You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT


TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI

GVHD: TS.PHÙNG THẾ ANH


SVTH:

Lê Nguyễn Huy Hoàng 21145563


Huỳnh Đăng Khoa 21145172
Nguyễn Văn Hữu Nhân 21145226
Tạ Xuân Lâm 21145636
Hồ Hữu Phát 21145232

- Tp.HCM, tháng 4/2023 -


Danh mục từ viết tắt:

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

Mục lục
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
2.Mục đích nghiên cứu.....................................................................................1
3. Nội dung chính..............................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
Chương 1: Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa........................2
1.1/ Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa................................................2
1.2/ Vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với nền
kinh tế..............................................................................................................3
1.3/ Khái quát lịch sử phát triển của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên thế
giới..................................................................................................................3
Chương 2: Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng cộng sản
Việt Nam thời kì đổi mới.................................................................................4
2.1/ Bối cảnh lịch sử thời kỳ đổi mới..............................................................4
2.2/ Quá trình đổi mới nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.................................................................................6
2.3/Quan điểm và chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.............................................................................................7
2.4/ Thực trạng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay....10
Chương 3/ Sinh viên với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
..........................................................................................................................17
3.1/ Yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sinh viên17
3.2/Thực trạng năng lực sinh viên hiện nay có khả năng đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước........................................................18
3.3/Sinh viên cần cải thiện bản thân để tham gia vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước............................................................................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................19
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế hay kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa là nhiệm vụ rất quan
trọng và cần thiết song song với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Nếu
một đất nước càng nghèo nàn, lạc hậu thì càng dễ bị phụ thuộc vào nước ngoài,
hay nói cách khác là trở thành con nợ, thành thuộc địa của những nước phát
triển mạnh hơn. Để tránh khỏi điều đó, Việt Nam ta đã và đang dốc sức thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Sau khi học môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, chúng tôi phần nào hiểu rõ
hơn về tầm quan trọng của những chính sách , Đường lối của Đảng trong việc
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Với mong muốn chia sẻ những hiểu biết ít ỏi của bản thân, cũng nhưng để mọi
người hiểu rõ hơn về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam ; chúng tôi
quyết định chọn đề tài “ Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới”.

2.Mục đích nghiên cứu

- Về kiến thức: Trình bày đầy đủ các nội dung cơ bản của đường lối công nghiệp
hóa , hiện đại hóa của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.

- Về kĩ năng: Có khả năng làm việc nhóm , sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan đến đường lối công nghiệp hóa ,
hiện đại hóa của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.

- Về thái độ: Tuân thủ đường lối , chủ tương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước. Tích cực học tập, trau dồi bản thân để tham gia, đóng góp vào công
cuộc công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước.

3. Nội dung chính

1
Để người đọc có thể nắm bắt dễ dàng nội dung, bài viết được chia thành 2 phần
bao gồm kiến thức cơ sở ( bao gồm khái niệm, vai trò, lịch sử công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; những cơ sở lý luận và đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của
Đảng trước và sau đổi mới) và kiến thức vận dụng ( vai trò của sinh viên trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ).

NỘI DUNG

Chương 1: Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1.1/ Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1.1.1/Khái niệm công nghiệp hóa

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản và toàn diện hầu hết các hoạt
động sản xuất từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động phổ thông dựa trên sự phát triển của ngành công
nghiệp cơ khí. Ngoài ra, công nghiệp hóa còn được hiểu là quá trình nâng cao tỷ
trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay
một nền kinh tế. Đó là tỉ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, về năng suất lao
động,...

Có thể nói quá trình công nghiệp hóa là quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội ở
một cộng đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội
tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần
của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế - xã hội này đi đôi với tiến bộ
công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy
mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc
sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên.

1.1.2/Khái niệm hiện đại hóa

Hiện đại hóa có thể được hiểu là việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại, những
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến ứng dụng vào quá trình sản xuất và
quản lý kinh tế xã hội. Đó là việc từ sử dụng sức lao động thủ công của con
2
người sang sử dụng sức lao động phổ thông được ứng dụng những trang thiết bị
công nghệ hiện đại.

Đây là thuật ngữ tổng quan với mục đích thể hiện tiến trình cải biến khi khoa
học công nghệ được con người phát triển và sử dụng thành thục. Từ đó, xã hội
được phát triển với tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử.

1.1.3/ Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Với điều kiện của Việt Nam, Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

1.2/ Vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với
nền kinh tế

- Giúp đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển lực lượng sản xuất và
nâng cao năng xuất lao động xã hội, đồng thời giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cũng như nâng cao chất lượng đời sống nhân dân.

- Tạo ra lực lượng sản xuất mới, tạo tiền đề cho việc củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa và củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa công nhân, nông dân
và tri thức.

- Tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, kết hợp
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, củng cố, tăng cường quốc phòng và an
ninh quốc gia.

1.3/ Khái quát lịch sử phát triển của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên thế
giới

3
Đến nay, lịch sử nhân loại đã chứng kiến 4 cuộc cách mạng công nghiệp, cũng
là các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật nói chung. Cuộc thứ nhất, vào cuối
thế kỷ XVIII, khai sinh ra nền công nghiệp cơ khí, tạo ra dây chuyền sản xuất
hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường… Cuộc thứ hai diễn ra vào cuối
thế kỷ XIX, đưa đến sự ra đời của nền công nghiệp và xã hội điện khí hóa; tạo
tiền đề để chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh lên độc quyền đế quốc.
Cuộc thứ ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, mở ra thời đại điện tử hóa, tin
học hóa. Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt chuyển đổi số
của toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con người. Mỗi cuộc cách mạng
tạo ra một trình độ công nghệ ngày càng hiện đại cho quá trình công nghiệp hóa
lâu dài của nhân loại.

Chương 2: Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng cộng sản Việt
Nam thời kì đổi mới

2.1/ Bối cảnh lịch sử thời kỳ đổi mới

2.1.1/ Bối cảnh quốc tế

Quan điểm toàn diện coi bối cảnh quốc tế là một mặt, một mối liên hệ quan
trọng không thể thiếu, có tác động lớn đến sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta.

Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung cũng như sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nói riêng vẫn tiếp tục phát triển trong
tình trạng kinh tế thế giới diễn biến nhanh chóng và chứa đựng những yếu tố
khó lường.

Thứ nhất, chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước đông âu do sup khiến
cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào nhưng điều đó không
làm thay đổi tính chất thời đại: loài người vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn còn

4
tồn tại và phát triển có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức có nhiều nét mới.
Đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức.

Thứ hai, nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi.

Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ vẫn tiếp tục phát triển với trình độ
ngày càng cao hơn, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá kinh tế và đời sống xã hội.

Thứ tư, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu( bảo vệ
môi trường, bùng nổ dân số, bệnh tật hiểm nghèo, phân hoá giầu nghèo)

Bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta cũng đang đứng trước thách thức với bốn
nguy cơ chính : nguy cơ về chệch hướng XHCN, nguy cơ về nạn tham nhũng và
tệ nạn quan liêu, nguy cơ về diễn biến hoà bình của thế lực thù định. Các nguy
cơ trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nguy hiểm không thể
xem nhẹ nguy cơ nào không thể một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết, mà
cần có sự hợp tác đa phương giữa các quốc gia.

Thứ năm, khu vực châu á thái bình dương đang có những bước phát triển đầy
năng động. Đồng thời khu vực này cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây bất
ổn định. Bên cạnh đó hiện nay trong quan hệ quốc tế nổi bật xu thế hoà bình, ổn
định hợp tác phát triển, đấu tranh vì hoà bình

2.1.2/ Bối cảnh trong nước

Trước những thay đổi lớn của thế đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước ta (cả tích
cực và tiêu cực ). Đảng ta xác định thời cơ và những thách thức to lớn đang đặt
ra cho đất nước ta. Thuận lợi đó là những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo
ra thế và lực để chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn. Mặt khác, trong môi
trường hoà bình và ổn định của khu vực, sự phát triển năng động của vùng Châu
Á - Thái Bình Dương, đặc biệt xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới trong hoà
5
bình ổn định và hợp tác đang trở thành một xu thế chung, chủ yếu của thời đại
thì quan hệ của nước ta đối với nước ngoài và khả năng hội nhập cộng đồng thế
giới được mở rộng hơn bao giờ hết.

2.2/ Quá trình đổi mới nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa

Đại hội VI của Đảng: Tại Đại hội VI, sau khi đúc kết những kinh nghiệm của
một số nền kinh tế trên thế giới, chúng ta đã đề ra và thực hiện từng bước việc
đổi mới các chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế và tổng kết các
thử nghiệm trong thực tế. Có thể coi giai đoạn 1986-1990 là giai đoạn "khởi
động" cho một sự phát triển kinh tế mạnh mẽ sau này. Đại hội đã thông qua
đường lối đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.

Đại hội VII của Đảng: Tiếp tục những thành công trong những năm trước,
Đại hội VII đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội nước
ta đến năm 2000. Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7/1994) đã ra Nghị quyết
"Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn
mới". Nghị quyết đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ chế, chính sách cụ thể
thúc đẩy phát triển công nghiệp, đẩy mạnh công tác khoa học công nghệ phục vụ
sản xuất.

Đại hội VIII của Đảng: đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta đến năm 2020: "Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

Đại hội IX của Đảng: đã kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000; Tổng kết những thành tựu, bài học

6
chủ yếu của 15 năm đổi mới; từ đó đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001-2010 với mục tiêu tổng quát là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng
để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại...".

Đại hội X của Đảng: đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
IX của Đảng về phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2001-2005, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 5
năm 2006-2010 với mục tiêu tổng quát là: "Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững
của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ
rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020...".

Đại hội XI của Đảng: thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2001-2010, nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa đất
nước thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển; vị thế của đất nước đã được nâng
lên một tầm cao mới trên trường quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề mới,
quan trọng cho việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước
ta.

2.3/Quan điểm và chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa

Khi bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Dưới đây khái
quát lại những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thời kỳ đổi mới:

7
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi đó,
công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao
động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay. Kinh tế tri thức có vai
trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu
hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cánh
đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời
gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại
hóa phù hợp.

Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức
đã phát triển. Chúng có thể và cần thiết không trải qua các bước phát triển tuần
tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri
thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng vội ý chí. Vì vậy,
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh
tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Khác với công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lực lượng làm công nghiệp hóa chỉ có Nhà nước,
theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi

8
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Ở thời kỳ trước đổi
mới, phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện bằng
cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, còn ở thời kỳ đổi mới được thực
hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong
nền kinh tế, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở
nước ta liiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội
nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
quan hệ kinh tể đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút
công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới… sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế còn
nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều
lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.

Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố
con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố
chủ yếu là: vốn; khoa học và công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế
chính trị và quản lý nhà nước, trong đó con người là yếu tố quyết định. Để phát
triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hỏa
đất nước cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phàn
kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý
cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn
nhân lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về

9
cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến của thể giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Đại hội
XI chỉ rõ: "Phát triển và nâng chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vừng".

Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.

Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm
chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói
chung. Nước ta nên lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và
tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển
khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn
lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết họp với phát triển công nghẹ nội sinh để
nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Xây đựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó,
trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ như vậy mới
có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các
vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều được
hưởng thành quả của phát triển.

10
2.4/ Thực trạng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

2.4.1/ Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hóa

Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của Đảng
(tháng 9/1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành
công nghiệp hóa qua 2 giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền
Bắc và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.

Ở miền Bắc: Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm kinh tế miền Bắc,
trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Đại hội III của Đảng
khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con
đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa XHCN. Tức là khẳng định
tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.

Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng đã xác định công nghiệp hóa
XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội của
Đảng.

Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa XHCN được Đại hội III xác định là xây
dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật của CNXH. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua
nhiều giai đoạn. Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp, Hội nghị Trung ương lần thứ
7 (khóa III) nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:

- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.

- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.

- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng.

11
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công
nghiệp địa phương

Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống
nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện
đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976)
đề ra đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành
một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa
phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất” 1 . Đường lối này nhất trí với
những nhận thức cơ bản về công nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây đồng thời có
sự phát triển thêm.

Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976 – 1981), Đảng rút ra kết luận:
từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi
của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng
đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982)
đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần
làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa
trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn mục tiêu và bước
đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng, trên thực tế
chúng ta không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này, gây hậu quả
nghiêm trọng.

12
2.4.2/Những thành tựu sau gần 40 năm đổi mới

Một là, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả
năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Đến nay cả nước đã có hơn
100 khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả.
Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây
dựng, khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ.
Ngành xây dựng và năng lực xây dựng tăng trưởng nhanh, có bước tiến đáng kể
theo hướng hiện đại. Nhiều công trình quan trọng được xây dựng: sân bay, cảng
biến, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông... theo hướng hiện
đại.

Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
đạt được những kết quả nhất định. Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển
dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả,
gắn với sản xuất, với thị trường. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá
nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế. Cơ
cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển địch theo hướng phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Cơ cấu lao động đã
có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan
trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân 10 năm 2001 -
2010 là 7,26%/năm. Góp phần quan trọng vào công tác xóa đói, giảm nghèo.
Thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng lên đáng kể dẫn đến đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cài thiện rõ rệt.

Sau 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển ấn tượng
với những kết quả nổi bật như quy mô kinh tế Việt Nam tăng gấp 12 lần, thu
nhập bình quân đầu người tăng 8,3 lần, kim ngạch xuất - nhập khẩu
tăng 29,5 lần, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 22 lần, tỷ lệ hộ nghèo
cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn 2,23% năm 2021 tính theo chuẩn mới.
13
Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu và còn thiếu ăn, Việt Nam đã vươn lên thành
trở thành nước có thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người đạt 2.779
USD vào năm 2020 và là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế
giới. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, trong đó có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác
toàn diện với 30 nước; Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng
ở 111 quốc gia, Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của
hơn 140 nước; Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước
đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam, chúng ta đã ký kết và
tham gia 15 hiệp định hiệp định thương mại tự do, trong đó có nhiều hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới.

2.4.3/ Những hạn chế thời kỳ đổi mới

Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta vẫn còn nhiều hạn chế trong đó nổi bật là:

+Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng có thể đạt được, năng suất
lao động thấp hơn nhiều nước khác trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp. Tăng trưởng
kinh tế chủ yếu theo chiều rộng.

Tổng chi cho nghiên cứu và phát triển của Việt Nam cả Nhà nước và tư nhân chỉ
đạt 0,53% GDP năm 2019, thấp hơn nhiều so với bình quân thế giới ở mức
1,7% và một số nước như Thái Lan 0,8%, Ma-lai-xi-a 1,4%, Trung Quốc 2,1%;
năng lực sáng tạo còn thấp, số bằng sáng chế của Việt Nam do các cơ quan uy
tín thế giới cấp chỉ bằng 1/3 Thái Lan, 1/11 Ma-lai-xi-a, 1/3170 Trung Quốc, tỷ
lệ bằng sáng chế/1 triệu dân là 0,21 đứng thứ 91/141 quốc gia; trong 20 năm
(2011-2020), số bằng độc quyền sáng chế cấp cho người Việt Nam chỉ
chiếm 4,62% tổng số bằng được cấp.

14
+ Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp. Quá trình đổi mới công nghệ chậm,
không đồng đều. Phần lớn sản xuất công nghiệp là hoạt động gia công lắp ráp,
chủ yếu sử dụng máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Các ngành, các
lĩnh vực, các sản phẩm có hàm lượng tri thức và công nghệ cao chiếm tỷ lệ thấp,
tốc độ tăng chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế thấp. Hầu hết các ngành kinh tế, kể cả một số ngành đƣợc coi là chủ lực, chưa
xác lập được vị trí trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chưa đạt yêu cầu. Nền
nông nghiệp, về nhiều mặt còn lạc hậu, manh mún. Phát triển nông nghiệp công
nghệ cao, nông nghiệp sạch và các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn,
chất lượng cao chưa được chú trọng đúng mức, còn nhiều hạn chế.

+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và trong từng ngành còn chậm. Đặc biệt,
trong 10 năm gần đây, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chưa đáp ứng nhu cầu
chuyển dịch dân cư và lao động giữa thành thị và nông thôn. Liên kết kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, liên kết kinh tế vùng, liên vùng còn yếu,
hiệu quả 103 thấp; phát triển các khu công nghiệp, chế xuất, kinh tế ven biển và
cửa khẩu dàn trải, trùng lắp, gây lãng phí.

- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng mang lại hiệu quả cao; tài nguyên,
đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát vô cùng
nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát hiện, phát huy.

- Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào
cơ cấu kinh tế hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra còn chưa có sự liên kết chặt chẽ,
hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức.Cơ cấu thành phần kinh tế phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác,
cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của các thành phần kinh tế.Nhìn
chung, mặc dù đã cố sắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn còn
lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

15
Bên cạnh đó, kết quả phân tích cấu trúc liên ngành I-O cho thấy, nền kinh tế
Việt Nam cơ bản là một nền kinh tế thâm dụng vốn và gia công, lắp ráp là
chủ yếu; đóng góp vào tăng trưởng của TFP mặc dù đã tăng từ 34,3% giai đoạn
2011-2015 lên 45,9% giai đoạn 2016-2020 nhưng trong cơ cấu của TFP, vai trò
của khoa học công nghệ chỉ đóng góp ở mức khiêm tốn 28,44%. Những hạn
chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan như:

+ Công tác lãnh đạo, điều hành của Nhà nước trong xử lý mối quan hệ giữa tốc
độ và chất lượng tăng trưởng, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến độ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường còn hạn chế; công tác dự báo chưa tốt.

+ Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt
nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội.

+ Sau 30 năm đổi mới, về cơ bản, vẫn chưa hình thành được các ngành công
nghiệp có tính nền tảng cho kinh tế; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp
và nông thôn phân tán, manh mún ; công nghiệp hỗ trợ còn non yếu. Những
khiếm khuyết trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm bộc lộ sự
phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Việc tạo
nền tảng để nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn
chậm, không đạt được mục tiêu đề ra.

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế:

Những thành tựu đạt được trước hết là do đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Đảng về cơ bản là đúng đắn. Việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện đường
lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan tâm. Sức sản xuất được giải phóng,
các nguồn lực bên trong và bên ngoài được khai thác, phát huy phục vụ quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Sự nỗ lực phấn đấu của doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế và của cả các chủ thể khác ngày càng tăng. Những hạn
chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:

16
- Về khách quan, việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Điểm xuất phát của nước ta khi bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất thấp;
điều kiện và khả năng còn hạn chế, trong khi đó phải đối mặt với nhiều thách
thức trong cạnh tranh kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng gay gắt.

- Về chủ quan:

+ Tư duy lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa bắt kịp với các thay đổi
và chuẩn mực chung của thế giới, vẫn còn biểu hiện chủ quan, duy ý chí ; chưa
hoàn toàn phù hợp với cấu trúc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

+ Việc nghiên cứu, xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch tổng thể về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và của từng ngành, từng lĩnh vực các sản
phẩm chiến lược nói riêng chậm, chất lượng thấp, thiếu tầm nhìn xa, chưa dựa
trên nguyên tắc của kinh tế thị trường, còn nhiều lúng túng, vừa chồng chéo vừa
có khuynh hướng chia cắt, cục bộ. Thể chế, cơ chế, chính sách, chất lượng, năng
lực của bộ máy nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc ban hành một số cơ chế, chính
sách liên quan trực tiếp đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa sát
với thực tiễn. Sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa kiên quyết, hiệu quả chưa cao.

+ Huy động nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn nhiều bất cập.
Đầu tư, nhất là đầu tư công, còn dàn trải, kém hiệu quả, chưa có những giải pháp
mang tính đột phá để giải phóng sức dân, nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ hệ
thống doanh nghiệp, dân doanh cũng như các nguồn lực quan trọng khác ở trong
nước. Mặt khác, chưa thực sự chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động hội nhập
quốc tế, chưa tận dụng tốt cơ hội và hạn chế tác động tiêu cực do hội nhập quốc
tế tạo ra. Chưa thực hiện tốt chủ trương phát huy nội lực, tăng cường tính độc
lập, tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Tình trạng tham
nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm vẫn tồn tại, làm hạn chế kết quả đầu tư phát triển.

17
Chương 3/ Sinh viên với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

3.1/ Yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sinh viên

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá trình dài và gian nan;
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ( chính sách nhà nước, pháp luật,…) nhưng quan
trọng nhất vẫn là yếu tố con người , đặc biệt với sinh viên, thế hệ trẻ năng động,
sáng tạo, được tiếp xúc với các công nghệ mới, có các tư duy mới ,…

Điều trên được chứng minh qua việc rất nhiều các tỉ phú, triệu phú công nghệ
trên thế giới vào đầu thế kỉ 21 nảy ra những ý tưởng, phát minh vĩ đại và bắt đầu
thực hiện nó khi họ còn đang là sinh viên, điển hình như Bill Gates hay Mark
Zugkerberg.

3.2/Thực trạng năng lực sinh viên hiện nay có khả năng đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Có thể nói, đa số sinh viên hiện nay đều được trang bị kiến thức cơ bản về công
nghệ cũng như các kĩ năng mềm cần thiết để phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, việc đáp ứng được nhu cầu của công nghiệp và hiện đại hóa đất nước
không chỉ yêu cầu kiến thức chuyên môn, mà còn yêu cầu sự sáng tạo, đổi mới
và khả năng thích nghi với thay đổi. Do đó, cần khuyến khích sinh viên phát
triển tư duy sáng tạo và kỹ năng giải quyết vấn đề, từ đó có thể đáp ứng được
nhu cầu của công nghiệp và hiện đại hóa đất nước.

3.3/Sinh viên cần cải thiện bản thân để tham gia vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước

Việc tham gia vào quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước là trách
nghiệm và nghĩa vụ của sinh viên nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam nói
chung. Để nâng cao hiệu quả, sinh viên cần liên tục nỗ lực cải thiện, phát triển
bản thân vì lợi ích cá nhân cũng như là lợi ích chung của dân tộc; tuyết đối
không được sa vào các tệ nạn.
18
Học tập chuyên môn: Sinh viên cần chú trọng học tập các kiến thức chuyên
môn, cập nhật những kiến thức mới và phát triển các kỹ năng cần thiết để áp
dụng vào thực tiễn. Điều này giúp sinh viên có được kiến thức chuyên sâu về
các lĩnh vực công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Tìm hiểu thêm về công nghệ: Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước liên
quan chặt chẽ đến công nghệ. Sinh viên cần tìm hiểu thêm về các công nghệ mới
và tiên tiến để có thể áp dụng vào thực tiễn và tạo ra những giá trị mới cho đất
nước.

Phát triển kỹ năng mềm: Kỹ năng mềm cũng rất quan trọng trong việc phát triển
bản thân và đóng góp vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Sinh viên
cần phát triển các kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo, quản lý thời gian,
làm việc nhóm,... để có thể làm việc hiệu quả trong môi trường công nghiệp.

Thực tập và tìm kiếm kinh nghiệm: Sinh viên nên tìm kiếm các cơ hội thực tập
để có thể áp dụng những kiến thức và kỹ năng đã học vào thực tế. Đồng thời,
việc tham gia các hoạt động ngoại khóa, các dự án, các cuộc thi cũng giúp sinh
viên tích lũy kinh nghiệm và phát triển bản thân.

Luôn nỗ lực học hỏi và cập nhật kiến thức: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
đang diễn ra với tốc độ chóng mặt, sinh viên cần luôn nỗ lực học hỏi và cập nhật
kiến thức để không bị lạc hậu và đáp ứng được yêu cầu của công việc trong
tương lai.

KẾT LUẬN

Đất nước ta đã trải qua hơn 100 năm kháng chiến cứu quốc; kết thúc cuộc chiến,
mặc dù đã dành được độc lập nhưng đất nước lại vô cùng nghèo đói, lạc hậu,…
Công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước dưới sự chỉ đạo của Đảng là con đường
tất yếu , duy nhất có thể đưa nước ta từ một nước đang phát triển trở thành một
nước phát triển, thoát khỏi cảnh nghèo đói, đạt được mục tiêu trở thành đất nước
Xã hội Chủ nghĩa.

19
Trong quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tất nhiên không thể
tránh khỏi những sai lầm, thất bại,… nhưng về lâu dài , chúng ta vẫn có những
bước tiến lớn. Bởi đây là 1 vấn đề rất phức tạp nên đòi hỏi phải có sự hợp tác
của Đảng, nhà nước và sự ủng hộ, tham gia đến từ toàn dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tác giả Bùi Tuấn Anh; Công nghiệp hóa hiện đại hóa là gì? Có ý nghĩa, nội
dung và vai trò gì? ; Đường link: https://luatminhkhue.vn/cong-nghiep-hoa-hien-
dai-hoa-la-gi.aspx ; 5/4/2023

Tác giả: Luật sư Tô Thị Phương Dung; Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ
đổi mới và những hạn chế của kinh tế kế hoạch hóa tập trung? ;
https://luatminhkhue.vn/cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-thoi-ky-doi-moi-va-
nhung-han-che-cua-kinh-te-ke-hoach-hoa-tap-trung.aspx ; 1/4/2023

Tạp chí Xây dụng Đảng; Những thành tựu ấn tượng và khó khăn, thách thức của
kinh tế Việt Nam sau 35 năm đổi mới ; https://www.xaydungdang.org.vn/van-
hoa-xa-hoi/nhung-thanh-tuu-an-tuong-va-kho-khan-thach-thuc-cua-kinh-te-viet-
nam-sau-35-nam-doi-moi-17018 ; 2/4/2023

Kết quả, hạn chế, ý nghĩa, nguyên nhân công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ
đổi mới ; https://loigiaihay.com/ket-qua-y-nghia-han-che-va-nguyen-nhan-
c125a20130.html#ixzz7xB4XUX00 ; 30/3/2023

Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới ;
https://loigiaihay.com/muc-tieu-quan-diem-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-
c125a20128.html#ixzz7xB3jr3Ra ; 30/3/2023

Tác giả: Ha Nguyen Duc; Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
ĐảngcộngsảnViệtNam;
https://www.academia.edu/11940440/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_l
%E1%BB%91i_CNH_H%C4%90H_c%E1%BB%A7a_%C4%90%E1%BA

20
%A3ng_C%E1%BB%99ng_S%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam ;
2/4/2023

Cổng thông tin điện tử huyện Phú Riềng; Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức; https://phurieng.binhphuoc.gov.vn/index.php?
language=vi&nv=news&op=chinh-tri/Cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-gan-voi-
phat-trien-kinh-te-tri-thuc-theo-tinh-than-Nghi-quyet-Dai-hoi-XII-cua-Dang-
543.html 20/4/2023

Cổng thông tin điện tử học viện chính trị khu vực 2;
https://hcma2.hcma.vn/tintuc/Pages/tin-tuc-su-kien.aspx?
ItemID=11413&CateID=0 19/4/2023

21

You might also like