 năm qua là quá trình
ngày càng nhận thức và vận dụng đầy đủ những quy luật phát triển phù hợp với
trình độ của nhân dân trong điều kiện thực tế ở Việt Nam khi chúng ta đang tiến
hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoàn thiện nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Thực tiễn cho thấy, đường lối đổi mới
của Đảng là phù hợp với quy luật khách quan, có ý nghĩa lịch sử trên con đường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Song, thực tế có nhiều
thời điểm vẫn chưa được vận dụng, nhận thức đầy đủ cụ thể trong đường lối,
chính sách của Đảng, điều này cần phải được tiếp tục nghiên cứu việc làm rõ,
tránh gây nhận thức nhầm trong nhân dân, bị một số phần tử cơ hội lợi dụng gây
chia rẽ, ảnh hưởng đến con đường mà chúng ta đang đi trên con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc đại học – Không
chuyên lý luận chính trị), Chủ biên GS.TS Hoàng Chí Bảo cùng Đồng chủ
biên và Tập thể tác giả – Bộ Giáo dục và Đào tạo – Hà Nội – 2019

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47 (1986), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51 (1991), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (tập I, II), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng
kết lý luận, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm
đổi mới (1986-2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng
kết, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.

15
10. Hội đồng Lý luận Trung ương, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội, 2020.

11. Phạm Văn Linh (chủ biên), Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai đoạn
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 06- NQ/TW, Hội nghị BCHTW
lần thứ 6, khoá VI, ngày 29/03/1989 “Về kiểm điểm hai năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng nhiệm vụ ba năm tới”

13. Tổng cục Thống kê(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - Tình hình kinh tế- xã hội quý
IV và năm 2019.

16
NHẬN XÉT TIỂU LUẬN

..
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………................................

Điểm bằng số Điểm bằng chữ

17
18

You might also like