You are on page 1of 46

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG NHIỆM


VỤ THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA
TRÊN CÁC LĨNH VỰC CƠ BẢN Ở NƯỚC TA

MÃ MÔN HỌC: LLCT220514


MÃ LỚP HỌC PHẦN: LLCT220514_22_1_09CLC
THỰC HIỆN: Nhóm 13
GVHD: TS Trịnh Thị Mai Linh

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2022


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KÌ 1 , NĂM HỌC: 2022 - 2023


Nhóm 13. Thứ 4 tiết 01-02

TỈ LỆ %
STT HỌ VÀ TÊN MSSV KÍ TÊN
THAM GIA

1 Nguyễn Lê Tường Duy 20149127 100%


(Nhóm Trưởng)
2 Lê Thị Kim Chi (Thư ký) 21124041 100%

3 Nguyễn Phỉ Đan 20146061 100%

4 Nguyễn Hữu Quốc 21124400 100%

5 Vũ Đức Tùng 20146455 100%

6 Đào Hoàng Thịnh 20149090 100%

7 Phan Tái Ngọc Phẩm 20149032 100%

8 Nguyễn Hoàng Minh Kha 20149160 100%

Tỷ lệ % = 100%
Trưởng nhóm: Nguyễn Lê Tường Duy
Nhận xét của giáo viên

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

Ngày ............ tháng 10 năm 2022


Giáo viên chấm điểm
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................................................2
2.1. Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo............................................................................................................2
2.2. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.....2
2.3. Tầm nhìn và Định hướng phát triển: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
thời kỳ phát triển mới của nước ta từ 2020 đến 2045....................................................4
2.4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn thành tựu và giải pháp. .5
2.5. Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước...............................................................................................................................7
2.6. Công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp lần thứ tư...................................................................................................7
2.7. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách
mạng 4.0........................................................................................................................8
2.8. Những thách thức đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam
.......................................................................................................................................9
2.9. Những cơ hội đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam. .10
2.10. Những trở ngại làm chậm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp gắn với
phát triển kinh tế tri thức.............................................................................................11
3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................12
3.1. Phương pháp logic................................................................................................12
3.2. Phương pháp lịch sử.............................................................................................12
3.3. Phương pháp phân tích.........................................................................................13
3.4. Phương pháp tổng hợp.........................................................................................14
3.5. Phương pháp diễn dịch.........................................................................................15
3.6. Phương pháp so sánh đối chiếu............................................................................15
3.7 Phương pháp lý luận..............................................................................................16
3.8 Phương pháp phân tích tổng hợp...........................................................................17
4. Đóng góp của đề tài...................................................................................................17
5. Bố cục của tiểu luận..................................................................................................17
NỘI DUNG.......................................................................................................................19
CHƯƠNG 1:KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.......................19
1.1.Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.............................................................19
1.2. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
.....................................................................................................................................19
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
...........................................................................................................................................21
2.1. Các giai đoạn phát triển công nghiệp của Việt Nam............................................21
2.2 Những tiền đề thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa - hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa:...........................................................................................................................25
CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
TRONG CÁC LĨNH VỰC CƠ BẢN.............................................................................29
3.1. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của nước ta
hiện nay.......................................................................................................................29
3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong nhiệm vụ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên các lĩnh vực cơ bản ở nước ta........................................................................32
3.3. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức.............................................................................................................35
KẾT LUẬN......................................................................................................................39
TẦI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................41
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, có phần chậm
hơn so với các nước khác trên thế giới, cơ sở vật chất kĩ thuật thấp kém, trình độ của lực
lượng sản xuất chưa cao, quan hệ sản xuất mới chưa hoàn thiện. Vì vậy, công nghiệp hoá
-hiện đại hoá (CNH-HĐH) là một xu hướng khách quan, phù hợp với xu thế của thời đại
và hoàn cảnh đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất
nước lên trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có
vai trò tạo điều kiện làm tiền đề vật chất – kỹ thuật, công nghiệp hóa có nội dung, bước đi
cụ thể, phù hợp. Đối với Việt Nam khi chính thức bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và từ cuối thế kỉ XX
đến nay quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một
quá trình kinh tế, kĩ thuật – công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện sâu rộng nhằm chuyển
đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công
nghiệp tiên tiến, hiện đại và văn minh.
Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập niên 90
của thế kỉ XX đến nay bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng
nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của
tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Chính vì những ý nghĩa quan trọng
của CNH-HĐH đối với Việt Nam nên đã có rất nhiều chuyên gia, các giáo sư, tiến sĩ kinh
tế và thậm chí cả các bạn sinh viên đã dành ra rất nhiều thời gian nghiên cứu về vấn đề
này nhằm đưa ra giải pháp để đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH. Tự hào là một sinh viên
được sinh ra và trưởng thành ngay thời điểm đất nước bắt đầu đẩy nhanh quá trình CNH-
HĐH, chúng em mong đóng góp được phần nào đó chút công sức nhỏ bé của mình vào
sự nghiệp vĩ đại này. Từ những lý do trên, chúng em đã đi đến quyết định chọn đề tài
“Những thuận lợi và khó khăn trong nhiệm vụ thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa
trên các lĩnh vực cơ bản ở nước ta”. Trong đề tài chúng em có sử dụng và tham khảo
nhiều tài liệu và quan điểm của các nhà nghiên cứu khác.

1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo
Để chủ động phát triển, nước ta phải thoát khỏi sự tăng trưởng dựa vào lao động giá
rẻ và nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp. Thực tế cho thấy, công nghiệp, công
nghiệp hỗ trợ nước ta còn phát triển chậm, trình độ hạn chế, nhiều nguyên liệu đầu vào
quan trọng chưa sản xuất được nên phụ thuộc lớn vào nhập khẩu; việc tham gia trong
chuỗi giá trị toàn cầu ở nhiều sản phẩm vẫn chỉ ở công đoạn cuối cùng nên giá trị gia tăng
không lớn. Đại hội XIII đánh giá: “Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học
- công nghệ, đổi mới sáng tạo, tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp, vẫn còn phụ thuộc
vào bên ngoài”. Do vậy, Đại hội XIII chủ trương: “Thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát
triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành
tựu của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Hiện đại
hóa công nghệ sản xuất là điều kiện tiên quyết để đưa sản phẩm thương hiệu Việt Nam
lên tầm cao mới, thoát khỏi vị trí gia công, lắp ráp trong thời gian qua. Ứng dụng, tiên
phong sáng tạo, phát minh công nghệ mới có thể giúp doanh nghiệp tăng doanh số, nâng
cao vị thế doanh nghiệp và nền kinh tế. Muốn làm được điều đó không có con đường nào
khác phải dựa trên nền tảng tài nguyên trí tuệ để sáng tạo công nghệ.

2.2. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
Có thể thấy, nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
bao hàm hai vế. Vế thứ nhất, đó là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Đây là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn
với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa,
ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa
thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trên thị
trường.
Ở vế thứ hai, đó là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Đây là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và

2
lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động
nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn,
bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, việc phát
triển lực lượng sản xuất phải được thực hiện đồng bộ ở cả các yếu tố vật chất và yếu tố
con người. Song, trong sự giới hạn về nguồn lực và với điểm xuất phát thấp, cần lựa chọn
được nội dung trọng tâm mang tính đột phá và nội dung mang tính hỗ trợ, nội dung mang
tính điều kiện.
Với mục tiêu tổng quát và lâu dài của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và
bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành
tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng
nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại,
Đảng ta đã đưa ra những chủ trương và giải pháp lớn sau:
- Phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn;
- Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
- Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa nông thôn;
- Xây dựng đời sống văn hóa - xã hội và phát triển nguồn nhân lực;
Các giải pháp về quy hoạch, khoa học - công nghệ, đất đai, tài chính, tín dụng, lao
động và việc làm, thương mại và hội nhập kinh tế.
Xét tổng quát, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
những năm qua bao hàm những nội dung cơ bản sau đây:
Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất phát triển lực lượng
sản xuất ở nông thôn; huy động sự tham gia chủ động, rộng rãi và có hiệu quả của mọi
lực lượng trong xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn;
Xây dựng nền kinh tế thị trường văn minh thay thế cho nền kinh tế sản xuất hàng
hóa nhỏ mang nặng tính chất tự cung tự cấp của những người tiểu nông;

3
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng hiện đại đủ điều kiện đáp ứng các nhu
cầu của sản xuất và đời sống vật chất - văn hóa của dân cư, có thuần phong mỹ tục, lối
sống với bản sắc nông thôn được hài hòa với nền văn minh công nghiệp và văn minh trí
tuệ và môi trường sinh thái trong lành;
Xây dựng con người mới ở nông thôn bảo đảm được các yêu cầu: có tri thức làm
chủ quá trình hoạt động của mình; có tính cộng đồng cao; năng động đổi mới và tiếp thu
cái mới; tư duy, lối sống văn minh hiện đại nhưng vẫn giữ được bản sắc của người dân
nông thôn...

2.3. Tầm nhìn và Định hướng phát triển: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của thời kỳ phát triển mới của nước ta từ 2020 đến 2045.
2.3.1 Tầm nhìn
Đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu
vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc
tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.
2.3.2 Định hướng phát triển
Các định hướng phát triển được Đảng đưa ra trong Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày
22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp
quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với các chính sách:
- Chính sách phân bố không gian và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
- Chính sách phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên
- Chính sách tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển công
nghiệp
- Chính sách phát triển doanh nghiệp công nghiệp
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực công nghiệp
- Chính sách khoa học và công nghệ cho phát triển công nghiệp
- Chính sách khai thác tài nguyên, khoáng sản và chính sách bảo vệ môi trường, thích
ứng với biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển công nghiệp

4
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và triển khai thực hiện chính
sách phát triển công nghiệp quốc gia

2.4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn thành tựu và giải pháp
Thực hiện đường lối đổi mới, CNH, HĐH nông nghiệp-nông thôn, nông thôn nước
ta đã có bước phát triển mới đạt được những thành tựu to lớn, thể hiện:

- Một là, nền nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hóa, phát
triển tương đối toàn diện, tăng trưởng khá.
- Hai là, công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu được phục hồi và
phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng; môi
trường sinh thái và đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt.
- Ba là, quan hệ sản xuất từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông
nghiệp hàng hóa: hệ thống chính trị ở cơ sở được tăng cường, dân chủ được phát
huy tốt hơn; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn được đảm bảo .

Những thành tựu trên mặt trận nông nghiệp nông thôn đã góp phần rất quan trọng
vào sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, tạo tiền đề đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Để thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, cần thực hiện một số giải pháp
sau:
Một là, nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp, nông thôn không chỉ là bệ đỡ mà còn là
động lực mới cho phát triển kinh tế và CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn đến năm
2045. Làm rõ mô hình tăng trưởng mới trong điều kiện hậu đại dịch Covid-19, trong đó
có vai trò của KH&CN và đổi mới sáng tạo nhằm tăng năng suất lao động cũng như chất
lượng tăng trưởng gắn với kinh tế nông nghiệp và xã hội nông thôn, phát huy được lợi thế
để CNH, HĐH.
Hai là, đổi mới quan điểm về vai trò công bằng của các thành phần kinh tế trong
quá trình CNH, HĐH, đặc biệt chú ý vai trò chủ thể của hộ nông dân chuyên nghiệp, hợp

5
tác xã, tổ hợp tác và cộng đồng trong quá trình phát triển, chú trọng vai trò của các hiệp
hội ngành hàng.
Ba là, thúc đẩy phát triển nền kinh tế phi nông nghiệp, nông thôn (chế biến nông
sản, cụm làng nghề, du lịch nông thôn…) để giải quyết bằng được việc rút lao động nông
thôn ra khỏi sản xuất nông nghiệp và tạo công ăn việc làm phi nông nghiệp trong nông
thôn nhằm giảm bớt sức ép dân số lên các đô thị lớn, thích ứng với điều kiện dịch bệnh,
biến đổi khí hậu.
Bốn là, tạo đột phá về tổ chức thể chế và đào tạo nghề theo hướng chuyên nghiệp
hóa nông dân, đẩy mạnh kinh tế hợp tác, phát triển chuỗi giá trị. Nới lỏng chính sách hạn
điền đất nông nghiệp, ưu tiên trực canh trong nông nghiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp, hỗ trợ hộ nông dân hình thành các trang trại gia đình và các hợp tác xã
nông nghiệp hiện đại như ở các nước phát triển.
Năm là, tiếp tục tăng đầu tư công cho nông nghiệp, phân cấp quản lý đầu tư công,
các dịch vụ công, quản lý công trình, tài nguyên công cộng cho các tổ chức cộng đồng;
thử nghiệm hình thức quỹ phát triển nông thôn hỗ trợ cho các cộng đồng dựa trên các dự
án do cộng đồng đề xuất và làm chủ.
Sáu là, định hướng ổn định dài hạn về cam kết lâu dài thu hút đầu tư nước ngoài vào
hệ thống lương thực, thực phẩm minh bạch, có trách nhiệm và bền vững, thúc đẩy nông
nghiệp đảm bảo dinh dưỡng và thực hiện Chương trình không còn nạn đói ở các vùng
khó khăn, dân tộc.
Bảy là, Nhà nước cần tăng cường đầu tư công về kinh phí cho hệ thống các đơn vị
nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn của Việt Nam, ít nhất đạt
mức tương đương với xu hướng các nước trong khu vực là mức 0,84% GDP nông nghiệp
để đảm bảo CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thành công, không bị tụt hậu về
KH&CN. Nhà nước cần nâng tỷ lệ chi cho KH&CN từ ngân sách trong những năm tới
lên mức 2,8-3% tổng chi ngân sách nhà nước, tương ứng với tổng chi nghiên cứu và phát
triển đạt mức 2% GDP.
Tám là, xây dựng đề án chuyển đổi số, nền tảng số tập trung của ngành nông
nghiệp, nông thôn nhằm cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ công cho nông nghiệp,
nông thôn. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần tham gia điều phối
Chương trình Đổi mới sáng tạo quốc gia để hướng đến các doanh nghiệp và hợp tác xã

6
nông nghiệp, nông thôn nâng cao năng suất lao động. Ưu tiên các lĩnh vực chuyển đổi
nông nghiệp sinh thái, chế biến thực phẩm, quản lý thất thoát sau thu hoạch, nông nghiệp
tuần hoàn và chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn.

2.5. Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước
Khi mà đất nước đang trong thời kì đổi mới, cả nước đang thực hiện nhiệm vụ công
nghiệp hóa hiện đại hóa thì đối với chúng ta, những thanh niên đầy nhiệt huyết và sức trẻ
cũng phải có một phần trách nhiệm của mình trong sự nghiệp vĩ đại này. Không chỉ thanh
niên nói chung mà cụ thể là các bạn sinh viên, lớp thế hệ tương lai đầy sức trẻ, cần phải:
- Ra sức học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật, tu dưỡng đạo đức, tư tưởng chính trị
- Có lối sống lành mạnh, rèn luyện kỹ năng, phát triển năng lực để giữ gìn sức khỏe
và nâng cao giá trị bản thân để phục vụ cho quá trình lao động và cống hiến cho Tổ
quốc.
- Tham gia các hoạt động lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất, đóng góp vào sự
phát triển của xã hội
- Có cho mình một lý tưởng sống đúng đắn, học tập và làm việc theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh
- Có kế hoạch học tập rèn luyện, lao động để cố gắng trở thành chủ nhân tương lai
của đất nước, đưa Việt Nam bước đến đài vinh quang, sánh vai với cường quốc năm
châu.

2.6. Công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp lần thứ tư
Trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn tìm tòi, thử nghiệm,
áp dụng những mô hình, chiến lược công nghiệp hóa phù hợp với thực tiễn đất nước. Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) đã đưa ra quan
điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và

7
tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Hội nghị nhấn mạnh
quan điểm coi khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chỉ rõ
việc cần thực hiện đồng thời hai quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa: “Công nghiệp
hóa phải đi đôi với hiện đại hóa… hình thành những mũi nhọn phát triển kinh tế theo
trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới”.
Nhờ thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được
thành tựu to lớn: Đạt ngưỡng thu nhập trung bình năm 2008; nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng cao: giai đoạn 2011-2015 đạt 5,9%, giai đoạn 2016-
2019 đạt 6,8%; quy mô nền kinh tế tăng 2,4 lần từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 271,2
tỷ USD năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1331 USD năm 2010 lên 2779
USD năm 2020. “Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế
bước đầu chuyển dịch sang chiều sâu”. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ
cao tăng từ 19% năm 2010 lên 50% năm 2020. Khoa học - công nghệ từng bước khẳng
định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học - công nghệ của
đất nước được tăng cường. Hiệu quả hoạt động khoa học - công nghệ được nâng lên, tạo
chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo. Trình độ khoa học -
công nghệ sản xuất được nâng cao, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, khoa học - công nghệ chưa thực hiện đầy đủ vai trò “quốc sách hàng
đầu”, chưa là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất: “Năng lực và
trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công, lắp
ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp,
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế”. Trong khi đó, trên thế giới,
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số, đang phát triển mạnh mẽ,
tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít thách
thức với tất cả các nền kinh tế.

2.7. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách
mạng 4.0
Định nghĩa CN 4.0 Nó là sự kết hợp của các công nghệ và cũng đồng thời làm mờ
ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học Quá trình phát triển của Cách mạng khoa

8
học kỹ thuật, nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin đến cách mạng công nghiệp 4.0 và
những tác động của nó với kinh tế, xã hội con người Tri thức, thông tin và xử lý thông tin
trở thành yếu tố then chốt trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Kinh tế tri thức và công nghiệp 4.0 - Động lực mạnh mẽ nhất đang làm thay đổi xã
hội con người Nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước ta trong
bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 Những nguy cơ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Nhiệm vụ của mỗi người trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước ta
trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0

2.8. Những thách thức đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt
Nam
Lý luận và Mô hình kinh tế: Mô hình CNH, HĐH của Việt Nam vẫn còn đang trong
quá trình hoàn thiện; chưa được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của một nước
công nghiệp. Thực hiện CNH, HĐH chưa bằng thể chế của nền kinh tế thị trường, tuân
theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường. Xu hướng kinh tế thế giới: Công
nghiệp thế giới có xu hướng tăng chậm hơn, trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước
công nghiệp mới và đang phát triển càng “gay gắt”. Do khoa học và công nghệ phát triển
nhanh, nhiều nền kinh tế đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng từ nguy cơ chuyển sang thời kỳ
hậu công nghiệp sớm hơn so với dự kiến.
Phát triển kinh tế và ngành công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn dựa nhiều
vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, dựa
trên khoa học công nghệ và tri thức. Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn
khoảng cách lớn để đạt đến mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chậm. Tăng trưởng của ngành công nghiệp chưa đáp ứng được yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp thực hiện
còn chậm, chưa tạo ra những thay đổi đáng kể về cơ cấu công nghiệp.
Năng suất lao động: năng suất lao động của Việt Nam nói chung, và ngành công
nghiệp nói riêng vẫn đang ở mức độ thấp, khi so với các nước phát triển.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế
Việt Nam chỉ ở mức trung bình và có vị trí tăng/giảm không ổn định trong thời gian vừa
qua. Đến năm 2019, Việt Nam đứng vị trí 67/141 nền kinh tế, tăng thêm 10 bậc so với

9
năm 2018 và vẫn còn một khoảng cách khá xa, so với các nước đứng đầu trong khu vực
ASEAN.
Dân số và nguồn nhân lực: Việt Nam là quốc gia có tốc độ già hóa dân số khá
nhanh so với thế giới. Quá trình già hóa dân số nhanh sẽ khiến lực lượng lao động bị thu
hẹp, ảnh hưởng đến năng suất lao động của toàn nền kinh tế, và tác động lâu dài đến các
lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.Chất lượng nguồn nhân lực thiếu hụt lao động có tay
nghề cao; cơ cấu lao động qua đào tạo bất hợp lý và lạc hậu.
Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực
phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình CNH; huy động nguồn lực của xã hội vào các
hoạt động khoa học và công nghệ còn yếu; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp,
hiệu quả sử dụng chưa cao; thị trường khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ kết
quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo, với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý.
Xuất khẩu hàng hóa: Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng xuất khẩu nhanh
hơn tốc độ tăng trưởng GDP nhưng chưa vững chắc. Độ mở của nền kinh tế qua kênh
xuất khẩu khá lớn nhưng quy mô xuất khẩu còn nhỏ; chỉ số xuất khẩu sản xuất bình quân
đầu người chỉ ở mức trung bình trên thế giới.

Đầu tư từ nước ngoài: Hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam đạt thấp. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào gia công, lắp ráp
và có tỷ lệ nội địa hóa thấp.
Quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng: Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng phần lớn
đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị
hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi thay về tư duy quản lý đô thị hóa, phát triển đô thị theo
hướng CNH và HĐH.

2.9. Những cơ hội đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang quốc tế hoá và khu vực hoá xu thế hoà
bình và hợp tác đang phát triển. Chúng ta có thể tranh thủ được những khả năng về vốn,
thị truờng, công nghệ và quản lý thế giới. Đặc biệt là trong những năm tới những thuận
lợi đó đang phát triển theo hướng thuận lợi hơn nữa cho chúng ta, đó là những thành tựu

10
của công cuộc đổi mới mở rộng quan hệ đối ngoại của chúng trong những năm gần
đây( gia nhập ASEAN, bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, ký hiệp định chung với
EU) cũng như những diễn biến trên thế giới tạo cho chúng ta những thụân lợi mới, tình
hình chính trị, xã hội nước ta ổn định. Sự kịên Việt Nam trở thành thành viên chính thức
cuả ASEAN ngày 28/7/1975 và lệnh cấm vận của Mỹ ở Việt Nam baĩ bỏ ngày 3/2/1994
mở ra một hướng phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta có thêm điều kiện
thuận lợi để hội nhập với khu vực và thế giới, tham gia tích cực vào quá trình phân công
lao động hợp tác quốc tế.
Hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là luật đầu tư đang từng bước được sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện, tình hình kinh tế xã hội trong nước ổn định…., cũng là những yếu
tố góp phần tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút nguồn đầu tư từ các doanh
nghịêp, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào Việt Nam. Một thế lợi nữa mà chúng
ta phải kể đến đó là nguồn tài nguyên Việt Nam. Việt Nam có nguồn tài nguyên phong
phú, đa dạng có vùng biển và thềm lục địa rộng lớn với chiều dài bờ biển 3.260km, diện
tích vùng biển, thềm lục địa thuộc quyền tài phán quốc gia rộng lớn gấp 8 lầndiện tích đất
liền gắn với một tiềm năng phát triển tổng hợp được đánh giá là to lớn và đa dạng. Thực
tiễn cho thấy, những nước biết tận dụng và khai thác lợi thế tiềm năng một mặt của biển
đã đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao. Những “Con rồng” Châu A đều là những quốc
gia lãnh thổ hải đảo hoặc bán đảo của các ngành kinh tế biển luôn đóng vai trò mũi nhọn
trong phát triển.

2.10. Những trở ngại làm chậm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp gắn với
phát triển kinh tế tri thức
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ ngày
càng phát triển cao, một số nước đang chuyển lên kinh tế tri thức thì những nước đi sau,
như Việt Nam, nếu cứ phát triển tuần tự, sẽ tụt hậu xa hơn so với những nước đi trước.
Hơn nữa, sự biến đổi khí hậu khắc nghiệt cũng buộc các nước phải ứng dụng công nghệ
cao, mới có thể ứng phó kịp. Thí dụ: Nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng phải ứng
dụng công nghệ sinh học để chọn giống cây trồng phù hợp và phải ứng dụng công nghệ
tưới nhỏ giọt bằng nước khử mặn. Hay là nhu cầu cao về chất lượng và vệ sinh, an toàn
thực phẩm đòi hỏi không được dùng thuốc trừ sâu và phân hóa học mà phải dùng thuốc

11
bảo vệ thực vật theo công nghệ sinh học và dùng phân vi sinh hay phân hữu cơ. Do đó,
phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chủ
trương đúng đắn này đã được nhấn mạnh trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước,
nhưng tiến độ thực hiện rất chậm, hậu quả là nông nghiệp nước ta đang có xu hướng
chậm lại.
Có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do hai trở ngại chính sau:
Thứ nhất là chậm trễ trong việc chuyển kinh tế nông hộ, nhỏ lẻ, phân tán lên sản
xuất hàng hóa lớn, tập trung.
Hai là, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào nông nghiệp
còn rất hạn chế, nên chậm trễ ứng phó với biến đổi khí hậu khắc nghiệt.

3. Phương pháp nghiên cứu

3.1. Phương pháp logic


Khái niệm: Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử
trong hình thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng
chung trong sự vận động của chúng.
Đặc điểm: Phương pháp logic đi tìm sâu cái bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của
các hiện tượng các sự kiện, phân tích so sánh tổng hợp với tư duy khái quát để tìm ra bản
chất các sự kiện hiện tượng. Từ đó, tránh máy móc và định kiến, áp đặt và không tách rời
khỏi lịch sử. nghĩa: Quyết định đến sự nhận thức đúng đắn về thế giới quan, hiện thực
lịch sử và thấy rõ được hướng phát triển của lịch sử, nhận thấy được những bài học và xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, giúp ta tìm cái logic, cái tất yếu bên
trong “bức tranh quá khứ” để vạch ra bản chất, quy luật vận động, phát triển khách quan
của hiện thực.

3.2. Phương pháp lịch sử


Khái niệm: Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát
triển của các sự vật, hiện tượng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều mặt, có lớp
lang sau trước, trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Yêu cầu đối với
phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời gian của các sự kiện; làm rõ điều

12
kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ
đa dạng của chúng với các sự vật xung quanh.
Đặc trưng:
- Tuân thủ nguyên tắc niên biểu, nghĩa là trình bày quá trình hình thành và phát triển
của sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự vốn có của nó.
- Làm rõ sự phong phú, muôn hình muôn vẻ của sự vận động, phát triển của lịch sử –
nghiên cứu lịch sử phải tỉ mỉ, công phu, phải xem xét các mặt biểu hiện của nó,
không được đơn giản, càng không được cắt xén làm cho lịch sử trở nên đơn điệu, tẻ
nhạt.
- Tái hiện lịch sử phải trung thực, phản ánh đúng tiến trình vận động của nó, không
được tùy tiện lược bỏ những khuyết điểm, hạn chế và những bước thụt lùi. Chỉ có
được như vậy, việc nghiên cứu lịch sử mới thực sự rút ra được những bài học bổ
ích.

- Vận dụng phương pháp lịch sử trong nghiên cứu cần chú ý nêu rõ địa điểm, thời
gian xẩy ra sự vật, hiện tượng, con người đã tham gia vào sự kiện, hiện tượng đó,
bởi vì các yếu tố này là những dấu ấn quan trọng của lịch sử.

Ý nghĩa: Bằng phương pháp lịch sử, có thể cho phép chúng ta dựng lại bức tranh
khoa học của các hiện tượng, các sự kiện lịch sử đã xảy ra. Vì thế, có thể nói rằng
phương pháp lịch sử đã trở thành một mặt không thể tách rời của phương pháp biện
chứng duy vật.

3.3. Phương pháp phân tích


Khái niệm: Phân tích là việc phân chia đối tượng nhận thức thành nhiều bộ phận, từ
đó xem xét cụ thể theo từng bộ phận để chỉ ra mối quan hệ cấu thành và quan hệ nhân
quả giữa chúng, đồng thời đưa ra những đánh giá, nhận xét nhằm làm rõ vấn đề nghiên
cứu.
Đặc điểm: Phương pháp phân tích là một phương pháp nghiên cứu. Phương pháp
này là sự phân chia cái chung, cái toàn bộ thành các phần, các bộ phận khác nhau nhằm

13
nghiên cứu sâu sắc các sự vật, hiện tượng, quá trình; nhận biết các mối quan hệ bên trong
và sự phụ thuộc trong sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, quá trình đó.
Ý nghĩa: Đi sâu vào phân tích kỹ về các vấn đề lịch sử. Từ đó giúp ta hiểu về chúng
một cách rõ ràng, tránh đưa ra những nhận định sai lệch về nội dung, ý nghĩa cũng như
các bài học mà vấn đề đó đem lại. Đồng thời đúc kết cũng như rút ra được bài học tìm ẩn
bên trong của chúng.

3.4. Phương pháp tổng hợp


Khái niệm: phương pháp liên kết những mặt,những bộ phận, những mối quan hệ
thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được thành một chỉnh thể để tạo ra một hệ thống lý
thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu.
Đặc điểm:
- Bổ sung tài liệu, sau khi phân tích phát hiện thiếu hoặc sai lệch.
- Lựa chọn tài liệu chỉ chọn những thứ cần, đủ để xây dựng luận cứ.
- Sắp xếp tài liệu theo lịch đại (theo tiến trình xuất hiện sự kiện để nhận dạng động
thái); sắp xếp tài liệu theo quan hệ nhân – quả để nhận dạng tương tác.
- Làm tái hiện quy luật. Đây là bước quan trọng nhất trong nghiên cứu tài liệu, chính
là mục đích của tiếp cận lịch sử.
- Giải thích quy luật. Công việc này đòi hỏi phải sử dụng các thao tác logic để đưa ra
những phán đoán về bản chất các quy luật của sự vật hoặc hiện tượng.

Ý nghĩa: Phương pháp này thường được sử dụng nhiều với các đề tài mang tính lý
luận hoặc để thực thi việc xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp là hai phương pháp có quan hệ
mật thiết với nhau tạo thành sự thống nhất không thể tách rời: phân tích được tiến hành
theo phương hướng tổng hợp, còn tổng hợp được thực hiện dựa trên kết quả của phân
tích. Trong nghiên cứu lý thuyết, người nghiên cứu vừa phải phân tích tài liệu, vừa phải
tổng hợp tài liệu.

14
3.5. Phương pháp diễn dịch
Khái niệm: Diễn dịch là phương pháp đi từ tri thức về cái chung đến tri thức về cái
riêng, từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn.
Đặc điểm:
Diễn dịch là quá trình vận dụng nguyên lý chung để xem xét cái riêng, rút ra kết
luận riêng từ nguyên lý chung đã biết. Tuy nhiên, muốn rút ra kết luận đúng bằng con
đường diễn dịch thì tiền đề phải đúng và phải tuân theo các quy tắc logic, phải có quan
điểm lịch sử – cụ thể khi vận dụng cái chung vào cái riêng.
Nếu quy nạp là phương pháp dùng để khái quát các sự kiện và tài liệu kinh nghiệm
thì diễn dịch là phương thức xây dựng lý thuyết mở rộng. Phương pháp diễn dịch có ý
nghĩa quan trọng đối với các khoa học lý thuyết như toán học… Ngày nay, trên cơ sở
diễn dịch, người ta xây dựng trong khoa học các phương pháp như phương pháp tiên đề,
phương pháp giả thuyết – diễn dịch.
Ý nghĩa: Phương pháp diễn dịch bao gồm ba bộ phận là: tiền đề, quy tắc suy luận
logic và kết luận. Trong đó, tiền đề là những phán đoán đã biết, chúng là căn cứ và lý do
để suy luận.
Quy tắc suy luận logic là kết cấu hình thức phải tuân theo trong quá trình suy luận.
Kết luận là phán đoán được rút ra từ tiền đề theo những quy tắc của logic, là kết quả của
toàn bộ quá trình suy luận.
Kết luận của phương pháp diễn dịch tất nhiên đã ẩn chứa ở trong tiền đề, nhưng
không vì thế mà cho rằng phương pháp diễn dịch không mang lại điều gì mới mẻ. Trên
thực tế phương pháp diễn dịch đã góp phần xác định rõ kết luận và đã trả lời một cách
trực tiếp điều mà tiền đề không trực tiếp trả lời. Như vậy, trên một ý nghĩa nhất định có
thể nói đó là đi từ cái đã biết đến cái chưa biết.

3.6. Phương pháp so sánh đối chiếu


Khái niệm: Phương pháp so sánh là thao tác đối chiếu hai hoặc nhiều sự vật hiện
tượng với nhau nhằm phát hiện thuộc tính và quan hệ giữa chúng hoặc làm nổi bật đặc
điểm của đối tượng. Phương pháp đối chiếu là tìm ra những đặc điểm giống và khác nhau
giữa các yếu tố ngôn ngữ xét theo một tiêu chí đối chiếu nào đó.
Đặc điểm:

15
Phương pháp nghiên cứu nhờ so sánh mà vạch ra cái chung và cái đặc thù trong các
hiện tượng lịch sử, trình độ phát triển và xu hướng phát triển của các hiện tượng ấy.
Phương pháp đối chiếu vạch ra bản tính của các khách thể khác loại, các vấn đề
được đưa ra đối chiều thường có mối liên hệ ảnh hưởng tác động lẫn nhau.
Ý nghĩa : Phương pháp này được sử dụng trong nhiều ngành khoa học. Vận dụng
phương pháp so sánh, đối chiếu sẽ giải quyết được một số vấn đề phát sinh trong quá
trình nghiên cứu về Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Với phương pháp này, nhóm em
sẽ thực hiện việc so sánh đối chiếu giữa kết quả tổng hợp tài liệu, để phân tích tìm ra
được sự tương đồng và khác biệt về “Điện Biên Phủ trên không – mười hai ngày đêm lịch
sử (1972)” trong nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử

3.7 Phương pháp lý luận


Khái niệm: lý luận là sự khái quát hóa những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp
những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy trong suốt quá trình tồn tại của nhân
loại. Như vậy, lý luận là sản phẩm cao cấp của nhận thức, là tri thức về bản chất, quy luật
của hiện thực khách quan. Nhưng do là sản phẩm của nhận thức, nên lý luận là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Lý luận càng vững, ta càng có cơ hội thành công trong
sự nghiệp.
Đặc điểm:
- Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là hoạt
động vật chất, sản xuất ra mọi thứ, còn lý luận là sản phẩm tinh thần, phản ánh thực
tiễn.
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Tức là, thực tiễn là bệ phóng, cung cấp các
nguồn lực cho lý luận. Thực tiễn còn vạch ra tiêu chuẩn cho lý luận.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới
có sức mạnh cải tạo thế giới khách quan.

Ý nghĩa: Không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, hạ thấp vai trò của lý luận
trong lao động, công tác, sản xuất. Ngược lại, ta không được đề cao vai trò của lý luận
đến mức xem nhẹ thực tiễn, rời vào bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí. Việc xa rời thực

16
tiễn sẽ đưa đến những chương trình, kế hoạch viển vông, lãng phí nhiều sức người, sức
của.

3.8 Phương pháp phân tích tổng hợp


Khái niệm: phương pháp liên kết những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ
thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được thành một chỉnh thể để tạo ra một hệ thống lý
thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu.
Đặc điểm: Bổ sung tài liệu, sau khi phân tích phát hiện thiếu hoặc sai lệch. Lựa
chọn tài liệu chỉ chọn những thứ cần, đủ để xây dựng luận cứ. Sắp xếp tài liệu theo lịch
đại (theo tiến trình xuất hiện sự kiện để nhận dạng động thái); sắp xếp tài liệu theo quan
hệ nhân – quả để nhận dạng tương tác. Làm tái hiện quy luật. Đây là bước quan trọng
nhất trong nghiên cứu tài liệu, chính là mục đích của tiếp cận lịch sử. Giải thích quy luật.
Công việc này đòi hỏi phải sử dụng các thao tác logic để đưa ra những phán đoán về bản
chất các quy luật của sự vật hoặc hiện tượng.

Ý nghĩa: Phương pháp này thường được sử dụng nhiều với các đề tài mang tính lý
luận hoặc để thực thi việc xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Phương pháp phân tích và
phương pháp tổng hợp là hai phương pháp có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành sự
thống nhất không thể tách rời: phân tích được tiến hành theo phương hướng tổng hợp,
còn tổng hợp được thực hiện dựa trên kết quả của phân tích. Trong nghiên cứu lý thuyết,
người nghiên cứu vừa phải phân tích tài liệu, vừa phải tổng hợp tài liệu.

4. Đóng góp của đề tài


Thông qua đề tài, giúp cho sinh viên hiểu rõ thế nào là công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước, biết được quá trình hiện đại hóa công nghiệp hóa đất nước, đặc biệt hiểu rõ hơn
về những thuận lợi và khó khăn của nước ta trong công cuộc thực hiện nhiệm vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa về những lĩnh vực kinh tế và đời sống cơ bản. Giúp chúng ta
nắm bắt được những thách thức cũng như những tiềm năng giúp phát triển đất nước trong
thời 4.0, đồng thời giúp chúng ta biết được những đường lối lãnh đạo sáng tạo của Đảng
trong thời đại công nghệ số.

17
5. Bố cục của tiểu luận
Chương 1: Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa ở Việt Nam.
Chương 3: Tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong các lĩnh vực
cơ bản.

18
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1:KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.

1.1.Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa
học – công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa bởi vì:
- Là quá trình biến một nước nông nghiệp thành nước công nghiệp; trang bị kĩ thuật –
công nghệ hiện đại, tự động hóa.
- Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
- Xu hướng toàn cầu hóa mở ra cơ hội cho ta thực hiện mô hình công nghiệp hóa rút
ngắn thời gian.

1.2. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Do yêu cầu phải tiến hành xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội:
bao gồm toàn bộ yếu tố vật chất của lực lượng lượng sản xuất do con người tạo ra thích
ứng với trình độ phát triển khoa học công nghệ hiện đại để tạo ra của cải vật chất cho xã
hội.
Do yêu cầu phải thu hẹp khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kĩ thuật- công nghệ giữa
nước ta với các nước trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và thế giới nói chung: cụ thể
qua các phương diện về năng suất lao động, cơ cấu sản xuất, chất lượng nguồn lao động,
thu nhập bình quân đầu người, tăng trưởng nền kinh tế…

19
Do yêu cầu phải tạo ra nguồn lao động xã hội với năng suất cao: thể hiện trong quá
trình tự động hóa sản xuất khi thay thế nguồn lao động thủ công bằng lao động máy móc,
trang thiết bị tiên tiến.
Tác dụng to lớn và toàn diện của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Tạo ra những điều kiện to lớn để phát triển lực lượng sản xuất và góp phần tăng
năng suất lao động cho xã hội, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền
kinh tế thị trường, giải quyết các vấn đề về việc làm, thu nhập và đời sống vật chất
lẫn tinh thần của nhân dân.
- Tạo ra nguồn nhân lực mới là tiền đề của việc củng cố các mối quan hệ sản xuất
trong xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò và vị trí của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
tăng cường các mối quan hệ liên minh giữa các tầng lớp công – nông – trí.
- Tạo ra tiền đề để hình thành và thúc đẩy một nền văn hóa mới cho xã hội chủ nghĩa
– một nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa mang đậm bản sắc một dân tộc.
- Tạo ra lượng lớn cơ sở vật chất – kĩ thuật trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập
mang tính tự chủ gắn với các cơ hội hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, đồng thời vừa
củng cố vừa tăng cường nền quốc phòng an ninh quốc gia.

20
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM

2.1. Các giai đoạn phát triển công nghiệp của Việt Nam
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1945:
Nền công nghiệp của Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có các đặc
điểm như:
- Số cơ sở công nghiệp có rất ít ỏi
- Năng lực sản xuất công nghiệp còn rất nhỏ bé.
- Kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu.
- Phần lớn số xí nghiệp công nghiệp là của nước ngoài và chủ DN là người nước
ngoài; DN dân tộc và chủ DN người bản xứ có số lượng không đáng kể.
- Tổng số công nhân làm việc trong ngành công nghiệp có khoảng 90.000 người, chủ
yếu là một đời, công nhân nhiều đời có rất ít.
- Hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nhằm vơ vét tài nguyên thuộc địa, bóc lột
nhân công rẻ mạt bản xứ, nhằm phục vụ chiến tranh, hoặc nhằm nô dịch người dân
bản xứ.
- Số loại sản phẩm rất ít ỏi, chỉ đếm trên đầu ngón tay, đến cái kim sợi chỉ cũng phải
nhập khẩu; sản lượng chưa có bao nhiêu...
- Năng suất lao động trong ngành còn rất thấp. Tạm tính tốc độ tăng năng suất lao
động năm 2016 so với năm 1939, thì năng suất lao động công nghiệp trước Cách
mạng chưa bằng một phần ba ngày nay.
Đời sống vật chất và tinh thần của người công nhân rất thiếu thốn, cực nhọc, do
cường độ lao động cao, thời gian làm việc nhiều, thu nhập thấp, an toàn lao động không
được bảo đảm...
2.1.2. Giai đoạn từ 1946 đến 1985:
Ở giai đoạn này, đã có những chuyển biến tích cực như: có 19 ngành công nghiệp
nhỏ khá hoàn thiện ra đời và có thể so sánh được với các nền công nghiệp phát triển hơn.
Tại đại hội III (9/1960) Chủ trương áp dụng chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng” ,được duy trì 15 năm ở khu vực miền Bắc ( 1960 - 1975 ), 10 năm tiếp theo được

21
áp dụng toàn quốc ( 1976 - 1986 ). Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW
lần thứ 7 (khóaIII) nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng.
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công
nghiệp địa phương.
Tại Đại hội IV của Đảng (1976) khẳng định lại chiến lược “Ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng..” sau 16 năm nhưng chính sách thì đã có thay đổi chút ít:
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chấtkỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏlên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa.
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ.
- Kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công – nông nghiệp ở mức độ trung ương và địa phương.
Tuy nhiên vẫn có nhiều khó khăn như: nguồn viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm,
cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước
xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt
được…
2.1.3. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi gia nhập WTO (năm 2007):
Sau 20 năm đổi mới và phát triển (1986 – 2005), nước ta đạt được những thành tựu
hết sức to lớn về kinh tế - xã hội, tạo ra sự thay đổi sâu sắc. Ngành công nghiệp đã có
bước phát triển vượt bậc, cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất được tăng cường,
nhiều ngành công nghiệp mới có kỹ thuật công nghệ cao ra đời, môi trường đầu tư cởi
mở, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển. Nhịp độ sản xuất công nghiệp đạt tốc độ
tăng cao và ổn định, bình quân 20 năm (1986-2005) tăng 12,3%, bằng 1,7 lần tốc độ tăng
bình quân của 20 năm trước đổi mới (1966 - 1985). Sau đây là những kết quả quan trọng
của quá trình phát triển công nghiệp trong 20 năm đổi mới.

22
Đai hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới tiến hành công
nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Từ đó, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế,
đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất, tạo tiền đề cho giai đoạn
phát triển mới. thông qua việc nước ta thực hiện các kế hoạch năm: 1986-1990, 1991-
1995, 1996-2000, 2001-2005 đã đạt được một số thành tựu được xác định là bước rất
quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước:
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986-1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành
tựu bước đầu rất quan trọng, GDP tăng 4,4%/năm.
Trong 5 năm (1991-1995), nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao
liên tục và tương đối toàn diện, thực hiện vượt mức hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế
hoạch 5 năm 1991-1995.
Thời kỳ 5 năm (1996-2000), được xác định là bước rất quan trọng của thời kỳ phát
triển mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Thời kỳ 5 năm (2001-2005), kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh theo hướng tích cực,
năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản phẩm trong nước 5 năm 2001 -2005 tăng bình
quân 7,5%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Sản xuất công nghiệp thời kỳ 1986 - 2005 có tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhất
trong 50 năm lại đây, toàn ngành tăng bình quân 12,3%/năm 20 năm trước đó (1966 -
1985) chỉ tăng 7,2%/năm. Trong đó, thời kỳ 5 năm sau tăng cao hơn thời kỳ 5 năm trước,
cụ thể:
- 1986-1990 tăng bình quân 5.95 năm.
- 1991-1995 tăng bình quân 13,7%/năm.
- 1996-2000 tăng bình quân 13,9% /năm.
- 2001-2005 tăng bình quân 16,0%/năm.
Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Năm 1990, tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1%.
Năm 2000 lên 17,9% năm 2005và lao động đã qua đào tạo cũng tăng từ 20%.
Năm 2000 lên 25%.

23
Năm 2005: Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nhìn chung Việt
Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh, tăng cường cơ sở vật chất
và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
2.1.4. Giai đoạn hậu WTO:
Căn cứ công văn số 3174/VPCP-CN ngày 11 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ về việc Thủ tướng Chính phủ ủy quyề n cho Bộ trưởng Bộ Công nghiệp phê
duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến 2010, tầm nhìn đến 2020. Phát triển
công nghiệp hỗ trợ là nền tảng vững chắc để phát triển các ngành công nghiệp chủ lực.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong xu thế hội nhập phải gắn với phân công hợp tác quốc
tế và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên dựa trên tiềm năng, lợi thế của Việt
Nam, với công nghệ tiên tiến, gắn liền với mục tiêu nâng cao giá trị sản phẩm công
nghiệp xuất khẩu.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng phát huy tối đa năng lực đầu tư của các
thành phần kinh tế, đặc biệt là các đối tác chiến lược,các công ty, tập đoàn đa quốc gia.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung theo từng nhóm ngành công nghiệp để
phát huy tối đa hiệu quả cạnh tranh. Theo đó, Việt Nam đã tăng cường xây dựng các khu
công nghiệp, chủ yếu là cho các ngành công nghiệp hỗ trợ. Tính đến đầu tháng 12/2010,
cả nước có 21 KCN được thành lập mới tổng vốn đầu tư đăng ký của 21 dự án phát triển
kết cấu hạ tầng KCN đạt gần 7.000 tỷ đồng.
Hiện tại, cả nước đã có 255 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên
69.253 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt trên 45.000 ha, chiếm
khoảng 65% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 171 KCN đã đi vào hoạt động với
tổng diện tích đất tự nhiên 43.580 ha và 84 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng
mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 25.673 ha. Nhờ đó, ngành
công nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu nỗi bật.
Số liệu thống kê, tính chung năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 794,2
nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2009, cho thấy sự phục hồi khá tốt của sản xuất và
kinh doanh sản phẩm công nghiệp trong năm qua. Sự tăng tốc trở lại của công nghiệp
trong năm nay có sự đóng góp lớn của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Giá trị sản
xuất ngành này cả năm ước đạt 710,9 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 89,5% toàn ngành

24
công nghiệp, tăng 14,9% so với năm 2009 (năm trước chỉ tăng 7,3%). Trong năm 2010,
nhiều sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp có tốc độ tăng so với năm 2009 cao hơn
mức tăng chung của toàn ngành như khí hoá lỏng, sơn hoá học, sữa bột, bia, giày thể
thao, kính thuỷ tinh, tủ lạnh, tủ đá, khí đốt nhiên liệu dạng khí, điện sản xuất, xe máy, xi
măng, quần áo mặc cho người lớn,... Tính chung 12 tháng năm 2009, GDP công nghiệp
và xây dựng tăng 5,4%, riêng công nghiệp tăng 3,8%; giá trị sản xuất công nghiệp toàn
ngành ước đạt 696,577 tỷ đồng, tăng 7,6% so với thực hiện năm 2008; công nghiệp ngoài
quốc doanh tăng 9,9%, cao nhất trong các khu vực kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa cả nước ước đạt 56,73 tỷ USD, giảm 9,5% so với năm 2008, nhập siêu ước đạt 56,73
tỷ USD với tỷ lệ nhập siêu/ xuất khẩu là 21,1%, giảm so với năm 2008 (năm 2008 là
28,5%). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội cả năm ước đạt 1.200.000 tỷ đồng,
tăng 19% so với năm 2008. Sản xuất công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh và khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đạt tốc độ tang trưởng cao (9,9% và 8,1%), góp phần quan
trọng vào kết quả tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp.
Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng thị
trường, giảm dần tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước (Quốc doanh trung ương và quốc
doanh địa phương), tăng tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài.
Một số tỉnh, thành phố có tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp lớn vẫn duy trì được tốc
độ tăng trưởng công nghiệp cao đã góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng của toàn ngành như:
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoa, Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đồng Nai và Cần Thơ (chiếm 59,7% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước).
Qua đó, ta có thể thấy thấy rằng ngành công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn này đã có
những bước tiến rõ rệt và đang trên đà tăng trưởng mạnh.

2.2 Những tiền đề thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa - hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa:
2.2.1. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả:
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn rất lớn. Vì vậy,
huy động và sử dụng vốn hợp lý là một trong những điều kiện tiên quyết then chốt để
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguồn vốn mà chúng ta
có thể huy động và sử dụng đến từ hai nguồn chính: trong nước và nước ngoài.

25
Vốn trong nước được tích lũy trong nền kinh tế quốc dân dựa trên hiệu quả của sản
xuất và thặng dư lao động của người lao động trong mọi ngành nghề thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau. Ở nước ta hiện nay, để giải quyết vấn đề tích lũy tư bản trong
nước cần phải tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại và
hợp lý hoá sản xuất. Muốn vậy, việc đầu tiên là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao
động để tập trung phát triển nông nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Sau đó, phải thực hành tiết kiệm: chống lãng phí, tham nhũng ... Ngoài ra phải có
chính sách kinh tế phù hợp về cơ cấu thuế ... để đẩy nhanh quá trình hội nhập và tích lũy
vốn. Nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định vì nó là nhân tố bên trong đảm bảo xây
dựng nền kinh tế tự chủ, là tiền đề để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước
ngoài ...
Nội lực là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
Ở một nước chưa phát triển như chúng ta, việc tích lũy một lượng vốn lớn để phục
vụ cho công nghiệp hóa là rất khó, vì vậy ngoài nguồn vốn trong nước thì nguồn vốn
nước ngoài cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, khi huy động vốn từ nước ngoài, điều quan
trọng là phải xem xét những mặt trái để bạn không phụ thuộc quá nhiều vào các quỹ kinh
tế và chính trị. Điều này rất quan trọng đối với một đất nước đang tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội như chúng ta. Để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài, cần
chú trọng xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng cho các công ty, tổ chức nước ngoài
đầu tư vào Nhật Bản. Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ tiên tiến bằng nguồn
vốn đầu tư. Cũng cần có một khung pháp lý đủ mạnh để đảm bảo sự lãnh đạo của đảng
và sự kiểm soát của các hoạt động đầu tư nước ngoài của đất nước.
Vấn đề của chúng ta hiện nay là phải dốc nhiều sức lực, làm ăn có hiệu quả, giữ
vững tinh thần độc lập tự chủ, giữ vững ý chí độc lập tự chủ, sản xuất tiết kiệm, kinh
doanh tiết kiệm. Cung cấp vốn chống thất thoát, lãng phí quốc gia và đầu tư phát triển.
2.2.2. Đào tạo nguồn nhân lực:
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đặt ra yêu cầu rất cao về phát triển nguồn nhân lực.
Con người giỏi, tài năng, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, lao động quên mình vì độc
lập phồn vinh của đất nước, chuẩn bị tốt về tri thức văn hóa, sản xuất, kinh doanh. quản
lý vĩ mô xã hội. Nhìn chung, ở trình độ khoa học kỹ thuật đạt trình độ thế giới.

26
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo phải được coi là một trong những phương hướng
chủ yếu để đầu tư phát triển nhằm bảo đảm đúng đối tượng phục vụ yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đầu tư cho phát triển, giáo dục và đào tạo cần thực sự là quốc sách
lớn. Giáo dục và đào tạo sẽ nâng cao chất lượng của người Việt Nam về mọi mặt và đảm
bảo khả năng hội nhập vào sự phát triển của thế giới. Ngoài ra, cần đáp ứng tối đa nhu
cầu của người lao động, đảm bảo khả năng tái tạo và nhiệt huyết trong công việc, quan
tâm đến điều kiện sống vật chất và tinh thần của người lao động vì mục tiêu chung của
đất nước.
2.2.3. Phát triển khoa học công nghệ:
Khoa học và công nghệ được coi là động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng quyết định lợi thế cạnh tranh
và tốc độ phát triển kinh tế nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá, nhất là hiện đại hoá
đất nước.
Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nhỏ với trình độ kỹ thuật thấp, yếu kém. Vì vậy,
việc ứng dụng khoa học và công nghệ phải có hướng đi cụ thể, phù hợp để từng bước
nâng cao trình độ khoa học của đất nước, tận dụng sức sáng tạo trong nước. Một số
phương hướng: - Vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đã có
kế hoạch.
Khuyến khích nghiên cứu khoa học nhằm sử dụng và đánh giá chính xác tiềm năng
các nguồn lực quốc gia nhằm xây dựng chiến lược sử dụng hiệu quả cũng như ứng dụng
hiệu quả các kết quả khoa học.
Chú trọng đúng mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
tự nhiên.
Mở rộng các hợp tác khoa học công nghệ với các nước và các tổ chức quốc tế nhằm
tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ
và giúp đỡ của quốc tế.
Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến bao gồm đẩy mạnh
các hình thức đào tạo và sử dụng các cán bộ khoa học chú trọng đào tạo các lớp chuyên
gia đầu ngành, tăng cường cơ sở vật chất cho các ngành khoa học và công nghệ.

27
Để hoàn thành tất cả các nhiệm vụ trên, chúng ta cần xây dựng một cơ cấu chính trị
đồng bộ để phát triển, huy động sự chung sức của các cấp các ngành và toàn dân.
2.2.4. Mở rộng quan hệ đối ngoại:
Quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và hiệu quả trong xu thế toàn cầu
hoá ngày nay thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng suôn sẻ. Cuộc cách mạng
khoa học công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hóa đang tạo ra sự kết nối và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với các nước là hết sức cần
thiết về kinh tế, nhất là trong thời điểm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi
phải có vốn và công nghệ. Câu hỏi của chúng tôi là làm thế nào để đảm bảo an ninh và
độc lập của quốc gia. Đó là lý do tại sao chúng ta cần một chính sách thương mại đúng
đắn và hiệu quả cao.
2.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước:
Đây là điều kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nước ta. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình đấu tranh gian khổ của
nhân dân ta, đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức và khó khăn lớn. Vì vậy, sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng tiên phong, đã
trưởng thành về kinh nghiệm chiến đấu, không ngừng đổi mới và hướng dẫn, chỉ đạo và
quản lý nhân dân một cách mạnh mẽ và hiệu quả. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa chủ yếu giúp duy
trì ổn định chính trị. Mọi kế hoạch chính sách công nghiệp hóa đều phải tuân theo đường
lối của đảng. Đây là nhân tố trực tiếp bảo đảm sự thành công của công cuộc hiện đại hoá,
là sự nghiệp của công nghiệp hoá.
Ngoài ra, nhà nước phải nâng cao chức năng quản lý kinh tế - xã hội phù hợp với
đường lối của đảng. Trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá như trên, sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của chúng ta là sự chung tay của toàn đảng và các cấp, các
ngành, quyết tâm giành thắng lợi, là nguyên liệu cho sự nghiệp xây dựng. công nghệ sẽ
hoạt động tốt nhất để kiến tạo chủ nghĩa xã hội ở nước ta thành công.

28
CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM TRONG CÁC LĨNH VỰC CƠ BẢN.

3.1. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của nước ta
hiện nay
Ở Việt Nam, hiện nay có khoảng 80% dân số làm nghề nông, tuyệt đại bộ phận dân
cư và lao động xã hội sống ở nông thôn, sản xuất nhỏ lẻ với năng suất thấp đời sống còn
nhiều khó khăn, bản thân nền kinh tế của nước ta còn chậm phát triển. Vì vậy muốn tăng
trởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững đất nước ta phải từng bức tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn. Kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới đã chỉ ra rằng không phát
triển nông nghiệp, nông thôn thì không một nước nào có thể phát triển bền vững, ổn định
với tốc độ cao được.
Chính vì vậy trong giai đoạn hiện nay vấn đề nông nghiệp, nông thôn ở nước ta là
vấn đề luôn đợc quan tâm. Tại Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nớc ta trong đó nêu rõ việc phải đặc biệt
coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong những năm trước
mắt.
3.1.1. Thành tựu
Trong những năm vừa qua nước ta đã đạt được một số thành tựu trong việc chuyển
dịch các ngành kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bước đầu
ta đã giảm được tỷ trọng của nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng của tiểu thủ công nghiệp,
công nghiệp chế biến và dịch vụ. Không những vậy mà ta đã phá được thế độc quyền
cạnh tranh trong nông nghiệp, đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, hình thành nên các
vùng chuyên canh quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ
và xuất khẩu. Trong nông nghiệp đang hình thành và phát triển các vùng nông nghiệp sản
xuất hàng hoá như: Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và miền núi, trung du phía Bắc chuyên
môn hoá về trồng và chế biến cây công nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng
sông Hồng chuyên môn hoá về lương thực - thực phẩm.

29
Đặc biệt trong thời gian gần đây việc công nghiệp hóa, hiện đại hái nông nghiệp,
nông thôn nước ta còn đạt được rất nhiều thành tựu trong việc đẩy mạnh ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ. Nước ta đã đạt được một số bước tiến nhất định trong quá trình
cơ giới hoá nông nghiệp. Đến năm 1997 cả nước có hơn 115.487 máy kéo các loại sử
dụng trong nông nghiệp với tổng công suất hơn 2 triệu CV, tăng gấp 1,5 lần so với năm
1985. Đặc biệt máy kéo nhỏ thích hợp với quy mô hộ gia đình tăng rất nhanh, từ 17880
cái với 19.60 nghìn CV năm 1990 tăng lên 71208 cái với công suất 810027 CV năm
1995 và 83.289 cái với công suất hơn 863 nghìn CV năm 1997. Công việc cơ giới hoá
vận chuyển trong nông nghiệp cũng có nhiều khởi sắc. Trong nông thôn hiện nay có
22.000 ô tô các loại (không kể máy kéo và các loại xe công nông) trong đó có hơn 15.000
xe tải (90% là của hộ gia đình nông dân) tăng gấp 2 lần năm 1990. Các khâu công việc
khác như xay xát lúa gạo, chế biến thức ăn gia súc, ca xẻ gỗ, cũng được từng bước cơ
giới hoá cùng với sự phát triển của nguồn điện lực quốc gia... Nhà nước ta đã chú trọng
đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi. Tính đến 1/10/1996 cả nước đã có 20.044 công trình
thuỷ lợi lớn nhỏ trong đó có 20,502 công trình thuỷ nông (6727 hồ, đập chứa nước. 5899
cổng, 2363 trạm bơm điện, 671 trạm bơm dầu, 4.842 công trình phụ thuộc, 162 trạm thuỷ
điện kết hợp thuỷ nông) các công trình này đã đảm bảo tưới tiêu cho 3 triệu ha diện tích
đất canh tác (chiếm 53% tổng số) tiêu trên 2 triệu ha, ngăn màn 0,7 triệu ha và chống lũ
cho 2 triệu ha. Thời gian vừa qua việc ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, trước hết là việc tạo ra nhiều giống cây trồng, vật
nuôi mới, đồng thời ta cũng đã sản xuất được nhiều loại phân bón, thuốc trừ sâu vi sinh.
Những thành tựu của tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong nông nghiệp, nhất là trong việc
ứng dụng các giống cây trồng, vật nuôi mới đã tạo ra những tiền đề hết sức quan trọng
cho bước nhảy vọt về năng suất và chất lượng nông sản...
Bên cạnh đó là sự chuyển biến tích cực trong việc xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp. Hiện nay nông nghiệp nông thôn nước ta đang có sự tồn tại đan xen của nhiều loại
hình quan hệ sản xuất như: kinh tế hộ gia đình, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh
tế tư nhân.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn cũng đạt đợc những
thành tựu nhất định. Nhà nước ta không chỉ chú trọng nâng cao trình độ của người lao
động ở nông thôn mà còn chú trọng đến việc đào tạo một đội ngũ cử nhân, kỹ sư trình độ

30
Đại học và trên Đại học có lòng yêu nghề, muốn gắn bó với nông nghiệp nông thôn, chú
trọng đến việc nâng cao chất lượng giáo dục, có chính sách giáo dục đào tạo riêng cho
nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa...
3.1.2 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc thì việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay còn tồn tại rất nhiều hạn chế.Tuy bước đầu đã có sự
chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế ở nông nghiệp, nông thôn nhưng sự chuyển dịch này
diễn ra rất chậm và gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ lao động thuần nông hiện còn ở mức cao
so với lao động phi thuần nông. Trong khi đó việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp chế biến, dịch vụ lại dung có nhiều hạn chế mà nguyên nhân là do: Thiếu vốn,
mạng lưới tín dụng nông thôn chậm phát triển, tín dụng ngoài quốc doanh nông thôn
chưa nhiều, nghèo nàn, trình độ cán bộ thấp. Các ngành nghề được ưu tiên phát triển nhất
là các ngành nghề tiểu thủ công truyền thống nhưng vấn đề môi trường cũng lại được đặt
ra cấp thiết...
Bên cạnh đó còn là những hạn chế trong công tác ứng dụng tiến bộ khoa học - công
nghệ trong nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay công tác cơ giới hoá nông nghiệp thực sự
đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Đất đai manh mún gây khó khăn cho cơ giới hoá sản
xuất, quy mô ruộng đất phân tán, nhỏ lẻ làm cho việc sử dụng máy kéo, xe vận tải và
máy móc nông nghiệp khó phát huy tác dụng, chi phí cao trong khi hiệu quả thu được
thấp. Có thể nói, vấn đề cơ giới hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn đang trong tình
trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu của hiện đại hóa với lực lượng lao động dư thừa ở nông
thôn. Nếu như xét trên góc độ kỹ thuật thì máy móc gần như luôn đạt hiệu quả (nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm), nhưng để có hiệu quả trên góc độ kinh tế thì phải xét
tới chi phí của nó, thiết bị mới không phải là yếu tố quyết định. chính khả năng lợi nhuận
trong phần lớn các trường hợp và nó chỉ góp phần nhỏ trong phần lớn các trường hợp và
nó chỉ góp phần nhỏ trong việc nâng cao cạnh tranh, máy móc thiết bị sẽ trở thành gánh
nặng nếu không quản lý tốt. Nông dân chưa mạnh dạng đưa cơ giới vào sản xuất nông
nghiệp vì lo ngại sẽ làm tăng chi phí. Mặt khác giá cả máy móc, nhiên liệu chưa thực sự
khuyến khích nông dân sử dụng cơ giới...
Công tác thuỷ lợi hoá cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn: chất lượng
các công trình thuỷ lợi còn thấp, khả năng tưới tiêu của thuỷ lợi mới đáp ứng được

31
khoảng 50% yêu cầu về nước cho sản xuất nông nghiệp. Một số công trình đã xuống cấp
nghiêm trọng nhưng thiếu vốn để duy trì, bảo dưỡng, nên công suất thực tế tưới tiêu chỉ
đạt khoảng 30% so với thiết kế... Như vậy điều đặt ra cho chúng ta hiện nay là cần tiếp
tục tìm ra những giải pháp để đầu tư, bổ sung, nâng cấp và xây dựng mới.

So với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà Đảng và
Nhà nước ta đề ra thì trong giai đoạn hiện nay công nghệ sinh học vẫn chưa đáp ứng
được. Tỷ lệ áp dụng công nghệ sinh học còn rất thấp. Đây cũng là một thách thức trong
quá trình đổi mới nông nghiệp nông thôn ở nước ta.
Không những vậy mà do dân trí của con người nông thôn thấp, không được đào tạo
cụ thể để có những hiểu biết nhất định nên hậu quả tất yếu là càng phát triển mạnh công
nghiệp nông thôn thì mức độ ô nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng. Do thiếu vốn
đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông dân cũng có hạn do không được đào tạo
một cách chính quy và cơ bản nên ở hầu hết các địa bàn nông thôn các quá trình sản xuất
và chế biến đều trải qua nhiều công đoạn nhỏ và phân tán. Sản xuất theo quy mô nhỏ,
đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ gia đình khó có điều kiện có được công nghệ tinh
chế tốt nhất bởi vậy chất lượng sản phẩm mới trở nên thấp kém, không đủ tiêu chuẩn
phân phối trong nước hoặc xuất khẩu ra nước ngoài.

3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong nhiệm vụ thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trên các lĩnh vực cơ bản ở nước ta
3.2.1. Thuận lợi
Có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trên
nhiều quốc gia trên thế giới cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển ngày càng
mạnh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới.
Đây là một thời cơ thuận lợi cho phép chúng ta có thể khai thác được những yếu tố
nguồn lực bên ngoài vốn, công nghệ thị trường ...) và những nguồn lực bên trong của đất
nước có hiệu quả, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá rút ngắn, kết hợp với các bước
đi tuần tự nhảy vọt, vừa tăng tốc vừa chạy trước đón đầu.
Nhà nước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi sau chúng ta có lợi thế của
người đi sau. Chúng ta có thể tiến hành khắc phục được những thất bại mà những nước đi

32
trước gặp phải. Lợi dụng cơ hội là đi thẳng vào công nghệ tiên tiến thích hợp với Việt
nam, đạt được sự phát triển nhanh bên vững.
Đất nước sau 10 năm đổi mới đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhiều tiền để
cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được tạo ra, chúng ta đã và đang có những
thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển và giao làm kinh tế. Nằm trên
bán đảo Đông Dương gần trung tâm Đông Nam á. Việt nam là của ngõ đầu mối giao
thông của các tuyến đường quốc tế quan trọng nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động
và được coi là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Do đó, chúng ta có điều kiện
để mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại có điều kiện thu thập và xử lý thông tin
nhanh chóng.
Sự kiện Việt nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN ngày 28/07/1995 và
Mỹ bỏ lệnh cấm vận ngày 03/02/1994 mở ra một hướng phát triển mới của nền kinh tế
Việt nam. Chúng ta có thêm điều kiện thuận lợi để hội nhập kinh tế với khu vực và thế
giới.
Hệ thống pháp luật ổn định, hợp lý, đặc biệt là luật đầu tư đang từng bước được sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện. Điều đó tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các quan
hệ kinh tế quốc tế, các hợp đồng với nước ngoài, làm cho họ yên tâm đầu tư kinh doanh
đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ lợi ích đất nước.
Bên cạnh đó tình hình kinh tế chính trị ổn định nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nguồn lực vật chất
được tăng cường mức sống nhân dân tăng nhanh rõ rệt, sản lượng lương thực thực phẩm
đã tăng lên đáng kể : Nếu như năm 1996 nước ta xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới thì đến
cuối 1997 nước ta đã vượt lên đứng thứ hai
Ngoài ra nước ta còn có những thuận lợi quan trọng khác và nó được coi là nguồn
nội lực không thể thiếu được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá: có chế độ
chính sách ưu việt phù hợp cho từng ngành nghề, nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên
thiên nhiên đa dạng phong phú.
Như vậy qua phân tích trên ta thấy những tiềm năng trên cộng với đường lối chính
sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ được thời cơ thuận lợi vượt qua những thử thách,
thực hiện thắng lợi cùng với đường lối chính sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ

33
được thời cơ thuận lợi, vượt qua những thử thách, thực hiện thắng lợi công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành một nước công nghiệp vào năm 2030.
3.2.2. Khó khăn
Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mục
tiêu con đường phát triển lớn nhất, quan trọng nhất của nước ta trong giai đoạn tới. Trong
thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta còn đứng trước nhiều điều mới
mẻ, nhận thức về công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn hạn che bởi chúng ta vừa thoát khỏi
hai cuộc chiến tranh tàn khốc, điểm xuất phát kinh tế thấp từ một cơ cấu kinh tế mất cân
đối và cơ cấu hạ tầng thấp kém. Vốn là chìa khoá là nhân tố quan trong để thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thế nhưng khả năng huy động vốn cho quá trình này rất bị hạn
chế. Hiện nay, trong tổng số vốn dùng để đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thì vốn
trong nước chỉ có 25% còn 75% là vay nợ nước ngoài. Quản lý và sử dụng kém hiệu qua
cùng với tham nhũng sẽ dẫn đến nguy cơ gánh nặng nợ nần lớn và khả năng trả nợ khó
khăn.
Tiếp đó, bởi cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo ra thời cơ thuận lợi vừa đặt ra những
thử thách nguy cơ. Đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi
lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Nước ta lại năm trong khu vực Châu á Thái
Bình Dương và Biển Đông, nơi đang có những diễn biến phức tạp, nơi dạng tiềm ẩn một
số nhân tố có thể gây mất ổn định.
Dấu ấn của cơ chế quản lý cũ, cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp chưa xoá
bỏ hết cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn đang trong quá trình hình thành.
Quản lý kinh tế xã hội còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy hành
chính công kềnh kém hiệu quả...có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đến việc thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ…đặc biệt là quan liêu tham
nhũng và suy thoái về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ Đảng viên… làm cho chính
sách chủ trương của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng dó cũng
là mảnh đất thuận lợi cho diễn biến hòa bình.

34
3.3. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức.
Quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức đã được Đảng ta chính thức đề cập tại Đại hội X: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều
vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển và cụ thể hoá thêm một
bước quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; …Phát triển khoa học và công nghệ nhằm
mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức,
vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong thời đại toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tất
cả các nước có xuất phát điểm thấp, muốn vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới không
có con đường nào khác ngoài việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Đây chính là xu thế khách quan của thời đại toàn cầu hoá; đồng thời
cũng là con đường “rút ngắn” của quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại nhằm
chuyển nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp - tri thức - và nền kinh tế
tri thức.
Để thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, nhóm giải pháp về chủ trương, chính sách.
Xây dựng mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng hiện đại. Trong đó,
cần hoàn chỉnh khung tiêu chí nước công nghiệp hiện đại. Đó là hệ các tiêu chí về tăng
trưởng kinh tế vĩ mô, các tiêu chí phản ánh về sự phát triển xã hội, các tiêu chí đánh giá
mức độ hội nhập quốc tế.

35
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường
pháp lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, phát huy vai trò của khoa học, công
nghệ khuyến khích phát triển năng lực trí tuệ con người.
Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức, công nghệ mới, tập trung phát triển công nghiệp năng lượng, công
nghiệp chế tạo, công nghiệp tự động, các ngành công nghiệp mũi nhọn với sự huy động
các nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời, cắt giảm các dự án đầu tư lớn
nhưng hiệu quả thấp; phát triển các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ dựa nhiều vào
tri thức, chấm dứt bán tài nguyên thô; nhập công nghệ thay cho nhập sản phẩm chế biến -
FDI phải đi kèm chuyển giao khoa học, công nghệ; tăng mạnh vốn đầu tư vào giáo dục -
đào tạo. Thực hiện sự chuyển hướng chiến lược từ sự phát triển dựa vào tài nguyên sang
phát triển dựa vào tri thức, năng lực trí tuệ của con người, gia tăng nhanh hàm lượng tri
thức trong GDP, giảm mạnh tiêu hao nguyên liệu, năng lượng.
Thiết lập hệ thống đổi mới sáng tạo trong toàn bộ nền kinh tế, tạo sự liên kết hữu cơ
khoa học, đào tạo với sản xuất - kinh doanh, nhằm đẩy nhanh quá trình đổi mới sáng tạo.

Cải cách hành chính gắn với tin học hóa, đẩy nhanh xây dựng Chính phủ điện tử để
bộ máy nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả hơn,...
- Thứ hai, nhóm giải pháp về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải gắn kết với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri
thức. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011- 2020) khẳng định: “Phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu
quả, bền vững... Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối
với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy
nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”.
Tiến hành cải cách giáo dục một cách triệt để, bắt đầu từ những vấn đề căn bản về
triết lý và mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam. Đây là yếu tố quyết định nhất thúc đẩy
Việt Nam đi nhanh vào kinh tế tri thức.

36
Cần có chính sách khuyến khích sáng tạo, cơ cấu trình độ đào tạo phù hợp với yêu
cầu phát triển của trình độ kinh tế-xã hội, hiệu quả của các hoạt động khoa học - công
nghệ, mối liên hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Xây dựng và phát huy đội ngũ trí
thức và công nhân trí thức, đó là lực lượng tiên phong và chủ lực để phát triển nền kinh
tế tri thức.
Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ với nước
ngoài; tuyển chọn đưa đi đào tạo ở các nước tiên tiến cán bộ khoa học - kỹ thuật thuộc
các lĩnh vực ưu tiên chiến lược.
Thiết lập hệ thống học tập suốt đời, nhanh chóng hình thành xã hội học tập (đây là
một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức).
- Thứ ba, nhóm giải pháp về khoa học, công nghệ.
Để đạt tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại, giá trị do tri thức tạo ra
chiếm khoảng 40% GDP, công nhân tri thức chiếm khoảng 30% lực lượng lao động, chỉ
số kinh tế tri thức đạt mức trung bình của thế giới, cần có chính sách giải quyết tốt mối
quan hệ giữa khoa học, công nghệ; phát triển khoa học - công nghệ và nâng cao năng lực
nghiên cứu khoa học. Trong chiến lược phát triển khoa học, công nghệ, cần có lộ trình,
bước đi thích hợp cho đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế tri thức trong từng ngành,
từng địa phương. Ở giai đoạn đầu, tập trung vào tiếp thu, chuyển giao công nghệ mới,
trong đó ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp vùng để thu hút công nghệ mới.
Hình thành một số cơ sở nghiên cứu, ứng dụng đủ sức tiếp thu, cải tiến công nghệ và
sáng tạo công nghệ mới gắn với sản xuất. Giai đoạn tiếp theo sử dụng cơ chế tài chính
khuyến khích đối tác nước ngoài hợp tác với cơ sở trong nước phát triển công nghệ mới.
Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ sở sản
xuất trong nước tiến tới vận dụng và làm chủ những công nghệ và tri thức mới của nhân
loại.
Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin như mũi nhọn đột phá vào kinh tế tri thức.
Công nghệ thông tin và truyền thông là hạ tầng cơ sở để thực hiện hầu hết các hoạt động
của kinh tế tri thức, là phương tiện hữu hiệu hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo, môi trường
kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho việc sáng tạo và sử dụng tri thức.
Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông của Việt Nam và phát triển
các khu công nghệ cao. Ngoài các khu đã có như Công viên phần mềm Sài Gòn, Quang

37
Trung, Khu công nghệ cao Láng - Hòa Lạc, trung tâm phần mềm Hải Phòng, công viên
phần mềm Đà nẵng, Trung tâm phần mềm Huế, cần phát triển thêm các khu công nghệ
cao mới ở khu vực phía Bắc, nhất là Hà Nội và Hải Phòng.
Đổi mới công nghệ, sản phẩm, phương pháp tổ chức sản xuất kinh doanh trong tất
cả các ngành. Trong mỗi ngành cần có những mũi nhọn đột phá đi thẳng vào công nghệ
cao. Chú trọng sử dụng công nghệ cao để phát triển nhanh ngành cơ khí chế tạo, đặc biệt
là cơ khí chính xác, tự động hóa, trở thành những ngành kinh tế tri thức.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các quốc gia có xuất phát điểm
thấp, muốn vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới không có con đường nào khác là phát
triển khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Đây là xu thế khách quan của thời đại, đồng thời cũng là con đường “rút
ngắn” của quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại nhằm xây dựng nền kinh tế
công nghiệp - tri thức và nền kinh tế tri thức.

38
KẾT LUẬN
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã, đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất
cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đườ ng phát triển tất yếu của nước ta để đi
tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” công nghiệp hoá, hiện
đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi, cách mạ
ng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và con
ng ười), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nhưng cơ sở, động lực
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì? Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời vừa là trung tâm
của mọi biến đổi lịch sử. Nói cách khác, con người là chủ thể chân chính của các quá
trình xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân
lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành
động lực thật sự của sự phát triển.
Quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã được nhiều quốc gia quan tâm và đặc biệt
đang nổi lên ở khu vực Đông á. Xuất phát là những nước nghèo, chỉ có thể rút ngắn thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong
trường hợp đầu tư phát triển đủ mạnh nguồn nhân lực. Sự đầu tư ấy được hiểu cả ba mặt:
ch ăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống và phát triển giáo dục, trong đó đầu tư có hiệu
quả nhất là đầu tư cho giáo dục. Khi nghiên cứu quan hệ giữa GDP và các yếu tố của
nguồn nhân lực, người ta thấy sự phát triển của nguồn nhân lực càng sớm thì tốc độ tăng
trưởng kinh tế càng cao. Thực tế đã chứng minh, do phát triển nguồn nhân lực mà Hàn
Quốc đã mau chóng trở thành nước công nghiệp, có sự hội nhập thần kỳ ở khu vực Đông
á và trở thành một điểm sáng bên Nhật Bản siêu cường.
Đồng thời, xuất phát từ tư tưởng của C.Mác về sự phát triển vì con người, vì sự
nghiệp giải phóng của con người, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể khẳng định rằng
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế giới nói chung và đặc biệt là ở nước ta
hiện nay chính là một cuộc cách mạng- cách mạng con người. Trong “Tư bản”, C.Mác đã
khẳng định: “để sản xuất ra những con người toàn diện” cần phải có một nền kinh tế phát
triển, một nền văn hoá mới, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục tiên

39
tiến. Và ông coi tạo ra những thành tưu kinh tế xã hội đó “Không phải chỉ là một phương
pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phương pháp duy nhất để sản
xuất ra những con người phát triển toàn diện” những chủ nhân thực sự của một xã hội vì
con người. Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải vì mục tiêu phát triển con người.
Chỉ có như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới trở thành sự nghiệp cách mạng của
quần chúng.
Tóm lại thời gian quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước còn chậm, năng
lực và trình độ công nghệ nền kinh tế còn thấp việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại đang cần cải thiện và cần phải thu hẹp khoảng cách
phát triển với các nước trong khu vực với mục tiêu phát triển dất nước theo hướng hiện
đại. Việt Nam cần có tư duy và cách tiếp cận phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế
tử vấn đề lựa chọn các mô hình cũng như các chính sách và vấn đề ưu tiên trong phát
triễn công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng như gắn liền với phát triển độ thị, kinh tế
đô thị. Ngoài lao dộng Việt Nam còn có những thách thức lớn trong cuộng cách mạng
công nghiệp lớn của thế giới mà đây là cuộc cách mạng 4.0. Do vậy chúng ta phải tiếp
tục phát triển và chuyển cơ cấu đổi mới quản lý nền kinh tế, chú trọng đến các ứng dụng
phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng và cải thiện bộ máy quản lý nhà nước hoàn
thiện hơn

40
TẦI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị.
3. PGS.TS Đỗ Xuân Tuất. Thực trạng của công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn của nước ta hiện nay và giải pháp để thực hiện CNH HĐH nông nghiệp nông thôn ở
nước ta hiện nay.
4. PGS, TS. Đoàn Minh Tuấn (2016). Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản.
5. PGS. TS Võ Thị Thanh Lộc (2010). Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học và viết
để cương nghiên cứu (Ứng dụng trong lĩnh vực kinh tế xã hội). NXB Đại học Cần Thơ.
6. TS. Lê Thành Nghiệp (2006). Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. NXB Khoa học kỹ
thuật.
7. TS. Phạm Thị Kiên (2020). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển lực
lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 ở việt nam hiện nay. NXB Chính trị
Quốc Gia Sự Thật.
8. PGS, TS. Đào Duy Quát (2020). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải là một nội dung
quan trọng trong chủ đề của Báo cáo chính trị. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
9. PGS, TS. Hoàng Văn Phai – TS. Phùng Mạnh Cường (2021). Thúc đẩy phát triển khoa
học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước - Điểm nhấn quan trọng trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng - Tạp chí
Cộng sản. Tạp chí Cộng sản.
10. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
11. TS. Trần Văn Thiện (2019). Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong bối
cảnh của cuộc cách mạng. Tạp chí Công thương.
12. Một số khó khăn và thách thức đặt ra với quá trình công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay
(2022). Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương.
13. GS.TS Đỗ Thế Hùng (2016). Những trở ngại làm chậm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế tri thức. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

41

You might also like