You are on page 1of 31

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT


MÔN HỌC:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
TIỂU LUẬN

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO SỨC CẠNH


TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

GVHD TH.S: TRƯƠNG QUANG ĐỨC


SVTH:

1. Lê Văn Như 22842141


2. Nguyễn Ken Win 22842179
3. Nguyễn Văn Hải 22842126
4. Phạm Anh Vũ 22842177
5. Lại Hùng Minh 22842139
Mã lớp học: 22LC42SP3L

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 10 năm 2023


Trang i
LỜI MỞ ĐẦU

Sau khi được học tập, nghiên cứu dưới sự dẫn dắt, hướng dẫn tận tình của
ThS. Trương Quang Đức , tự bản thân chúng em đã hiểu hơn những tinh hoa của
môn học trong việc lý giải, chứng minh và làm nền tảng ứng dụng cho việc xử lý
những vấn đề trong công việc, cuộc sống.
Trên cơ sở thực hiện bài tiểu luận được giao với chuyên đề “ Hội nhập kinh
tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.”. Chúng
em đã có dịp được đọc, tìm hiểu thêm các tài liệu liên quan để thực hiện chuyên đề
này. Kết quả của quá trình học tập, tiếp thu kiến thức tại trường, lớp và cả những tìm
tòi, nghiên cứu riêng của bản thân em và sự chỉ dạy tận tình của người đã trực tiếp
hướng dẫn em trong môn học này.
Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi
đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến
kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua những năm đổi mới là minh chứng
xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự
nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề
còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.
Để thực hiện được chuyên đề này, với tất cả sự kính trọng, chúng em xin được
kính gửi lời cảm ơn chân thành đến ThS. Trước Quang Đức đã trực tiếp giảng dạy,
truyền đạt cho chúng em những kiến thức chuyên sâu về Kinh tế chính trị Mác- Lê
Nin, giúp chúng em nhận ra đây không phải là một môn học nhàm chán như những gì
chúng tôi đã cảm nhận khi còn là sinh viên Đại Học, mà nó là một môn khoa học ứng
dụng trong việc giải quyết những hiện tượng thế giới quan, hay đơn giản chỉ là những
vấn đề xã hội thường gặp.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Trang ii
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……

Điểm: ……………………………..

Ký tên

Trang iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ............ 2
1.1. Khái niệm cạnh tranh ................................................................................... 2
1.2. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế ............................................................. 2
1.3. Sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế ....................................... 3
1.4. Những vấn đề chung của hội nhập kinh tế quốc tế ...................................... 4
1.5. Tổng quan về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ khi mở
cửa đến nay ............................................................................................................ 5
1.6. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến kinh tế của Việt Nam .............. 7
1.6.1. Tác động tích cực – lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế ......................... 7
1.6.2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế ..................................... 11
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH
TẾ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...................................... 14
2.1. Thực trạng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay ................... 14
2.2. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế trước sức ép hội nhập . 20
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 27

Trang iv
MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không
chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả
lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị
trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao
đổi thương mại. Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập
hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được
lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các
mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình hội nhập. Hội nhập giúp cho việc mở
rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường
ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh
tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và
hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế
hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Để tìm hiểu vấn đề trên, nhóm em chọn: “Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam” làm đề tài tiểu luận

Trang 1
CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là đặc trưng nền kinh tế thị trường khi cung - cầu hàng hóa và giá cả
hàng hóa là yếu tố quyết định. Các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh đều mong muốn có các điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất, như: tối thiểu hóa
chi phí đầu vào (chi phí nguyên vật liệu đầu vào thấp, chi phí nhân công rẻ)… điều
này làm cho các doanh nghiệp có sự “tìm kiếm”, “ganh đua” nhau để đi tìm những
điều kiện thuận lợi nhất. Doanh nghiệp phải tìm nguồn nguyên liệu rẻ, nâng cao nâng
suất lao động, cải tiến máy móc thiết bị… Chính điều này thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và tạo ra nhiều lợi ích hơn cho xã hội, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn sản
phẩm hay dịch vụ hơn và được sử dụng những sản phẩm hay dịch vụ tốt hơn.
Theo nhà kinh tế học Michael Poter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy thị
phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức
lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả
có thể giảm đi.
1.2. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giao lưu, hợp tác, gắn kết nền kinh tế của quốc gia
này với quốc gia khác hoặc tổ chức kinh tế khu vực hội nhập với toàn cầu. Đây là xu hướng
tất yếu trong quá trình phát tri ển kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới.

Trang 2
Trong hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế là giai đoạn phát triển cao mà mỗi quốc gia sẽ
tham gia vào quá trình áp dụng, xây dựng các quy tắc và luật lệ của cộng đồng. Khi đó các
thành viên sẽ chịu sự ràng buộc theo các quy định chung của cả khối kinh tế. Nhưng vẫn đảm
bảo sự phù hợp và đạt lợi ích cho dân tộc mình.
1.3. Sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Toàn cầu hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng
giữa các quốc gia trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hoá diễn ra trên nhiều phương diện:
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội v.v... trong đó, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế nổi trội
nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũ nệ là động lực thúc đẩy toàn cầu hoá các
lĩnh vực khác. Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế
vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế trờ thành tất yếu khách
quan:
Toàn càu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động
quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đôi ngày càng gia tăng, khiến cho
nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh
tế toàn cầu. Trong toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm
vi toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm
bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo
ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày
càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách mạng công nghiệp, biến nó thành
động lực cho sự phát triển.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phố biến của các nước,
nhất là các nước đang và kém phát triền trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp
cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm của các nước cho phát triển của mình. Khi mà các nước tư bản giàu có nhất,
các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và phương
tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ có phát triển kinh tế mở và

Trang 3
hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận được nhưng
năng lực này cho phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát
triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên
tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy công nghiệp
hoá, tăng tích luỹ; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương
đối của các tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, điều càn chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và
công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hoá thành
quá trình tự do hoá kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Điều này
khiến cho các nước đang và chưa phát triển phải đôi mặt với không ít rủi ro, thách
thức: đó là gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài, tình trạng bất bình đẳng trong trao
đồi mậu dịch - thương mại giữa các nước đang phát triền và phát triển. Bởi vậy, các
nước dang và kém phát triền phát triền cần phải có chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối
sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và đầy nghịch lý.
1.4. Những vấn đề chung của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả thành công
Hội nhập là tất yếu, tuy nhiên, đối với Việt Nam, hội nhập không phải bằng mọi giá.
Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu. Quá trình này
đòi hỏi phải có sự bị các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng như các mối quan hệ
quốc tế thích hợp.
Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của toàn xã hội, sự hoàn thiện và hiệu
lực của thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trường quốc tế; nền kinh tế có năng
lực sản xuất thực là những điều kiện chủ yếu để thực hiện hội nhập thành công.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó hội nhập kinh tế
quốc tế có thể được coi là nông, sâu tùy vào mức độ tham gia của một nước vào các
quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Theo đó, tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế. được chia thành các mức độ cơ bản từ thấp đến cao là:

Trang 4
Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực màu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế
quan (CT)
Thị trường chung (hay thị trường duy nhất), Liên minh kinh tế – tiền tệ...
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại
của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư quốc tế, hợp tác
quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ...
1.5. Tổng quan về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ khi mở
cửa đến nay
Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995 đã mở đầu cho tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sự kiện đánh dấu bước hội nhập toàn diện của
Việt Nam với nền kinh tế thế giới.
Trên nền tảng đó, giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã tích cực, chủ động trong đàm
phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do mới với các đối tác. Tính đến tháng
04/2019, Việt Nam đã tham gia thiết lập 16 Hiệp định thương mại tự do với 56 quốc
gia và nền kinh tế trên thế giới, bao gồm: AFTA (đối tác ASEAN) có hiệu lực từ năm
1993; ACFTA (đối tác ASEAN, Trung Quốc), có hiệu lực từ năm 2003; AKFTA (đối
tác ASEAN, Hàn Quốc), có hiệu lực từ năm 2007; AJCEP (đối tác ASEAN, Nhật
Bản), có hiệu lực từ năm 2008; VJEPA (đối tác Việt Nam, Nhật Bản), có hiệu lực từ
năm 2009; AIFTA (đối tác ASEAN, Ấn Độ), có hiệu lực từ năm 2010; AANZFTA
(đối tác ASEAN, Úc, New Zealand), có hiệu lực từ năm 2010; VCFTA (đối tác Việt
Nam, Chi Lê), có hiệu lực từ năm 2014; VKFTA (đối tác Việt Nam, Hàn Quốc), có
hiệu lực từ năm 2015; Việt Nam - EAEU FTA (đối tác Việt Nam, Nga, Belarus,
Amenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan), có hiệu lực từ năm 2016; CPTPP (Tiền thân là
TPP) (đối tác Việt Nam, Canada, Mexico, Peru, Chi Lê, New Zealand, Úc, Nhật Bản,
Singapore, Brunei, Malaysia), có hiệu lực từ ngày 30/12/2018, có hiệu lực tại Việt
Nam từ ngày 14/1/2019.
FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực: AHKFTA (đối tác ASEAN, Hồng Kông
(Trung Quốc)), ký tháng 11/2017; AHKFTA (đối tác ASEAN, Hồng Kông (Trung
Quốc), ký tháng 11/2017.

Trang 5
Kết thúc đàm phán nhưng chưa kí: EVFTA (đối tác Việt Nam, EU (28 thành viên)),
Kết thúc đàm phán tháng 2/2016.
FTA đang đàm phán: RCEP (đối tác ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn
Độ, Úc, New Zealand), Khởi động đàm phán tháng 3/2013; Việt Nam - EFTA FTA
(đối tác Việt Nam, EFTA (Thụy Sĩ, Na uy, Iceland, Liechtenstein), Khởi động đàm
phán tháng 5/2012; Việt Nam - Israel FTA (đối tác Việt Nam, Israel) Khởi động đàm
phán tháng 12/2015. (http://www.trungtamwto.vn).
Trong 16 Hiệp định thương mại tự do, có 6 FTA thế hệ mới là Hiệp định Việt Nam
- EU và Hiệp định CPTPP (tiền thân là TPP). Đây là các FTA thế hệ mới với diện cam
kết rộng và mức cam kết sâu, vượt ra ngoài khuôn khổ tự do hóa thương mại hàng hóa.
Ngoài cam kết về tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, các nước tham gia còn
cam kết trên nhiều lĩnh vực khác như mua sắm Chính phủ, lao động, môi trường, sở
hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhà nước, đầu tư… Có thể kể đến các FTA “thế hệ mới”
như: FTA Việt Nam - EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên
Đại Tây Dương (TTIP); các FTA ASEAN + 1; FTA Australia - Hoa Kỳ (AUSFTA)...
Theo lộ trình cam kết giai đoạn 2016 -2020, phần lớn các hiệp định thương mại tự do
mà Việt Nam tham gia đều bước sang giai đoạn cắt giảm sâu, xóa bỏ hàng rào thuế
quan đối với phần lớn các dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu. Trong đó:
Xét về mức độ cam kết, hầu hết các FTA mà Việt Nam đã ký kết thì mức độ tự do hóa
về thuế nhập khẩu trung bình khoảng 90% số dòng thuế, trừ Hiệp định ASEAN
(ATIGA) là Hiệp định nội khối với mức cam kết tự do hóa xấp xỉ 97%.
Xét về lộ trình, FTA hoàn thành lộ trình sớm nhất là ATIGA (2018), tiếp đó là
ACFTA (2020) và AKFTA (2021). Hiện nay, mức độ tự do hóa thuế quan của Việt
Nam với các đối tác FTA đã ở mức khá cao: Trong ATIGA đạt khoảng 93%, ASEAN
- Trung Quốc 84% số dòng thuế về 0%, ASEAN - Hàn Quốc 78% và ASEAN - Nhật
Bản 62%. Cam kết về thuế nhập khẩu trong 2 khuôn khổ FTA thế hệ mới là TPP và
Việt Nam - EU có tỉ lệ tự do hóa cao hơn với lộ trình ngắn hơn, hướng tới cam kết xóa
bỏ thuế quan đối với 100% số dòng thuế, cụ thể như sau:
Với EU, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với
48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch nhập khẩu từ EU và sau 10 năm
là khoảng 99% số dòng thuế, tương đương 99,8% kim ngạch nhập khẩu từ EU. Đối

Trang 6
với số dòng thuế còn lại, Việt Nam sẽ có lộ trình trên 10 năm hoặc dành ưu đãi cho EU
trên cơ sở hạn ngạnh thuế quan của WTO.
Trong CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế đối với khoảng 66% số dòng thuế ngay
khi Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ đối với 86,5% số dòng thuế sau 3 năm Hiệp định
có hiệu lực. Các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình giảm thuế cơ bản từ 4 -10 năm. Một số
mặt hàng đặc biệt nhạy cảm, Việt Nam cam kết lộ trình trên 10 năm hoặc hạn ngạch
thuế quan.
Như vậy, sau hơn 3 thập kỉ mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và
đang từng bước chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế theo
các thang bậc: Từ hẹp đến rộng về đối tác và lĩnh vực cam kết, từ thấp tới cao về mức
độ cam kết. Về hội nhập đa phương, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Phát triển Á Châu, Quỹ Tiền tệ thế giới,
Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh
và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu
vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Về hội nhập song
phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh
thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các
nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có các nước trong
nhóm G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến
lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan
hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha.
1.6. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến kinh tế của Việt Nam
1.6.1. Tác động tích cực – lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát
triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Từ một nước bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã bình thường hóa quan hệ với tất cả
các nước và các tổ chức quốc tế, tiến đến thiết lập quan hệ và ký kết các hiệp định,
thỏa thuận hợp tác và hội nhập kinh tế ở tất cả các cấp độ song phương, khu vực và đa
phương.

Trang 7
Sau hơn 35 năm đổi mới, đặc biệt là từ khi thực hiện Cương lĩnh 1991,Việt Nam đã
tham gia tất cả các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực chủ chốt như WTO,
ASEM,APEC, ASEAN, thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và 70 vùng
lãnh thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của
các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và
nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để
thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và
công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta ra làm sản
phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội
mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội
để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính của Việt
Nam, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ năm 1992 đã
đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng trong việc nâng cấp và phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng…
Đối với xuất, nhập khẩu: Quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong hội
nhập kinh tế quốc tế, hoàn thiện hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế và
cắt giảm hàng rào thuế quan đã tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu
của Việt Nam.
Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản thương mại
để tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Theo thống kê của Tổng
cục Hải quan (Bộ Tài chính), năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam với các thị trường đối tác FTA đạt 480 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2020
và chiếm gần 72% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với toàn thế giới.
Trong đó, xuất khẩu đạt 212,9 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2020, chiếm 63% kim
ngạch xuất khẩu; nhập khẩu đạt 267,2 tỷ USD, tăng 26,7%, chiếm 80% kim ngạch
nhập khẩu. Trong đó, các đối tác FTA của Việt Nam đều là các đối tác thương mại
quan trọng, thể hiện ở giá trị thương mại lớn và tỉ trọng cao trên tổng số liệu thương

Trang 8
mại với thế giới của Việt Nam hằng năm. Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã
và đang đàm phán luôn chiếm trên 80% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam.
Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc
đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất
khẩu theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện
đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm
lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
Đối với thu hút FDI: Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh tế quốc
tế đã và sẽ mở ra các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của Việt Nam. Đầu tư tại Việt
Nam, các nhà đầu tư có thể tiếp cận và hưởng ưu đãi thuế quan từ các thị trường lớn
mà Việt Nam đã ký kết FTA như khu vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ...
Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP,
EVFTA (dỡ bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng,
không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ
khiến cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn,
thuận lợi hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa.
Không chỉ là nguồn lực quan trọng góp phần đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế,
bổ sung nguồn vốn đáng kể cho tăng trưởng, chuyển giao công nghệ, tăng cường khả
năng xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm, FDI còn có vai trò quan trọng trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam: trong
những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa
phương các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam trước đây được giải quyết thông qua
câu lạc bộ Paris, London và đàm phám song phương. Điều đó góp phần ổn định cán
cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã
hội trong nước.
Trên cơ sở các cam kết hội nhập, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, hội
nhập kinh tế quốc tế đã tạo động lực thúc đẩy đổi mới thể chế kinh tế theo hướng ngày
gần với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Cùng với quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã có
bước tiến lớn trong việc ban hành và sửa đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp với thông

Trang 9
lệ quốc tế nhằm làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng minh bạch, bảo đảm sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh, đầu tư phát triển; đó là điều kiện bắt buộc và cũng là yêu cầu cấp thiết trong
quá trình đổi mới đường lối và chính sách đối ngoại, tham gia ngày càng sâu và rộng
vào sân chơi quốc tế. Việc thu hút và sử dụng ĐTNN trong những năm qua còn góp
phần tích cực hoàn thiện thể kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh theo các nguyên
tắc của kinh tế thị trường; nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, hỗ
trợ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đây là thành tựu quan trọng và nổi bật của việc thực hiện đường lối và chính sách đối
ngoại đổi mới, được cộng đồng doanh nghiệp thừa nhận. Điều quan trọng cần nhấn
mạnh là, khi thể chế trong nước được đổi mới càng sát với chuẩn mực và thông lệ
quốc tế thì càng trở thành động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu khoa học
công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý. Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh
thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây
dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị trường nước ta với
khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả. Qua đó mà các
kỹ thuật và công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để
chúng ta lựa chọn kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kỹ thuật công nghệ
quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh
doanh được đào tạo trong và ngoài nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh
bạch hơn, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây Việt Nam chủ
yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu. Hiện nay Việt Nam
thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế giới, đồng thời cũng là
thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN, WTO, APEC…Chính vì thế
mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn định, uy tín của Việt Nam ngày

Trang 10
càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu
rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế,
thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh
của nước ta ngày càng được cải thiện; thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm
cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày
càng vững mạnh.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, nâng
cao trình độ, kỹ năng của lực lượng lao động, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội
và phát triển bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đóng vai trò quan trọng
trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn là kênh quan trọng góp phần tạo việc làm và
nâng cao năng suất lao động.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang tới những cơ hội để tiếp cận các xu thế mới, tri thức
mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ
để phát triển giáo dục. Nhờ tăng cường hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa, chúng
ta đã có thêm những nguồn lực, cơ hội mới giúp bảo vệ và phát huy có chất lượng,
hiệu quả hơn di sản văn hóa Việt Nam. Với việc tham gia các Công ước và nỗ lực từ
Trung ương tới địa phương, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của ta đã được
UNESCO công nhận, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội. Mở cửa,
đổi mới tạo điều kiện cho sự giao lưu của các luồng văn hóa, đồng thời cũng tạo điều
kiện cho việc phổ biến di sản văn hóa của nước ta ra nước ngoài.
1.6.2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Bên cạnh những thành quả và ưu điểm nêu trên, hội nhập kinh tế quốc tế thời gian
qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất câp. Những hạn chế và bất cập này đã được nêu
lên trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt gần đây là Nghị quyết số 06-NQ/TW về
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị -
xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ
mới, cũng như trong nhiều công trình nghiên cứu và trên các diễn đàn kinh tế. Những
hạn chế, bất cập chủ yếu là:

Trang 11
Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa biến thành yếu tố nội sinh
trong hành động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp.
Các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế chậm được lồng ghép, nhìn nhận
đầy đủ trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chưa gắn kết chặt chẽ
với công tác quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội, và thiếu nguồn lực để thực
hiện. Tính gắn kết giữa các ngành, lĩnh vực chưa cao, nhiều vấn đề mang tính liên
ngành chậm được xử lý hoặc xử lý cục bộ, ngắn hạn. Ở cấp độ vi mô, chủ trương,
chính sách hội nhập chưa được cụ thể hóa dẫn đến tình trạng thụ động, các doanh
nghiệp chưa nhận thức hết tính cấp thiết và lợi ích của hội nhập đối với hoạt động kinh
doanh của mình. Cơ chế giám sát, theo dõi việc thực hiện các kế hoạch, đề án, chương
trình về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự được chú trọng, gây khó khăn trong việc
tổng hợp đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết quả của việc triển khai một cách xác
đáng và toàn diện.
Đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu: Dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc có tận
dụng được các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không lại phụ thuộc vào
việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác (an toàn thực
phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn
hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và
mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với sản xuất trong nước: Việc tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng
nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước TPP, EU vào
Việt Nam do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ tác
động đến lĩnh vực sản xuất trong nước.
Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu
quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh
hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong
nước.
Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng
trước sự cạnh tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là những đối
tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.

Trang 12
Phải nhìn nhận thực tế, từ sau khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế đến nay, tăng
trưởng xuất khẩu tuy nhanh nhưng chưa bền vững, rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc
từ bên ngoài. Hơn nữa, phần lớn sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia
công; các doanh nghiệp FDI thích ứng và tận dụng ưu đãi từ FTA tốt hơn. Ngoài ra,
những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn của Việt Nam đều
hạn chế về năng suất, diện tích, khả năng khai thác (nông, lâm, thủy sản và khoáng
sản) hoặc phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ, nguyên liệu hay thị trường ngoài nước
nên giá trị gia tăng thấp (dệt may, da giày).

Trang 13
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế mạnh
mẽ, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập, so
với các nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn có những khoảng
cách nhất định. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song nền
kinh tế đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại, năng lực cạnh tranh còn
yếu trên nhiều mặt. Mức thu nhập của Việt Nam còn thấp, ngay cả so với các nước
láng giềng trong khu vực. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, khoảng cách thu nhập của
người dân Việt Nam so với mức trung bình của các nước đang phát triển tại châu Á
ngày càng dãn ra. Hơn nữa, những bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn đang hiện hữu cho thấy
tăng trưởng của Việt Nam còn mong manh. Bên cạnh đó, những diễn biến và thay đổi
của môi trường bên ngoài đang diễn ra nhanh chóng và phức tạp, ngày càng tác động
nhiều hơn tới nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, trong giai đoạn mới cần đặt năng lực
cạnh tranh và hiệu quả bền vững làm trung tâm khi lựa chọn định hướng chiến lược và
mô hình tăng trưởng cho nền kinh tế.

Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam

Trang 14
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công
bố hàng năm nhằm đánh giá và xếp hạng các nền kinh tế trên thế giới về khả năng
cạnh tranh. Theo đánh giá của WEF, năm 2017, Việt Nam xếp hạng thứ 55/137 nền
kinh tế, tăng 5 bậc so với năm 2016 và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi
WEF công bố GCI. Với thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như:
Lào (98); Campuchia (94); Philipinnes (56), nhưng còn khoảng cách rất xa so với
Singapore (3); Malaysia (23); Thái Lan (32); Indonesia (36) và các nền kinh tế lớn của
châu Á là Nhật Bản (9); Hàn Quốc (26); Trung Quốc (27); Ấn Độ (40).
Trải qua 10 năm, GCI của Việt Nam cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng 68/131 năm
2007 đã lên 55/137 năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh
tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019, WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam
tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp thứ 67/141 nền kinh tế. Đánh giá của WEF về chi
tiết 12 tiêu chí của Việt Nam cho thấy, 8/12 tiêu chí của Việt Nam tăng điểm và tăng
nhiều bậc.
Đáng chú ý trong số đó, trụ cột ứng dụng công nghệ thông tin tăng điểm và tăng
hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69 điểm và theo đó thứ
hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành phần trong trụ cột này đều tăng
điểm, tăng hạng (như thuê bao internet cáp quang, thuê bao di động, số người sử dụng
internet…). Tiếp đến là trụ cột thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ
79), với các chỉ số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở
thương mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.
Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí 89), với
những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần (ngoại trừ phá sản DN),
nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các DN đổi mới sáng tạo, DN có ý tưởng đột
phá. Trụ cột năng lực đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76).
Trụ cột thể chế tăng 0,3 điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể
nhất là nhóm các chỉ số thể hiện mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng
mạnh.
Tuy nhiên, với 12 trụ cột này thì còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị trí không
đổi. Cụ thể, trụ cột ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm số và thứ hạng (giữ ở
mức 75 điểm và thứ hạng 64). Trụ cột hệ thống tài chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1

Trang 15
bậc; trụ cột cơ sở hạ tầng tăng 0,5 điểm, nhưng giảm 2 bậc. trụ cột y tế giảm điểm nhẹ
(0,5 điểm, từ 81 điểm xuống 80,5 điểm), do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71).
Mặt khác, có 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột có thứ
hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm: Thể chế (89), cơ sở hạ
tầng (77), y tế (71), kỹ năng (93), thị trường sản phẩm (79), thị trường lao động (83),
mức độ năng động trong kinh doanh (89) và năng lực đổi mới sáng tạo (76).
Ở cấp độ các chỉ số thành phần, một số chỉ số có sự suy giảm mạnh như: Dấu hiệu
tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, hiện đứng ở gần cuối bảng (thứ 101), giảm 10 bậc
so với năm 2018 (thứ 91); Mức độ tiếp xúc với nước uống không an toàn có dấu hiệu
tăng, hiện ở thứ hạng thấp (thứ 95), giảm 13 bậc so với năm 2018 (thứ 82); Hiệu quả
dịch vụ cảng biển tuy không giảm điểm, nhưng tụt 5 bậc (đứng thứ 83)… Đáng chú ý
là trong trụ cột hệ thống tài chính, chỉ số nguồn vốn cho DN nhỏ và vừa (DNNVV)
giảm 0,8 điểm và 12 bậc, đứng ở thứ hạng 97 (năm 2018 có thứ hạng 85). Kết quả này
cho thấy, tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn đối với các DNNVV. Bên cạnh đó, mức
độ sẵn có về vốn đầu tư mạo hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều
nền kinh tế, dẫn tới thứ hạng giảm 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61). Điều này phần
nào phản ánh môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam chưa thực sự ổn định và
thuận lợi, khiến các quỹ đầu tư còn thận trọng khi đầu tư vào Việt Nam.
Mặc dù, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đã đạt được những tiến bộ nhất định
nhưng cũng cần nhìn thẳng vào sự thật là các xếp hạng mà Việt Nam đạt được chỉ ở vị
trí trung bình thấp, các chỉ số về thể chế, hạ tầng, chi phí ngoài pháp luật còn xếp ở thứ
hạng rất thấp và hạn chế năng lực cạnh tranh quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh
của DN và sản phẩm, dịch vụ. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cũng cho thấy, 54%
DN xác nhận phải chi ngoài pháp luật để “bôi trơn” trong giải quyết các thủ tục hành
chính.
Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng
phó hiệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng.
Quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn
kết chặt chẽ với yêu cầu hội nhập và quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bộc lộ nhiều bất cập so với yêu cầu bảo đảm quốc

Trang 16
phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc cải cách thể chế kinh tế trong nước vẫn chưa đáp ứng và theo kịp các yêu cầu của
việc thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đẩy mạnh quá trình đàm phán, ký
kết và thực hiện các cam kết quốc tế chưa tạo sức ép đổi mới trong nước, nhất là về thể
chế kinh tế, cải cách hành chính. Tuy đã có nhiều chính sách, pháp luật để hội nhập và
thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO và tham gia các FTA, song vẫn thiếu các
chính sách cụ thể và hiệu quả để thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ lớn về phát huy
nội lực, phát triển doanh nghiệp trong nước, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ
trợ, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ... nhằm phát huy hiệu quả của hội
nhập,thúc đẩy quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt
Nam nói chung còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đến
một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường, nhập
khẩu tăng mạnh, song thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm,… Năng suất lao động
tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi phí mặt bằng rẻ, chi
phí năng lượng thấp đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng
như của doanh nghiệp, sản phẩm.
Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu
thụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp phải sự cạnh tranh của các
nước trong khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp
khó khăn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ.
Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với mức tăng đầu tư, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh của ngành,
sản phẩm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu
GDP, hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả.
Cơ cấu lao động chuyển dịch rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nhất là trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Trang 17
Hoạt động tài chính - tiền tệ tuy có tiến bộ nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, lãi suất tiền
đồng quá cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh lời của nền kinh tế,
làm tăng chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản
phẩm. Vốn huy động của hệ thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử
dụng một tỷ lệ khá để cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất
lợi về lợi nhuận và làm giảm khả năng đề phòng rủi ro.
Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế
quốc tế của quốc gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chiến lược của từng bộ,
ngành, địa phương và doanh nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế đưa vào cuộc sống chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình
đẳng, chính sách còn thiếu đồng bộ, nhất quán, khó thực hiện.
Việc phối hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trong các lĩnh vực khác chưa
chặt chẽ để phát huy tổng lực và hạn chế rủi ro. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ
lợi ích chiến lược, lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng
phó với những biến động và xử lý những tác động từ môi trường khu vực và quốc tế
còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ.
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao. Các
vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong các lĩnh vực hội
nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn
chung còn yếu. Công tác tham mưu, tư vấn chính sách vẫn còn hạn chế trong việc
phân tích, định hướng và dự báo những vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.
Nền kinh tế vẫn mang tính gia công, chưa tạo ra các thương hiệu Việt Nam có uy
tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc, chất
lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn
còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền vững. Giá trị gia
tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về điều
kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thô và sơ chế, bao gồm cả dầu thô,
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các mặt hàng dựa
vào tài nguyên chiếm dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu, và tỷ lệ này gần như không

Trang 18
thay đổi. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu thấp. Hàng hóa xuất khẩu ngoài
khoáng sản, nhiên liệu thô thì hàng hóa nông nghiệp 90% là sản phẩm thô và sơ chế.
Hàng công nghiệp chế biến chủ yếu là gia công, lắp ráp dựa trên việc nhập khẩu
nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm, điều đó phản ánh một
nền kinh tế trình độ thấp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao động rẻ.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam được mở rộng, tuy nhiên kim ngạch xuất
khẩu lớn, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn còn phụ thuộc vào một vài thị trường
trọng điểm nên tiềm ẩn rủi ro lớn khi các thị trường này có biến động. (Cao su và rau
quả phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, thủy sản phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ
và Nhật Bản, gạo phụ thuộc thị trường Đông Nam Á, dệt may chủ yếu xuất sang thị
trường Hoa Kỳ, da giày phụ thuộc chủ yếu vào thị trường EU. Xuất khẩu cà phê nhân
phụ thuộc vào vài tập đoàn đa quốc gia có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt
Nam). Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu mới chỉ chú trọng đến bề rộng, chưa chú trọng
đến nâng cao khả năng cạnh tranh và thương hiệu sản phẩm, những ngành mang lại giá
trị gia tăng lớn. Vẫn còn hạn chế trong việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu và
chuyển dịch lên trên chuỗi giá trị toàn cầu, chưa thực sự quan tâm đến bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng và quyền sở hữu trí tuệ; còn nhiều lúng túng và bị động trong ứng
phó với các rào cản thương mại mới của nước ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm, môi trường, dư lượng kháng sinh, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá).
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực còn
thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài ngay
trên thị trường nội địa: Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở
Việt Nam còn yếu. Một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế cạnh tranh
và cả sự tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Các doanh nghiệp tư
nhân vừa và nhỏ phát triển chưa mạnh, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, vì vậy,
khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI còn rất hạn chế.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên về khách quan là do nền kinh tế
đang ở trong giai đoạn phát triển thấp xét cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
vì vị thế, mức độ tham gia vào nền kinh tế thế giới phụ thuộc vào thực lực của nền
kinh tế của một quốc gia.Tuy nhiên,những nguyên nhân chủ quan có vai trò quyết định
đối với những hạn chế, bất cập nêu trên nếu xét về phương diện thực thi và hiệu quả

Trang 19
của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.Trong số các nguyên nhân chủ quan, trước hết
phải nói đến việc đổi mới tư duy và nền tảng tri thức về kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế của chúng ta chưa theo kịp thực tiễn.Quan điểm về xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ trong hội nhập, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
còn có các cách hiểu khác nhau đã trở thành rào cản của nhiều chủ trương, quyết sách
và chỉ đạo thực tiễn. Một nguyên nhân chủ quan khác là quy trình chính sách chưa
được xây dựng và tổ chức thực hiện một cách khoa học dẫ đến tính khả thi thấp, trách
nhiệm không rõ. Tổ chức bộ máy cồng kềnh, chồng chéo và công tác cán bộ chậm đổi
mới, thực lực của đội ngũ cán bộ hoạch định và thực thi chính sách chưa đáp ứng được
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, lợi ích cục bộ, tư duy nhiệm kỳ,tham nhũng
là những nguyên nhân quan trọng của những hạn chế, bất cập nêu trên.
2.2. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế trước sức ép hội nhập
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi của
nó là hệ thống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách cạnh
tranh cần theo hướng: giảm dần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh,
chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị
trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hướng này, cần nhanh chóng ban hành
Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Ngoài ra, cần tập trung vào
các giải pháp khác như:
Về văn bản quy phạm pháp luật, Việt Nam cần thay đổi cách xây dựng luật và các
văn bản dưới luật, sao cho sát và phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi; sửa đổi các bộ
luật, tránh việc luật vừa ra đời đã lạc hậu so với thời cuộc.
Về nhân sự làm công tác quản lý điều hành, trong thời gian tới, cần và nên có các
chương trình đa dạng hoá hình thức và nội dung nhằm truyền đạt đến các cán bộ và
đảng viên nội dung các FTA, cơ hội và thách thức đối với cả nước nói chung và địa
phương mình nói riêng. Đối với các cán bộ công chức, nhất là đảng viên đang công tác
trong các cơ quan quản lý nhà nước tại các địa phương, ngoài những quy định phải đáp
ứng tiêu chuẩn, thiết nghĩ cần quy đinh thêm: Đối với những người hoạt động trong
lĩnh vực, địa bàn liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế phải nắm vững các thoả thuận
trong các FTA liên quan đến lĩnh vực, đến địa phương mình và nghiên cứu kiến nghị

Trang 20
lãnh đạo thực hiện các giải pháp để vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác hiệu quả
nhất lợi thế so sánh của địa phương mình.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành, cơ quan Trung ương với nhau và với các địa phương,
doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát triển hài hòa
các yếu tố kinh tế thị trường. Mặt khác, cần xây dựng và thực hiện cơ chế nhận biết,
cảnh báo sớm tác động trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã
hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới.
Tiếp tục thể chế và thực thi thể chế tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và cạnh
tranh, hoàn thiện cơ chế phối hợp đa ngành, đa lĩnh vực giữa Trung ương và địa
phương, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính công, tăng cường công khai
minh bạch và phòng, chống tham nhũng. Giải quyết đồng bộ việc ban hành và thực thi
các quy định pháp luật về kinh doanh và cạnh tranh.
Tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động và đóng góp
của năng suất các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng
dụng khoa học, công nghệ và tăng cường đối mới sáng tạo. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới
mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động quốc gia và sự đóng góp của năng
suất các yếu tố tổng hợp vào mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa
học, công nghệ, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo.
Về doanh nghiệp, cần tăng cường năng lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp nhà nước. Cả nước có 758.610 doanh nghiệp đang hoạt động. Về kết quả hoạt
động kinh doanh: Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có kết quả kinh doanh hiệu
quả, tiếp đến là doanh nghiệp FDI, trong khi doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả
nhất. Điều này cũng dễ lý giải vì, thực tiễn cũng cho thấy, trên 95% doanh nghiệp tại
Việt Nam là nhỏ và vừa hoặc siêu nhỏ. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp
và sản phẩm vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực. Các ngành
kinh tế, các doanh nghiệp mang tính mũi nhọn vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực
và thế giới chưa đáng kể.
Chủ động tìm hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế,
pháp luật quốc tế. Thực tế cho thấy, mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp định
thương mại tự do với các nước và khu vực, song sự hiểu biết của doanh nghiệp trong

Trang 21
nước về các FTAs là khá hạn chế, trong khi đó các doanh nghiệp FDI lại rất chủ động
và chuẩn bị khá kỹ để đón đầu và tận dụng ưu đãi từ các FTAs.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là việc cần thiết các
doanh nghiệp nếu muốn đứng vững trong cạnh tranh. Bên cạnh đó cũng cần có sự hỗ
trợ từ phía Chính phủ và các hiệp hội để doanh nghiệp có thể tiếp cận các thông tin từ
TPP, FTAs một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất. Chủ động đầu tư và đổi mới trạng
thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, bởi nếu không
đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế thì sản phẩm của doanh nghiệp không thể cạnh
tranh với các nước khác. Như vậy, dù hiệp định có mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng
không thể tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi cung ứng.
Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế quan cho
các đối tác trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc xuất
xứ nội khối. Trên thực tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ có khoảng 30% doanh
nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi thuế quan.
Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của các nguyên
phụ liệu, đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng thời, phải thực hiện tốt
như các yêu cầu khác (vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật…).
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề và nhân lực
trình độ cao. Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các doanh nghiệp,
cùng xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa và nước ngoài.
Các hàng rào kỹ thuật và hệ thống vệ sinh và kiểm dịch thực vật khắt khe có thể là
những rào cản khiến hàng hóa Việt Nam khó vào thị trường các nước đối tác FTA.
Thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam chính là áp lực cạnh tranh với hàng hóa
giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ các nước đối tác trên chính thị trường nội địa. Qua
việc phân tích, làm rõ những cơ hội, thách thức đối với Việt Nam trong quá trình tham
gia vào các hiệp định FTA thế hệ mới.
Về nông nghiệp, Đảng, Chính phủ cần có biện pháp cụ thể thực hiện tốt liên kết 4
nhà thông qua việc quy định trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của từng nhà, tránh
nêu khẩu hiệu chung chung. Đặc biệt trong việc giúp ngành nông nghiệp hình thành
chuỗi giá trị hàng nông sản – sự sống còn của nông nghiệp. Cần có cơ chế cụ thể trong
chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, trong đó chú trong việc hình thành kinh tế

Trang 22
vùng và liên kết vùng dựa trên cơ sở tiềm năng của các vùng kinh tế để khai thác có
hiệu quả năng lược ngành nông nghiệp nước ta.
Bên cạnh đó việc thực thi các quy định pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có
việc đăng ký và quản lý chỉ dẫn địa lý cần được triển khai nhằm giúp nông dân nắm và
thực thi quyền này. Đồng thời cần có chế tài đầy đủ để xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm.
Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất là đầu tư nước
ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quyền của Nhà
nước, đặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền (điện, viễn thông, dịch vụ cảng
biển, phí cầu đường); giải quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc giải phóng
mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách,
tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một
mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài với các quy
định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng.
Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội
nhập mở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho các thành
phần kinh tế; thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định song phương và
đa phương mà Việt Nam đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam-
Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động trong hội nhập và cạnh tranh ở thị
trường trong nước và quốc tế.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối tác lớn như:
EU, Mỹ, Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm phát
huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;
khắc phục căn bản tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, dứt khoát không đầu tư
vào những công trình dự án kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư
như BOT, BT, phát hành trái phiếu công trình…
Về công nghiệp, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn lúng túng trong đầu tư sản
xuất các sản phẩm phụ trợ cho các nhà sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI.

Trang 23
Đây cũng là nguyên nhân là cho sản phẩm công nghiệp Việt Nam có giá thành cao,
khó cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của Thailand, Indonesia và Malaysia...
Do vậy, Nhà nước cần nghiên cứu và vận hành các giải pháp để đổi mới, chính sách
thu hút vốn đầu tư FDI, khắc phục tình trạng dự án FDI tuy tăng về số lượng, nhưng
chất lượng chưa đảm bảo, công nghệ chưa tốt. Đồng thời có biện pháp để phát triển thị
trường công nghệ tại Việt Nam bền vững, khắc phục tình trạng doanh nghiệp Nhà
nước chưa quan tâm nhiều đến đổi mới công nghệ, doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn,
thiếu công nghệ.
Chính phủ cần giao cho các Bộ, ngành phối hợp với nhau và với địa phương nghiên
cứu, hỗ trợ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp thành doanh nghiệp số phù hợp CM 4.0,
phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Về nguồn nhân lực, cần nâng cao đào tạo kỹ năng cho người lao động đáp ứng các
tiêu chuẩn của các doanh nghiệp, đặc biệt là kỹ năng sử dụng máy móc, công nghệ;
các nhà trường, cơ sở đào tạo cần thiết kế lại chương trình đào tạo, đổi mới phương
pháp dạy và học, nâng cao các kỹ năng mềm cho sinh viên và học sinh, đặc biệt trong
thời đại 4.0, đáp ứng theo nhu cầu của xã hội, cần tiếp cận theo hướng đa ngành thay
vì chuyên ngành như trước đây.
Nghiên cứu, bổ sung thêm các chuyên ngành đào tạo các nghề về ICT, blockchain, Trí
tuệ nhân tạo (AI) để đáp ứng về nhu cầu nhân lực trong CMCN 4.0.
Nâng cao hiệu quả huy động tiếp cận nguồn lực và thị trường trong nước, thế giới,
thúc đẩy mạnh mẽ liên kết trong nước và năng lực hội nhập quốc tế. Tập trung phát
triển và tăng cường tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vốn,
lao động, khoa học-công nghệ, cơ sở hạ tầng và tài nguyên. Thúc đẩy các động lực
cạnh tranh lành mạnh và phát huy lợi thế so sánh của các địa phương, tăng cường liên
kết ngành kinh tế, chủ thể kinh tế và không gian kinh tế, vùng kinh tế, nâng cao năng
lực hội nhập quốc tế.
Qua đó, cần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là
trọng tâm gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Hiện nay, các nền kinh tế đều
liên thông và phụ thuộc lẫn nhau, nhưng phải giữ được tự chủ kinh tế (tự quyết định về
đường lối, chiến lược phát triển) với những vấn đề đặt ra như: Quan hệ giữa luật lệ và
quy tắc của hệ thống kinh tế thế giới và định hướng phát triển quốc gia; định hướng xã

Trang 24
hội chủ nghĩa trong hội nhập kinh tế quốc tế; cơ chế bảo đảm giữ được độc lập, tự chủ
kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi phải đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế.
Việt Nam cần nghiên cứu sâu chính sách “mở cửa” và quá trình chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và các cam kết
mang tính thể chế trong từng hiệp định (FTA/ASEAN, ASEAN+, FTA song phương,
WTO, TPP…) để tạo ra những cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất
khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm…; giảm thiểu những rủi ro,
giành thế chủ động trong đàm phán để có những thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và
nền kinh tế khi hội nhập sâu, rộng vào kinh tế toàn cầu với những luật chơi khắc
nghiệt hơn, đòi hỏi cao hơn và phức tạp hơn.

Trang 25
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, Việt
Nam đã có những thành tựu đáng kể trong việc tích cực tham gia vào nền kinh tế thế
giới. Tuy nhiên, còn nhiều thách thức phải đối mặt để nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, cần thiết phải đẩy mạnh cải cách cơ chế,
chính sách, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút đầu tư và khuyến khích sự
phát triển của các ngành công nghiệp hiện đại. Ngoài ra, việc đầu tư vào nghiên cứu và
phát triển công nghệ, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cũng là
yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
Hơn nữa, hợp tác quốc tế và chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia khác cũng đóng vai
trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Việc tận dụng
các cơ hội hợp tác đa phương, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế quốc tế
như WTO, APEC, RCEP, và thúc đẩy đối thoại và hợp tác song phương với các đối
tác chiến lược cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, sự hợp tác
chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, và các
cơ quan nghiên cứu và đào tạo là cần thiết. Chỉ khi có sự đồng lòng và nỗ lực chung từ
các bên liên quan, nền kinh tế Việt Nam mới có thể thích ứng và vượt qua những thách
thức của hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đạt được sức cạnh tranh bền vững trên thị
trường quốc tế.

Trang 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2020), Nghị quyết số 02/NQ-CP về việc tiếp tục thực hiện những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia năm 2020
2. Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc g ia năm 2019 và định hướng đến năm 2021
3. Tổng cục Thống kê, (2019), Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam so với các
nước trong khu vực
4. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo Môi trường kinh doanh - Doing Business, các
năm 2017, 2017, 2019, 2020
5. Ban Kinh tế Trung ương (2016), Hội thảo “Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia và đổi mới, phát triển doanh nghiệp”.

Trang 27

You might also like