You are on page 1of 19

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................................2
1.1. Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.................................2
1.2. Các mô hình công nghiệp hoá...............................................................................3
1.2.1. Mô hình công nghiệp hoá cổ điển.......................................................................4
1.2.2. Mô hình công nghiệp hóa theo hướng thay thế nhập khẩu...............................5
1.2.3. Mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (cuối thập kỷ 70).....................6
1.2.4. Mô hình công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế...................................7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................................9
2.1. Những vấn đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo
hướng hội nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay..........................................................9
2.2. Sự lựa chọn mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập
quốc tế ở nước ta.........................................................................................................11
2.3. Những thuận lợi và khó khăn..............................................................................12
2.3.1. Những thuận lợi.................................................................................................12
2.3.2. Những khó khăn.................................................................................................13
2.4. Những giải pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thành công mô hình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập quốc tế..........................................14
2.4.1. Tiếp tục đổi mới thể chế theo hướng hội nhập quốc tế....................................14
2.4.2. Thực hiện đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế.....................15
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
PHẠM NGỌC THẠCH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM............................................................................................16
KẾT LUẬN..................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................18
MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một bước đi cơ bản, có tính chất quyết định
cho việc chuyển một nền sản xuất hàng hoá nhỏ sang một nền sản xuất hàng hoá lớn,
tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được vai trò của công
cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ngay từ những năm 60, Đảng ta đã xác định công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Trên thực tế, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta tiến hành cho đến nay đã được hơn 30 năm. Trong quá trình đó chúng ta
vừa tiến hành công nghiệp hoá, vừa tìm tòi bổ sung hoàn chỉnh hệ thống lý luận cơ bản
cho quá trình này. Mặc dù đã được tiến hành trong thời gian khá dài song cho đến nay
việc lựa chọn một mô hình công nghiệp hoá thích hợp với Việt Nam vẫn còn chưa
thống nhất.

1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ của khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là “xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc”. Từ nay
đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Khi đó lực lượng sản xuất nước ta sẽ đạt tới trình độ tương đối hiện đại, phần
lớn lao động xã hội sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả
nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
Dự kiến GDP sẽ tăng từ 8-10 lần so với Nhà nước năm 1990. Về cơ cấu kinh tế sẽ có
bước biến đổi quan trọng rất lớn trong GDP và lao động xã hội. Đến năm 2020 tuy về
giá trị GDP tính trên đầu người ở Việt Nam chỉ ở mức trung bình khá của khu vực
Châu á - Thái Bình Dương (Dự báo đến năm 2020 dân số Việt Nam có khoảng 105-
110 triệu người nhưng nếu nhìn tổng thể Việt Nam sẽ xác định được vị trí xứng đáng
và vững bước tới một xã hội công bằng văn mình, kinh tế tăng trưởng nhanh trong sự
bền vững của xã hội, môi sinh và giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Về đời sống vật chất và văn hoá đảm bảo cho nhân dân có cuộc sống ấm no, nhà ở
tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ
văn minh, gia đình hạnh phúc, môi trường sinh thái trong lành.
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, Việt Nam cần phải nổ lực, cố gằng
rất nhiều. Về các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam hiện đang là một trong các quốc gia kém
phát triển nhất khu vực, để có thể vươn lên đạt trình độ phát triển ngay hàng với các
quốc gia khác thì Việt Nam cần đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững trong thời gian tương đối dài. Nếu tốc độ tăng trưởng trong những năm sắp tới
của các nước ASEAN và NICs Châu á sẽ vào khoảng 7%/năm thì Việt Nam sẽ phải
2
đạt tới tốc độ cao hơn trên 10%. Tốc độ này đã là thực tế ở một số nước Châu á đặc
biệt là Trung Quốc đã đạt tới tốc độ 20%/năm. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là
phải tìm ra giải pháp thích hợp để đạt tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Từ năm 1991
đến năm 1995, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 8,3%.
Động lực chính của tăng trưởng kinh tế đó là sự khởi động của kinh tế thị trường, sự
giải phóng cho các thành phần kinh tế và mở cửa cho các hoạt động kinh tế đối ngoại...
Những nhân tố này trong những năm tới sẽ vẫn tiếp tục có tác động đó khó có thể đạt
tới mức tăng trưởng mạnh mẽ như đã có. Để tốc độ tăng trưởng cao hơn, nền kinh tế
Việt Nam cần có một lực đẩy mạnh mẽ hơn nữa –lực đẩy đó chỉ có thể nhờ đẩy mạnh
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ra một sự chuyển đổi căn bản
trong cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Ngày nay công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá đã mở ra cho chúng ta
nhiều con đường đi tất cho phép thực hiện trong một thời gian lịch sử rất ngắn so với
quá trình công nghiệp hoá cổ điển lâu dài trước kia. Kinh nghiệm cho thấy một số
nước lựa chọn được mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thích hợp đã rút ngắn được
quá trình công nghiệp hoá năm của mình ví dụ như có những nước chỉ trong vòng ba
chục năm từ một nước Nông nghiệp lạc hậu đã vươn lên thành những nước “Công
nghiệp mới” (NICs) và bắt kịp những nước tư bản tiên tiến đã đi trước mình hàng trăm
năm. Ngày nay các nước ASEAN còn có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá này
xuống còn 20 năm. Là một nước đi sau trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá (thị trường, nhân lực, công nghệ và
nguồn lực) đều đã thay đổi. Vì vậy, việc lựa chọn một mô hình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá thích hợp lãi càng đặt ra một mô hình công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp. Mô
hình đó cần phải kế thừa tất cả những ưu điểm của các mô hình đã có, phù hợp với xu
hướng phát triển của thế giới đồng thời phải tính đến những lợi thề và đặc điểm của
Việt Nam.
1.2. Các mô hình công nghiệp hoá
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều trải qua quá trình công
nghiệp hoá. Tuy nhiên ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, quá trình công nghiệp hoá
có những nét đặc trưng khác nhau, từ đó hình thành một số mô hình công nghiệp hoá
chủ yếu sau.

3
1.2.1. Mô hình công nghiệp hoá cổ điển
Công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển diễn ra vào giữa thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XIX. Đầu tiên ở nước Anh sau đó được mở rộng sang nước Pháp. Mô hình CNH theo
kiểu cổ điển có những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất: Chuyển từ công nghệ thủ công sang công nghẹ cơ khí. Quá trình này
diễn ra với các máy hơi nước và hệ thống đường xe lửa (nửa sau thế kỷ XIX), sử dụng
điện năng (cuối thế kỷ XIX), sử dụng xe hơi, máy bay, tàu thuỷ (đầu thế kỷ XX). Quá
trình chuyển đổi công nghệ ở đây đã bao gồm cả các khâu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng, nghiên cứu triển khai. Vào thời kỳ đó, thời gian cần để đưa một phát minh khoa
học nào đó vào triển khai phải mất hàng chục năm trở lên, ngoài ra khả năng giữ bí
mất cao, trình độ dân trí thấp chính là nguyên nhân cơ bản kéo dài thời kỳ chuyển đổi
từ công nghệ thủ công sang công nghệ cơ khí, làm cho quá trình CNH của các quốc
gia Châu Âu kéo dài hàng thế kỷ.
Thứ hai: áp dụng các biện pháp bóc lột tàn bạo và thực hiện các cuộc chiến
tranh chiếm đoạt các nguồn tài nguyên và thị trường. Để tiến hành chiếm đoạt các
nguồn tài nguyên vốn to lớn. Các quốc gia Châu Âu đã thực hiện các biện pháp tích
luỹ nguyên thủy tàn bạo nhất. Trong bộ “Tư bản”, C. Mác đã diễn tả các hình thức tích
luỹ nguyên thuỷ điển hình ở nước Anh như đuổi nông dân ra khỏi đồng ruộng, biến
ruộng lúa mì thành những cánh đồng trồng cỏ nuôi cừu, bắt người lao động phải làm
việc từ 15 đến 18 giờ một ngày.... Tư bản tích luỹ được ở đây chính là mồ hôi, nước
mắt người lao động.
Thứ ba: Các ngành công nghiệp chủ yếu mang tính hướng nội. Những ngành
công nghiệp mới ra đời ở Châu Âu thường có trình độ phát triển thấp, quy mô sản xuất
không lớn, do vậy thị trường trong nước là đủ cho nó phát triển. Đến một lục nào đó,
quy mô sản xuất của những ngành này vượt quá phạm vi của thị trường nội địa, Chính
phủ của các nước này bược phải tìm kiếm thị trường bên ngoài. Dường như vào thời
đó chiến tranh là biện pháp duy nhất đảm bảo thị trường ngoài nước cho các quốc gia.
Song những quốc gia có đủ sức mạnh để xâm chiếm các nước khác không nhiều mà
phần lớn các quốc gia không làm được việc đó, do vậy phải hướng sự phát triển của
các ngành công nghiệp của mình chủ yếu vào thị trường trong nước. Bên cạnh đó
phương tiện giao thông liên lạc vào thời kỳ này còn kém phát triển nên vận chuyển

4
hàng hoá ra nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn như chi phí vận tải lớn, rủi ro cao
củng buộc các ngành công nghiệp ra đời vào thời kỳ này chủ yếu có tính hướng nội.
Thứ tư: Tăng trưởng thấp và bất bình đẳng xã hội cao đây là đặc trưng nổi bật
của mô hình CNH theo kiểu cổ điển Châu Âu. Trước thế kỷ XX, các quốc gia Châu
Âu đã tiến hành CNH với tốc độ tăng trưởng thấp chỉ vào khoảng 2%/năm. Tuy tốc độ
tăng trưởng như vậy đã là rất cao so với thời kỳ Trung cổ kéo dài. Trong điều kiện tốc
độ tăng trưởng thấp, con đường tích luỹ vốn duy nhất để CNH là phải giảm tiền lương
và thu nhập của người lao động từ đó gây bất bình đẳng nghiêm trọng của các xã hội
Châu Âu đó.
Bốn đặc trưng trên đây tiêu biểu cho mô hình CNH của các quốc gia châu Âu
tuy nhiên mỗi quốc gia lại có những sắc thái riêng. Quá trình CNH ở Anh, Pháp, Đức
đã đi liền với các cuộc chiến tranh xâm lược, cướp bóc thuộc địa. Nhưng quá trình
CNH ở các nước nhỏ hơn ở Châu Âu đã mang tính lệ thuộc hơn vào các nước mạnh.
1.2.2. Mô hình công nghiệp hóa theo hướng thay thế nhập khẩu
Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu có thể nói là chiến lược của các
nước đang phát triển, ra đời trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II trong một bối
cảnh quốc tế đặc biệt. Hệ thống thuộc địa tan rã, các quốc gia đang phát triển lần lượt
giành độc lập về chính trị, còn về kinh tế họ vẫn bị lệ thuộc vào các chính quốc. Họ
phải nhập khẩu từ các chính quốc hầu hết các mặt hàng công nghiệp, thậm chí cả
lương thực nguyên nhiên liệu. Sự đối đầu giữa hai hệ thống kinh tế xã hội lúc đó càng
găy gắt, nguy cơ các cuộc chiến tranh luôn rình rập do vậy các nước đang phát triển
càng có nhu cầu xây dựng cho mình một nền kinh tế có khả năng phòng ngừa được
chiến tranh, ít lệ thuộc vào bên ngoài. Mặt khác, các nước phương Tây tuy buộc phải
trao trả quyền độc lập cho các nước đang phát triển nhưng họ chưa từ bỏ ý đồ thực dân
đối với các nước đó, không chịu chuyển nhượng công nghệ, không chịu mở cửa thị
trường cho các nước đang phát triển, thực thi chính sách duy trì các nước đang phát
triển trong vòng lạc hậu. Trong bối cảnh quốc tế trên đây, mô hình công nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu ra đời như một tất yếu lịch sử. Các nước đang phát triển không thể
lựa chọn mô hình công nghiệp hóa theo hướng hướng ngoại được vì không có quốc gia
chịu mở cửa cho họ hướng vào.

5
1.2.3. Mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (cuối thập kỷ 70)
Chiến lược này ra đời trong điều kiện quốc tế đã cso những biến đổi sâu sắc.
Cuộc đấu tranh giải phòng dân tộc của các nước kém phát triển đã làm tan rã toàn hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Các nước đế quốc này không thể chiếm đoạt
các nguồn tài nguyên, bóc lột sức lao động, chia nhau thị trường như trước mà các
nước này không thể tồn tại được nếu không cung cấp các điều kiện trên. Do vậy các
nước phát triển thực sự muốn tìm kiếm những hình thức mới cho mối quan hệ với các
nước đang phát triển. Mặt khác các nước đang phát triển đang gặp bế tắc trên con
đường thực hiện công nghiệp hóa theo hướng thay thế nhập khẩu, có nhu cầu tìm kiếm
1 mô hình công nghiệp hóa thích hợp. Do đó chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu ra đời.
Điểm mấu chốt của chiến lược công nghiệp hóa theo hướng nhập khẩu là phải
có các quốc gia đồng ý mở cửa thị trường, nhập khẩu hàng hoá của các nước kém phát
triển và các nước kém phát triển phải đổi mới đủ mức tiếp nhận được vốn và công
nghệ mới, sản xuất ra được các hàng hoá đủ tiêu chuẩn tiêu thụ được trên thị trường
các nước phát triển. Như vậy sự thay đổi chiến lược của các nước phát triển tạo điều
kiện cho các nước kém phát triển thay đổi chiến lược theo. Song do điều kiện chiến
tranh lạnh và sự đối đầu giữa các siêu cường rất gay gắt, các nước phát triển lúc đó chỉ
thay đổi chiến lược đối với một số nước kém phát triển, nổi bật là một số quốc gia và
lãnh thổ Châu á như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo. Các nước này đã thực
hiện CNH với các nội dung chủ yếu sau:
+ Miễn hoàn toàn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu cho các ngành phục vụ
xuất khẩu, giảm dần thuế nhập khẩu.
+ Thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô có lợi cho xuất khẩu.
+ Khuyến khích thu hút các nguồn vốn nước ngoài phục vụ cho xuất khẩu.
+ Thành lập các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế các khu mậu dịch tự do.
Mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu với những nội dung trên đây đã
được áp dụng ở nhiều nước nhưng chỉ thu được thành tựu nổi bật ở một số nước Đông
á như Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapo. Tuy vậy bài học rút ra từ thực tế áp dụng mô
hình này lại vô cùng quý giá. Đó là một nước kém phát triển có thể rút ngắn được quá
trình công nghiệp hóa đất nước bằng cách tận dụng tối đa nguồn lực bên ngoài trước
hết là thị trường, vốn công nghệ. Để thực hiện được định hướng xuất khẩu, phải tiến
6
hành cải cách trong nước theo hướng áp dụng cơ chế thị trường, giảm dần các hàng
rào thuế quan và phi quan thuế.
Mặc dù mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đã thể hiện sức sống hấp
dẫn của nó trong đời sống thực tế nhưng nó cũng đã bộc lộ những hạn chế rõ rệt. Mô
hình này đã quá chú trọng đến định hướng xuất khẩu, tập trung mọi ưu đãi cho việc
phát triển những ngành xuất khẩu, tìm kiếm việc mở rộng thị trường ngoài nước. Đến
một thời điểm nào đó, những chấn động của thị trường bên ngoài sẽ tác đọng ngay lập
tức đến các quốc gia này. Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu làm cho
các cơ chế hành chính, kinh tế, xã hội vốn có đổi mới không kịp, tạo ra khe hở thể chế
để các chứng bệnh xã hội phát triển như bệnh tham nhũng, trốn lại thuế. ở không ít
nước đã trở thành quốc nạn. Ngoài ra các định chế thương mại tài chính tiền tệ đang
trong quá trình hình thành bất cập với sự phát triển của các quan hệ thương mại đã mở
rộng. Trong điều kiện đó các quốc gia kém phát triển đi theo mô hình CNH hướng về
xuất khẩu sẽ gặp rất nhiều khó khăn trên thương trường trước các địch thủ hùng mạnh
mà lại thiếu các khuôn khổ pháp lý cần thiết để bảo vệ họ.
Do có những hạn chế trên đây, một số người đã cho rằng mô hình công nghiệp
hóa hướng về xuất khẩu hết thời. Cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính ở các nước Đông
Nam á đã diễn ra gay gắt đã làm cho một số người tăng thêm sự mất niềm tin vào mô
hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Nếu đặt mô hình công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu trong bối cảnh toàn cầu hoá đang tiến triển mạnh mẽ hiện nay thì có thể thấy
rằng mô hình đó không thích hợp. Song định hướng xuất khẩu – nội dung chủ yếu của
mo hình này không thể xem là lỗi thời, nó sẽ thay đổi trong thời gian tới thích ứng với
tình hình quốc tế mới.
1.2.4. Mô hình công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế
Từ những năm 90 đến nay, tình hình thế giới đã thay đổi theo những xu hướng
mới. Hoà bình, phát triển đang trở thành xu thế chính, một nền công nghệ mới có tính
toàn cầu đang hình thành rõ rệt và trở thành cơ sở cho xu hướng toàn cầu hóa phát
triển. Với xu thế toàn cầu tiến triển như hiện nay thì trong vài thập kỷ tới, một thị
trường toàn cầu không biên giới có thể sẽ xuất hiện. Tình hình mới này cho phép các
quốc gia thực hiện công nghiệp hoá không chỉ hướng về xuất khẩu mà là theo hướng
hội nhập khu vực và toàn cầu. Mô hình công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế
đang xuất hiện thay thế cho mô hình công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu. Cho đến
7
nay, mô hình này mới đang hình thành, chưa quốc gia nào đã hoàn thành công nghiệp
hoá theo mô hình này. Song căn cứ vào điều kiện quốc tế đang thay đổi hiện nay, ta có
thể nêu ra những đặc trưng sau đây của mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập
quốc tế.
Mô hình công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế đang hình thành thích
hợp với xu thế phát triển của thế giới trogn thế kỷ XXI. Hiện số nước thực hiện mô
hình này đang ngày càng tăng lên nổi bật là các nước Đông Nam á. Năm 1997 cuộc
khủng hoảng tiền tệ, tài chính đã bùng nổ ở Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philippin
và lan sang cả Hàn Quốc gân chấn động nhiều nước khác. Một số người đã cho rằng
mô hình công nghiệp hóa của các quốc gia ASEAN đã bộ lộ nhiều bệnh hoạn và hết
thời hạn. Đúng là mô hình công nghiệp hóa của các quốc gia ASEAN có những vấn đề
của nó như: cơ chế thị trường không hoàn thiện, Nhà nước đã can thiệp quá mức, cứng
nhắc vào hoạt động của thị trường đặc biệt là thực thi chính sách cố định tỷ giá...
Song mô hình công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế không vì thế mà
hết tiêu dùng. Ngược lại chính cuộc khủng hoảng này đã hiệu chỉnh được những sai
lạc trong chính sách của các quốc gia thực thi mô hình này.

8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những vấn đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo
hướng hội nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay
Vấn đề trước hết: Cần được trao đỏi là một nước kém phát triển như nước ta có
thể tham gia hội nhập quốc tế ngay hay cần có thời gian phát triển nội lực đến một
mức độ nhất định nào đó mới có thể tham gia hội nhập quốc tế được. Một số người
cho rằng các nước kém phát triển không thể tham gia hội nhập quốc tế ngay được lý
do là các nước này yếu kém về mọi mặt, không có các ngành kinh tế để tham gia hội
nhập, nếu tham gia hội nhập trong tình trạng yếu kém lạc hậu thì phải gánh chịu những
tổn thất. Trong điều kiện đó, các quốc gia kém phát triển cần có thời gian phát triển
nội lực, tạo ra những ngành kinh tế đủ sức đua tranh với quốc tế, đồng thời phải xây
dựng cho mình một nền kinh tế độc lập, tự chủ (nghĩa là nền kinh tế phải có những
ngành chủ chót như cơ khí, luyện kim, hoá chất....) mới có th tham gia hội nhập được.
Với cách lập luận này, con đường công nghiệp hóa của các nước kém phát triển dứt
khoát phải trải qua mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa thay thế nhập khẩu. Nhưng
nếu những nước kém phát triển áp dụng mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo
hướng thay thế nhập khẩu trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay thì hậu quả sẽ tai hại
hơn rất nhiều. Trước mắt là các quốc gia này bị cô lập khỏi một thế giới gồm những
quốc gia liên minh chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Các quốc gia này đã tự
tách mình ra khỏi thế giới còn lại, tự hạn chế mình trong việc sử dụng những ưu thế
của thế giới, tự ép mình vào con đường tự lực cánh sinh công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Trong điều kiện hiện nay một quốc gia không tham gia vào các định chế tài chính
quốc tế, không cam kết thực hiện những nguyên tắc của tổ chức đó khó có thể vay vốn
để công nghiệp hóa – hiện đại hóa, về mặt thương mại còn khó hơn nếu phần lớn các
quốc gia cam kết với nhau thực hiện các quan hệ thương mại theo nguyên tắc tự do
hoá thì một quốc gia kém phát triển đứng ngoài những cam kết đó sẽ khó có thể len
chân vào thị trường tự do đó được. Nói tóm lại nếu các quốc gia kém phát triển áp
dụng mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng thay thế nhập khẩu, rồi mới
tham gia hội nhập quốc tế thì trong điều kiện hiện nay các quốc gia đó sẽ bị cô lập.
Tình trạng cô lập này sẽ dẫn đến sự tụt hậu xa hơn và sự tụt hậu trong tình trạng cô lập
sẽ là nguy cơ tai hại nhất.
9
Vấn đề thứ hai: Là liệu có thể được một nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô
hình CNH theo hướng hội nhập quốc tế hay không? Ta hay xem nền kinh tế Mỹ là nền
kinh tế hàng đầu thế giới không thể là một nền kinh tế không có độc lập tự chủ. Năm
1995 tổng GDP của Mỹ là 7233 tỷ USD, xuất khẩu 583 tỷ USD, nhập khẩu 770,9 đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài 96 tỷ USD và nhận vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài là
60tỷ (Năm 1996 là 85 tỷ USD), nợ nước ngoài của Mỹ là 681 tỷ USD – là con nợ lớn
nhất thế giới, tài sản người nước ngoài của Mỹ là 426 tỷ USD đã có thời người Mỹ lo
ngại người Nhật mua cả nước Mỹ.
Những số liệu trên đây cho thấy mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Mỹ vào bên
ngoài cả về thương mại và nguồn vốn ấy thế mà nó vẫn là một nền kinh tế không
những độc lập tự chủ mà còn có khả năng chi phối nền kinh tế thế giới. Vậy trong điều
kiện ngày nay những tiêu chuẩn gì quy định tính độc lập tự chủ của một nền kinh tế.
Vấn đề thứ ba: Là những thách thức đối với quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa. Mỗi mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đều có những thách thức của nó
song có thể quy lại hai loại thách thức chủ yếu: Những thách thức từ bên ngoài, do các
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính hay xung đột chiến tranh khu vực gây ra, những
thách thức bên trong do các vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường... gây ra.
Vấn đề thứ bốn: Đặt ra đối với nước ta là CNH theo hướng hội nhập quốc tế co
trái với định hướng xã hội chủ nghĩa không? Theo quan niệm của C. Mác, xã hội
CSCN là xã hội phát triển cao hơn, tiến bộ hơn xã hội TBCN về tất cả các phương
diện và đó là một xã hội toàn cầu, “một thế giới đại đồng” (C. Mác). Đảng cộng sản
Việt Nam xem xét xã hội đó là xã hội “dân giầu, nước mạnh, công bằng, văn minh”.
Rõ ràng đó là mục tiêu tương lai khá xa, người Trung Quốc cho rằng phải một thế kỷ
nữa mới có xã hội CSCN, nước ta xem đó như là một định hướng tiến tới. Các mô
hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa hướng nội trước đây chủ yếu tận dụng những tiềm
năng trong nước và trong nhiều trường hợp dã dối đầu với những lực lượng bên ngoài,
do vậy khả năng rút ngắn quảng đường vươn tới xã hội tương lại trên đây chắc chắn là
sẽ bị hạn chế, có thể thất bị, cón mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng
hội nhập quốc tế có khả năng không những tận dụng được những tiềm năng trong
nước, mà cả quốc tế, do vậy có nhiều khả năng hơn trong việc rút ngắn con đường đi
tới xã hội tương lai. Hơn nữa mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội
nhập quốc tế đã không đối đầu với các thế lực này, cùng họi nhập, xây dựng ra những
10
định chế quốc tế có tính khu vực và toàn cầu, tạo dựng ra các nấc thang quá đ tiến tới
một xã hội toàn cầu, “một thế giới đại đồng như C. Mác đã dự đoán. Do vậy mô hình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập quốc tế hoàn toàn không trái gì
với định hướng xã hội chủ nghĩa, mà thực sự là một mô hình thích hợp nhất với định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Sự lựa chọn mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập
quốc tế ở nước ta
Từ sự phân tích trên dây cho thấy rõ ràng nước ta không thể có một sự lựa
chọn nào khác hơn là lựa chọn mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội
nhập quốc tế. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có những bước đi nhằm
chuyển hướng nền kinh tế nước ta.
Năm 1986, Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra một bước chuyển đổi
quan trọng lần đầu tiên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được công nhận ở nước
ta. Ba chương trình kinh tế trọng điểm được xác định đó là chương trình lượng thực,
thực phẩm, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất
khẩu. Có thể xem đây là những bước chuyển đổi dầu tiên thoát khỏi mô hình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng thay thế nhập khẩu kiểu Xô Viết. Với chính sách
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nước ta chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch sang
nền kinh tế hàng hoá, từ một nền kinh tế do kinh tế quốc doanh thống trị sang nền kinh
tế nhiều thành phần trong đó kinh tế quốc doanh chỉ giữ vai trò chủ đạo chứ không
phải thống trị. Ba chương trình kinh tế trên đã dần dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nước
ta từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang chú trọng phát triển các ngành Nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ và hướng về xuất khẩu. Tư tưởng hội nhập quốc tế lúc này
chưa xuất hiện.
Tháng 12 năm 1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngaòi – mở
ra một thời kỳ mới cho sự phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoài của Việt Nam. Năm
1993, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Ngân hàng thế giới và quỹ tiền tệ quốc
tế (ìM) tháng 7 năm 1995, Việt Nam chính thức tham gia ASEAN và cam kết hoàn
thành thực hiện các nghĩa vụ của AFTA đến năm 2006. Việt Nam đã xin gia nhập
APEC và được chấp nhận chính thức vào năm 1998, Việt Nam và đã xin gia nhập tổ
chức thương mại thế giớí (WTO) và đã có vòng đàm phán xin gia nhập vào tháng
7/1998 Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định tư tưởng hội nhập
11
khu vực và hội nhập toàn cầu. Với những bước đi và quyết định quan tọng trên đây
Việt Nam đã cam kết thực hiện quá trình hội nhập quốc tế. Do vậy, mô hình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam đã được lựa chọn ở nước ta là mô hình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập quốc tế chứ không thể là mô hình nào
khác. Vấn đề đặt ra hiện nay không phải là vấn đề lựa chọn mô hình nữa, mà là việc
thực hiện mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập quốc tế như
thế nào.
2.3. Những thuận lợi và khó khăn
2.3.1. Những thuận lợi
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập
quốc tế, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực chính sách đối
ngoại nói chung cũng như trong chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng. Nổi bật là ta đã
thựchiện chính sách “làm bạn với tất cả các nước”, “đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ kinh tế đối ngoại, đã tham gia vào các tổ chức ASEAN, APEC, đàm phán để
gia nhập WTO, có các quan hệ hợp tác tốt với WB, IMF, ADB và EU”. Việt Nam
cũng có các quan hệ hợp tác hữu nghị tốt với Nhật Bản, cải thiện quan hệ hữu nghị tốt
hơn với Trung Quốc bình thường hoá quan hệ với Mx và đang đàm phán để ký hiệp
định thương mại ... đồng thời với những thay đổi chung trên đây, nước ta cũng đã thực
hiện sự đổi mới trong các chính sách thương mại, đầu tư ... nhằm tháo gỡ cởi bỏ bớt
những rào cản, những hạn chế đối với các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta như:
Ban hành luật đầu tư nước ngoài, ban hành các chính sách bãi bỏ, giảm thuế xuất nhập
khẩu, cho phép các nhà kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế được trực tiếp tham
gia xuất nhập khẩu, thành lập các khu chế xuất, các khu công nghiệp...
Những đổi mới quan trọng trên dây đã đưa đến những thành tựu nổi bật. Kim
ngạch xuất khẩu tăng cao từ năm 1991 đến 1997 đạt bình quân trên 20%, tốc độ thu
hút FDI đạt bình quân trên 50%, hiện nay Việt Nam đang trở thành nước xuất khẩu
gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Chính những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế
đối ngoại đã góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
Trong hơn 10 năm qua, mức tăng GDP bình quân hơn 8%/năm, trong đó tất cả
các khu vực sản xuất Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đều tăng trưởng cao, nạn lạm
phát được kiềm chế. Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế đời sống xã hội có nhiều chuyển
biến tích cực, mức sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhiều công ăn việc làm
12
mới được tạo ra. Tình hình an ninh, chính trị ổn định, niềm tin của nhân dân vào Đảng
và Nhà nước ngày càng được khôi phục và củng cố.
Những thành tựu trên cho thấy công cuộc công nghiệp hoá theo hướng hội nhập
quốc tế đã được thực tiễn kiểm chứng là đúng đắn. Công cuộc đổi mới là hợp lòng
dân, là đúng xu thế phát triển khách quan của thời đại. Những thành tựu trên cũng
khẳng định những thuận lợi căn bản của nước ta trong quá trình từng bước hội nhập
quốc tế và khu vực.
2.3.2. Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên. Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn trong tiến
trình hội nhập quốc tế.
Khó khăn lớn nhất của Việt Nam khi bước vào hội nhập là nền kinh tế đang ở
trình độ phát triển thấp, chênh lệch lớn không chỉ so với các nước công nghiệp mà
ngay cả với các nước có trình độ phát triển chưa cao trong khu vực.
Tính cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu, các cơ chế của một nền kinh tế thị
trường còn đang trong giai đoạn hình thành, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh và
khả năng cạnh tranh của các ngành sản xuất và dịch vụ còn yếu.
Cơ cấu và phương thức phân bổ nguồn lực trong các ngành kinh tế có xu hướng
khuyến khích, tập trung vào các ngành được bảo hộ cao.
Một trong những lực cản lớn nhất cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại
hóa theo hướng hội nhập quốc tế của nước ta chính là sự phát triển của mô hình cũ.
Sức ỳ này thể hiện trước hết ở một số chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách thuế quan
của nước ta tuy đã có đổi mới nhiều, nhưng cho đến nay vẫn là một chính sách bảo hộ
khá cao sản xuất trong nước với các hàng rào đa dạng như mức thuế nhập khẩu còn
cao, bình quân khoảng 15-20%, các biện pháp phi thuế quan còn áp dụng nhêìu như:
Các bệnh cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu, giấy phép xuất nhập khẩu, chính sách tỷ
giá hối đoái về cơ bản chưa do thị trường quy định mà vẫn do Nhà nước áp đặt với
thiên hướng nâng cao giá đồng nội tệ. Chính sách thuế quan cũng với chính sách tỷ giá
trên thực tế đã tạo ra một môi trường duy trì khuynh hướng thay thế nhập khẩu, tạo ra
một sức ỳ lớn cho nền kinh tế nước ta.
Mặt khác các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp Nhà nước như không
phải thuê đặt mặt bằng kinh doanh, được ưu tiên vay vốn Ngân hàng, thua lỗ được Nhà

13
nước bảo trợ.... cũng khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo hướng
thay thế nhập khẩu là có lợi nhất, ít phiền toái nhất.
Những điều trình bày trên đây cho thấy tuy Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn
mô hình CNH theo hướng hội nhập quốc tế nhưng những khó khăn đặt ra vẫn còn rất
nhiều vấn đề cấp bách hiện nay là khắc phục những sức ỳ, khó khăn trên và chuyển
mạnh hơn sang mô hình CNH theo hướng hội nhập quốc tế. Nếu để sức ỳ của mô hình
cũ tiếp tục tác động kéo dài thì nền kinh tế nước ta chắc chắn sẽ phải chịu những tổn
hại không đáng ra phải nhập khống, đồng thời bỏ qua hoặc đầu tư không thoả đáng
vào những lĩnh vực mà nước ta có nhiều lợi thế so sánh, có thể có hiệu quả cao, có thể
tham gia giành thắng lợi thị trường quốc tế. Mặt khác các hàng rào thương mại hiện
nay của nước ta đang bỏ hộ sự tồn tại của các cơ sở sản xuất lạc hậu, làm ăn yếu kém,
do vậy sẽ đẩy nền kinh tế của nước ta tiếp tục tụt hậu xa hơn với các quốc gia trong
khu vực.
2.4. Những giải pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thành công mô hình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội nhập quốc tế
2.4.1. Tiếp tục đổi mới thể chế theo hướng hội nhập quốc tế
Trong hơn 10 năm qua kể từ năm 1986, nước ta đã đổi mới các thể chế hành
chính, kinh tế, xã hội theo hướng kinh tế thị trường mở cửa và đã mang lại những tác
động tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Song phải thừa nhận là
đang còn tồn đọng nhiều vấn đề, thẻ chế của nước ta tuy đã có tình thị trường nhưng
trên nhiều phương diện vẫn chưa thích hợp, thậm chí còn mâu thuẫn với xu hướng hội
nhập quốc tế để hội nhập quốc tế có kết quả, cần phải đổi mới thể chế theo các hướng
sau đây:
- Đổi mới thể chế thuế quan, hải quan, xuất nhập cảnh theo hướng bãi bỏ dần
hàng rào phi thuế quan, giảm dần thuế nhập khẩu, bãi bỏ thuế xuất khẩu (trừ một số ít
sản phẩm).
- Đổi mới thể chế đầu tư theo hướng thống nhất luật đầu tư trong nước và nước
ngoài, tạo ra một moi trường đầu tư thống nhất cho mọi chủ đầu tư, khuyến khích
người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cũng như chủ đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài, đầu tư vào những lĩnh vực xuất khẩu hướng ngoại.
- Đổi mới thể chế doanh nghiệp theo hướng khuyến khích hình thành ra các
Công ty xuyên quốc gia hùng mạnh của Việt Nam, đồng thời phát triển mạnh của Việt
14
Nam đồng thời phát triển mạnh các Công ty vừa và nhỏ, đảm bảo các Công ty thuộc
mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước được kinh doanh bình đẳng trước pháp
luật, trong thị trường nội địa cũng như trong quan hệ với nước ngoài.
- Đổi mới thể chế thương mại trong nước cũng như ngoài những rào cản các
quan hệ thương mại trong nước cũng như ngoài nước, hình thành các thể chế cho phép
các thành phần kinh tế được tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Đổi mới thể chế thị trường, ban hành các quy chế pháp luật cho các thị trường
vốn, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản thị trường lao động, dịch vụ... Những
thể chế trên đây phải được đổi mới thích hợp với những cam kết của các quan chức
quốc tế mà nước ta đã tham gia.
Một vấn đề có tính chất bao trùm lên toàn bộ quá trình đổi mới thể chế là liệu
nước ta có thực hiện chính sách bảo hộ thị trường trong nước không? Như đã phân tích
ở trên, nếu thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch kéo dài nghĩa là dung dưỡng tình
trạng lạc hậu và trì trệ thì các ngành công nghiệp trên lại khó có thể vươn ra bên ngoài,
hướng vào hội nhập quốc tế được. Do vậy chính sách bảo hộ đúng đắn ở đây phải là
một chính sách bảo hộ có điều kiện có lựa chọn, có thời hạn nghĩa là một chính sách
bảo hộ cỉ dành cho một số ngành công nghiệp có lựa chọn, những ngành sẽ là mũi
nhọn xuất khẩu chủ lực, phát huy tốt nhất những lợi thế của đất nước với những điều
kiện chặt chẽ về thời gian bảo hộ và mức độ bảo hộ giảm dần trong thời gian đó.
Chính sách bảo hộ mậu dịch như vậy về thực chất là một chính sách tiến tới không bảo
hộ mậu dịch, là một chính sách ép buộc các ngành công nghiệp của đất nước phải
nhanh chóng đối diện với thị trường thế giới và tham gia hội nhập quốc tế.
2.4.2. Thực hiện đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
theo hướng hội nhập quốc tế chịu sự tác động của hai yếu tố nhà nước và thị trường.
Một ngành kinh tế nào đó ra đời trước hết phải tính tới nhu cầu của thị trường trong
nước, khu vực và toàn cầu, trên cơ sở đó mà xem xét tới việc tận dụng các nguồn lực
trong nước. Bắc buộc Nhà nước phải can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành cơ
cấu kinh tế – thực tế cho thấy đó là quan điểm sai lầm. Nhưng để mặc cho thị trường
tự do tác động tới sự ra đời của cơ cấu kinh tế cũng là cách xem xét không thực tế.
Vấn đề ở đây là thị trường, đây là vấn đề thuộc về nghệ thuật quản lý điều hành của
các Chính phủ trong các điều kiện cụ thể. Nếu Nhà nước muốn rút ngắn con đường
15
phát triển, muốn nhanh chóng xây dựng được những ngành công nghiệp hiện đại thì
Nhà nước phải tạo ra được một môi trường cần thiết để có thể thu hút được những
ngành công nghiệp mong muốn đó từ bên ngoài vào. Căn cứ vào môi trường đầu tư đã
hình thành, các nhà đầu tư sẽ phân bố các ngành công nghiệp theo tiếng gọi của thị
trường.
Như vậy chức năng của Nhà nước chủ yếu là tạo ra một môi trường đầu tư
thuận lợi theo một số lượng có lựa chọn, đồng thời tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế xã hội, còn các ngành sản xuất, kinh doanh chủ yếu sẽ do các doanh nghiệp lựa
chọn, xác định theo tín hiệu của thị trường, Nhà nước chỉ tham gia trực tiếp vào các
lĩnh vực kinh doanh thiết yếu cho xã hội, mà các doanh nghiệp không muốn kinh
doanh, hoặc không thể kinh doanh.
Cơ cấu kinh tế trong mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng hội
nhập quốc tế đã không còn là một cơ cấu kinh tế quốc gia như trong mô hình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng thay thế nhập khẩu hay hướng về xuất khẩu mà
là một cơ cấu quốc tế thực sự. Những ngành kinh tế tuy hình thành phát triển ở một
nước nhưng đã phục vụ cho thị trường ở nhiều nước. Với cách hiểu như vậy thì cơ cấu
kinh tế này không nhất thiết phải bắt đầu tư những ngành công nghiệp chế biến sử
dụng nhiều lao động mà có thể bắt đầu từ những ngành công nghiệp có hàm lượng vốn
và công nghệ cao, nếu quốc gia đó có chính sách, thể chế thông thoáng hấp dẫn các
nguồn lực từ bên ngoài vào.

CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM
NGỌC THẠCH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM
Vai trò của sinh viên trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch trong quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam bao gồm:
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng: Sinh viên trường Đại học Y Khoa Phạm
Ngọc Thạch đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho ngành y tế. Họ được trang bị kiến thức chuyên sâu và kỹ năng cần thiết để đáp ứng
yêu cầu của hệ thống y tế ngày càng phức tạp và hiện đại hóa.
Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ y tế: Sinh viên thường tham gia vào các dự
án nghiên cứu và ứng dụng công nghệ y tế mới. Điều này giúp nâng cao cấp độ công
16
nghiệp hóa và hiện đại hóa của ngành y tế, đồng thời cung cấp giải pháp và sản phẩm
tiên tiến cho hệ thống y tế quốc gia.
Tham gia vào dự án cộng đồng và y tế công cộng: Sinh viên cũng có thể tham
gia vào các dự án cộng đồng và y tế công cộng, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ y tế
cũng như cảm nhận và đáp ứng nhanh chóng các vấn đề y tế cộng đồng.
Xây dựng và duy trì đối tác trong ngành y tế: Sinh viên có thể đóng vai trò
trong việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ đối tác trong ngành y tế. Điều này có
thể giúp tăng cường sự liên kết giữa trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch và các
tổ chức y tế, đồng thời thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa của ngành này.
Chăm sóc sức khỏe và tư vấn y tế: Sinh viên có thể đóng vai trò quan trọng
trong việc chăm sóc sức khỏe và tư vấn y tế cho cộng đồng. Điều này giúp tăng cường
sự hiểu biết về sức khỏe trong cộng đồng và đóng góp vào việc nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Tóm lại, sinh viên trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch đóng góp vào quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của ngành y tế ở Việt Nam thông qua việc đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng, tham gia nghiên cứu và ứng dụng công nghệ y tế, hỗ
trợ cộng đồng, xây dựng đối tác, và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

KẾT LUẬN
Có thể nói rằng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của chúng ta vẫn còn
rất dài. Trên con đường đó, chúng ta sẽ còn gặp không ít trở ngại và khó khăn. Trước
hết là những khó khăn nằm trong bản thân mô hình công nghiệp hóa mà chúng ta đã
lựa chọn – mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng hội nhập quốc tế: Làm
thế nào để hội nhập mà không hoà tan, làm thế nào để tiếp thu được những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, những tinh hoa văn hoá của thế giới, tránh được tác động tiêu cực
trong quá trình hội nhập. Ngoài ra sự phá hoại của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước, những đợt thiên tai bão lũ hạn hán... cũng gây nên những khó khăn không nhỏ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta.
Tuy nhiên bên cạnh những trở ngại và khó khăn chúng ta cũng có rất nhiều
thuận lợi đó là môi trường chính trị, xã hội ổn định, sự tạo đề của những thành quả đạt
được trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa qua và hơn tất cả đó là sức
mạnh của dân tộc bắt nguồn từ truyền thống 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước
17
thật hào hùng, từ bản tính kiên cường bất khuất, bền bỉ, cần cù sáng tạo của người Việt
Nam. Sức mạnh nội tại ấy khi kết hợp được với sức mạnh của thời đại, dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng sẽ là một trong những nguồn lực cơ bản đưa sự nghiệp cách
mạng của nước ta nói chung và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta
tới đích thành công, thực hiện đổi mới đưa nước ta trở thành một đất nước “dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, vững bước tiến vào thế kỷ XXI.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo (2019), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
và những vấn đề đặt ra với công nghiệp hóa theo hướng hiện đại ở nước ta, Tạp
chí cộng sản.
2. PGS. TS. Đào Duy Quát (2020), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
phải là một nội dung quan trọng trong chủ đề của Báo cáo chính trị, Báo điện tử
Đảng cộng sản Việt Nam.
3. Nguyễn Minh (2018), Những biện pháp thúc đẩy cách mạng công
nghiệp 4.0, Trang báo điện tử Nhân dân.

18

You might also like