You are on page 1of 10

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
………….o0o…………

TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Chủ đề: Trình bày những thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Phân
tích nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi của công cuộc đổi mới (từ
năm 1986 đến nay). Từ đó, rút ra bài học cuộc sống cho bản thân.

Họ và tên: Nguyễn Minh Long


Lớp: KN002
MSSV: 31211026233
Mã lớp học phần: 22C1HIS51002628
Tên học phần: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
GDHD: GVCC. Phạm Thăng

TP Hồ Chí Minh, ngày 9 tháng 10 năm 2022


MỤC LỤC:

PHẦN A: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................2


PHẦN B: KIẾN THỨC CƠ BẢN....................................................................................................3
CHƯƠNG 1: SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY..............................3
1. Những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới...............................................................................3
1.1. Thành tựu kinh tế..........................................................................................................3
1.2. Thành tựu về văn hóa – xã hội......................................................................................3
1.3. Thành tựu về đối ngoại.................................................................................................3
2. Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng Cộng sản.................................................................4
3. Ý nghĩa lịch sự về công cuộc đổi mới.....................................................................................5
CHƯƠNG 2: NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA ĐẾN THẮNG LỢI.................................5
1. Nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi của công cuộc đổi mới................................................5
2. Bài học rút ra...........................................................................................................................7
3. Liên hệ bản thân......................................................................................................................8
PHẦN C: KẾT LUẬN......................................................................................................................8
TRÍCH DẪN NGUỒN.......................................................................................................................9

1
A. LỜI NÓI ĐẦU:

“Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Việt Nam được coi là một đất nước có chiều dài lịch sử biến
động dài nhất Thế giới. Bị Trung Quốc đô hộ hơn 1000 năm, Anh, Pháp, Mỹ xâm lược hơn 100 năm,
sau khi thống nhất vẫn bị nước láng giềng Campuchia xâm lược... Nhưng thật may mắn, khi chúng
ta đã thoát khỏi sự đàn áp đó, mở ra cho chúng ta một trang lịch sử mới. Tuy nhiên, đâu phải sau
chiến tranh thì mọi thứ sẽ “lành lặn” ngay lập tức được. Những năm sau khi kết thúc chiến tranh,
giành được độc lập, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế; văn hóa, xã hội chậm phát triển.
Đòi hỏi ta phải đưa ra giải pháp khắc phục tình trạng này càng sớm càng tốt. Ngay tình hình đó,
chúng ta chỉ có thể tin tưởng vào Đảng, vào Nhà nước. Nhưng muốn thực hiện triệt để và toàn diện
nhất, thì toàn thể nhân dân và dân tộc phải luôn đồng lòng chung sức, đoàn kết sức mạnh để “bức
phá”, thoát khỏi vòng vây thách thức của đất nước. Ngay lúc này, vấn đề quan trọng là khôi phục
kinh tế và xây dựng lại đất nước, và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.”

“Tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập – là tổ chức tiên phong lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được trong bảy thập kỷ qua đều bắt
đầu ừ việc Đảng nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tiễn cách mạng, vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn đất
nước và xu thế thời đại. Thế nên, năm 1986, Việt Nam bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước và tiến
hành như một cuộc cách mạng. Nhờ đó, mà nước ta đã gặt hái nhiều thành công trong giai đoạn đó.
Bài tiểu luận này, sẽ đem đến cho mọi người thấy được những thành tựu, ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm của Đảng đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới.”

Trước khi đi vào bài luận, em xin chân thành gửi lời cảm ơn thầy Thăng đã giúp đỡ em trong việc
tìm hiểu kiến thức và hoàn thành đề tài này. Trong bài viết, có nhiều lỗi sai sót, em rất mong được
thầy chỉ bảo sửa sai và rút kinh nghiệm cho bài viết em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn!

2
B. KIẾN THỨC CƠ BẢN:

CHƯƠNG 1: SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY:

Trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển đất nước (từ năm 1986 đến nay), công cuộc đổi mới
do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Nó được coi là một công trình vĩ đại, đóng
góp phần to lớn cho Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
1. Những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới: [1]
1.1. Thành tựu về kinh tế:
Nền kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế đã tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định;
lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm
nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới.
Đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình – khá. Mặc dù vào cuối nhiệm kỳ XII, đại dịch Covid-19 và thiên tai, bão lũ ở miền Trung liên
tiếp xảy ra tác động nặng nề tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, nhưng tốc độ GDP bình quân
giai đoạn 2016 – 2020 vẫn đạt 6%/năm; quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng
lên. Năm 2020, GDP đạt 271,2 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD. Chất lượng
tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 – 2015 lên khoảng
6%/ năm giai đoạn 2016 – 2020.
1.2. Thành tựu văn hóa – xã hội:
Văn hóa- xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.
Việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Các chính sách về lao
động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đạt được nhiều kết quả quan trọng; bảo đảm cơ bản an sinh xã hội, tiếp tục cải thiện chính sách
tiền lương, mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đạt 90%. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa
chiều còn dưới 3%, hoàn thành các mục tiêu phát triển “Thiên Niên Kỷ” của Liên Hợp Quốc.
1.3. Thành tựu về đối ngoại:
Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta tiếp tục được nâng cao. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các
thể chế đa phương, khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng
và các nước lớn. Điển hình như: “nước ta đã quan hệ ngoại giao là: 189 quốc gia; quan hệ kinh tế là:
224 quốc gia và vùng lãnh thổ; Đối tác chiến lược là 17 nước (trong đó có 5 đối tác là các quốc gia
chủ chốt trong ASEAN); Đối tác toàn diện là 11 nước. Ta có thể thấy, Việt Nam là thành viên của
hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế lớn.” [2]
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế là kết quả của một quá trình
thực hiện nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng và đa phương hóa; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới, giúp cho đất nước

3
tăng thêm cơ hội đẩy nhanh quá trình điều chỉnh, cơ cấu nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và
rút ngắn thời gian, vật chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng Cộng sản:
Trải qua hàng chục năm thăng trầm, biến động về lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời như
một vị cứu tinh giải thoát con người thoát khỏi ách thống trị của bọn đế quốc. “Đảng được coi là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam; là đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.” [3]. Đã hơn 90 năm (từ năm
1930) từ khi thành lập Đảng, hơn 35 năm xây dựng công cuộc đổi mới, thời gian đủ dài để cho chúng
ta thấy được những bài học về kinh nghiệm lãnh đạo mà Đảng đã đúc kết lại được. Trong Đại hội
XIII của Đảng, đã nêu bật lên 5 bài học kinh nghiệm quý báu:
• Một là, Bài học về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai một cách quyết liệt,
toàn bộ, toàn diện và thường xuyên:
Đây được coi là bài học quan trọng và kéo dài xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới. Tại đại hội XIII,
bài học kinh nghiệm về vai trò lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng được trình bày đầy đủ, rõ ràng
và toàn diện hơn: “công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện,
đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ... Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” [4].
• Hai là, Bài học “Lấy dân là gốc”, đổi mới dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân:
Như chúng ta cũng biết, đây là bài học mang tính chất xuyên suốt, kéo dài qua các Đại hội, là sự
tiếp nối truyền thống lịch sử của dân tộc ta. Dân là nền tảng cho mọi thành tựu của một quốc gia, dân
tộc: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là
gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” [5]. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, tồn tại không có mục đích tự thân, mà vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
• Ba là, trong lãnh đạo, điều hành, tổ chức phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn:

Phát huy mọi nguồn lực, động lực. Kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, chủ yếu là đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu nhưng cũng phải gắn liền với sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị.
Phát huy dân chủ đi đôi với kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận; coi trọng chất
lượng, hiệu quả thực tế, đột phá để phát triển.

• Bốn là, Bài học về tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan:

Đảng ta đã tập trung xây dựng thể chế phát triển, hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và
phát triển; từ năm 1986 đến nay, nước ta đã chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường
định hướng XHCN, chuyển từ chế độ đơn sở hữu sang đa sở hữu, chuyển từ hệ thống chuyên chính
vô sản sang hệ thống chính trị XHCN, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Những

4
bài học này được rút ra từ Đại hội VI: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan” [6].

• Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo kịp thời không để rơi vào tình thế bị động, bất
ngờ:

Phải luôn có tinh thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Việc giữ vững môi trường hòa bình nhưng mà vẫn phải tích cực hội nhập quốc tế. Linh hoạt
trong mối quan hệ với các nước lớn, láng giềng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát
huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” [7].

3. Ý nghĩa lịch sử:

“Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã trải những thời kỳ, giai đoạn lịch
sử quan trọng, ghi những dấu mốc lịch sử của Đảng, của cách mạng và cả dân tộc Việt Nam. Đảng
đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành sự nghiệp
đấu tranh cách mạng lâu dài đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác để có được mang cơ đồ và vị thế
như ngày nay. Thành tựu của cách mạng vô cùng phong phú, toàn diện và vẻ vang phản ánh quy luật
vận động, phát triển của cách Việt Nam do Đảng lãnh đạo.”
Công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của tình hình nước ta, phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại; có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, một sự nghiệp
thật sự sáng tạo của nhân dân ta; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

CHƯƠNG 2: NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA ĐẾN CUỘC THẮNG LỢI
Tháng 2/1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, được sáng lập bởi Hồ Chí Minh. Hơn 90 năm
qua Đảng đã lãnh đạo mang đến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ thắng lợi vang dội của cuộc
cách mạng tháng Tám đến công cuộc miền Bắc xây dựng XHCN (1954-1975) và cả nước tiến lên
XHCN (1975). Đặc biệt nhất là Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986
đến nay. Nó đã giành rất nhiều thành tự to lớn có ý nghĩa lịch sử “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.[8]

Và qua đây ta có thể thấy được: “Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của công cuộc
đổi mới (1986 - nay)”. Để được thành tựu to lớn ấy với sự lãnh đạo đúng đắn, Đảng luôn chỉnh đốn,
nâng cao năng lực, sức chiến đấu. Thông qua đó mà ta khẳng định rằng đường lối đổi mới của Đảng
là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới là phù hợp. Ngoài ra còn giải quyết các vấn đề lý luận và
thực tiễn. Vậy, Đảng ta đã làm những gì để trở thành nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi của công
cuộc đổi mới.

1. Các nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi của công cuộc đổi mới: [9]

5
Thứ nhất, Đảng không ngừng nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ, trung thành và bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh:

V.I.Lênin nêu rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng…
Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong, hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ
tiên phong” [8]. Thế nên ngay từ những ngày đầu thành lập, Nguyễn Ái Quốc đã trang bị quan điểm,
tư tưởng của Người cho cán bộ. Đảng không nhừng nâng cao mà vẫn luôn nắm vững, hiểu rõ bản
chất cách mạng, khoa học của các nguyên lý, lý luận để vận dụng một cách phù hợp ở Việt Nam.

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn coi trọng tổng kết thực tiễn để làm rõ vấn đề lý luận
cách mạng Việt Nam. Khi quyết định đổi mới 1986, Đảng đã chú trọng đổi mới tư duy của thời kì
quá độ lên XHCN. Ngoài ra, cần khắc phục tư duy nóng vội và chủ quan. Do luôn đẩy mạnh nghiên
cứu lý luận, tư tưởng, thế nên, con đường đi lên CNXH ngày một sáng hơn về các vấn đề kinh tế,
chính trị, văn hóa; sáng tỏ hơn khả năng bỏ qua Chủ nghĩa tư bản và các vấn đề khác.

Thứ hai, Đảng đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, không ngừng bổ sung, phát triển, bảo đảm
tính hiện thực của đường lối:

Đảng đã đề ra nhiều cương lĩnh, đường lối đúng đắn : “Cương lĩnh chính trị đầu tiên tại Hội nghị
thành lập Đảng (2-1930); Luận cương chính trị (10-1930); Chính cương của Đảng Lao động Việt
Nam (2-1951); Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và
bổ sung, phát triển (2011) ”. Cương lĩnh đã đề ra vấn đề chiến lược cách mạng , ở mỗi giai đoạn thì
đều đề ra các đường lối, chủ trương lớn. Chẳng hạn như: đường lối cách mạng miền Nam và chống
Mỹ cứu nước, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,.. Để các đường lối đề ra luôn được
đúng đắn Đảng luôn nâng cao trình độ lý luận, luôn xuất phát từ thực tế, coi trọng tổng kết thực tiễn.
Đảng luôn luôn lắng nghe, coi trọng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự chỉ dẫn quan trọng: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ
nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết
những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như
thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra
được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với
tình hình nước ta.” [10]

Thứ ba, Có hệ thống tổ chức Đảng vững mạnh, đội ngũ cán bộ giỏi, có năng lực tổ chức thực
hiện đường lối:

Hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi trọng xây dựng hệ thống tổ chức đảng
từ cấp Trung ương đến các địa phương, cơ sở. Ngoài ra, Đảng còn hoạt động theo nguyên tắc được
quy định. Đặc biệt là nguyên tắc “Đảng lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản”. Ở nguyên tắc
này đòi hỏi có sự tập trung, thống nhất rất cao giữa các cấp từ đó đưa ra quyết định.

Hồ Chí Minh xác định rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [11]. Nó quyết định công việc
thành công hay thất bại. Luôn động viên cán bộ dám nghĩ, dám làm, chịu trách nhiệm, vượt qua khó
khăn để đất nước phát triển nhanh, bền vững.
6
Tuy nhiên, thực tế cho chúng ta thấy rằng tổ chức thực hiện vẫn còn rất yếu. Nhà nước cần tích
cực vận động, kêu gọi nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật. Đó là cách cuối cùng mới
nâng cao được chất lượng, hiệu quả quản lí,

Thứ tư, Đảng nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức:

Cương Lĩnh Đảng đã từng nhắc đến rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Thế nên, Đảng luôn
là người tiên phong về lý luận, trí tuệ, đi đầu trong mọi sự nghiệp cách mạng như phương châm :
“Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”.

Vấn đề đạo đức được xem là gốc của người cách mạng. Mỗi Đảng viên, cán bộ luôn thấm nhuần
đạo đức cách mạng, trong sạch, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Một số cán bộ sa vào
chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí, xa rời thực tế, xa cách nhân dân. Điều đó ảnh hưởng tiêu
cực tới uy tín của Đảng và vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Thế nên việc tang cường giáo
dục trong Đảng là điều luôn cần thiết. Coi trọng danh dự là điều thiêng liêng nhất. Dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng thì Việt Nam sẽ thành một nước XHCN “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.

2. Bài học rút ra:

Hơn 35 năm đổi mới (1986 - 2022) là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước,
đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có tính tất yếu, toàn
diện để gạt bỏ, tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất, tạo động lực cho sự phát
triển bền vững của đất nước. Toàn thể dân tộc và nhân dân Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn
nhưng có không ít những hạn chế, khó khắn, yếu kém. Từ những thực tiễn mà đất nước ta đã trải
qua, chúng ta rút ra được bài học quý báu như sau:

- Phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo
của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Lấy nhân dân là trung tâm để xây dựng cách mạng.
- Phải phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác có hiệu quả ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
- Ngoài ra, dựa vào những yếu tố trên để làm cơ sở, mà năm 2020 – 2021 chúng ta đã trải qua
cơn “đại nạn” một cách thần kỳ (bão, lũ lụt ở Miền Trung; đại dịch Covid-19 toàn cầu), với
phương châm vì tính mạng con người, không để ai bỏ lại phía sau, mà toàn Đảng, toàn dân,
toàn đất nước đã nỗ lực vượt qua đại dịch, khắc phục hậu quả Miền Trung, những tình nguyện
viên không ngại gian khổ lao ra “biển” dịch hay bão táp hoành hành để ứng cứu kịp thời, giúp
nhân dân sớm ổn định cuộc sống, quay về cuộc sống bình thường.
- Song, chúng ta phải cần phê phán và lên án những người đã là Đoàn Viên, Đảng Viên nhưng
vẫn làm sai nguyên tắc của Nhà nước, không kiên trì những mục tiêu đã đề ra, phải kể đến
7
những hành vị như: Ăn chặn tiền nhân dân, nhận tiền hối lộ... Khi đã là “một phần” của Nhà
nước, chúng ta cần phải thực hiện tốt những quy định để cấp dưới hay nhân dân ta làm gương,
phấn đấu học tập theo.

3. Liên hệ bản thân:


Từ những gì đất nước đã qua, nền kinh tế vực dậy một cách thần tốc sau những khủng hoảng trầm
trọng nhất, ta thấy được Việt Nam đã có những con người tài giỏi để giúp đỡ đất nước. Là thế hệ trẻ
của Việt Nam, em thấy được sự quan trọng của việc học tập, tiếp thu kinh nghiệm. Nó là chìa khóa
để đất nước có thể tiếp tục phát triển và vươn mình để toàn cầu hóa đất nước. Việc mở cửa đón nhận,
giao lưu kinh tế là một việc cấp thiết ngay lúc này mà chúng ta cần phát triển. Nhưng để toàn cầu
hóa với thế giới cần yêu cầu nhiều những tiếp cận về con người về ngôn ngữ. Giao tiếp ngoại ngữ để
có thể bắt kịp với những xu hướng của thời đại của con người ở những vùng văn hóa khác nhau. Là
một sinh viên UEH em thấy được tầm quan trọng của việc theo kịp thời đại để cùng nhau lớn mạnh
về kinh tế cũng như văn hóa để Việt Nam ta ngày càng giàu mạnh sánh vai với cường quốc năm
châu. Thế hệ mới của chúng em cùng nhau xây dưng đất nước là một nhiệm vụ quan trọng thực hiện.
Ngoài ra, khi bản thân được sinh ra là thân nam nhi, với thể lực cường tráng, hùng mãnh. Khi
được Nhà nước triệu tập đi nghĩa vụ quân sự, em phải chấp hành theo mệnh lệnh, tuân thủ quy tắc
và hoàn thành sứ mệnh của Nhà nước. Bới khi đi nghĩa vụ, chúng ta đã và đang cống hiến sức mạnh
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng, gìn giữ non sông trở nên tươi đẹp và phát triển hơn. Nếu chúng
ta yêu Tổ quốc, thì phải hết lòng vì đất nước như lời Bác đã dặn năm xưa: “Nghĩa vụ một người dân
là phải yêu Tổ quốc”. [12]

C. KẾT LUẬN:
“Hành trình hơn 35 (từ năm 1986 – 2022) trải qua 8 kỳ đại hội (Đại hội VI – XIII), là một quãng
đường dài để chúng ta nhìn lại, bắt đầu từ đại hội VI trong hoành cảnh đất nước rất khó khăn và tình
hình Thế giới cũng gây nhiều bất lợi trong giai đoạn xây dựng công cuộc đổi mới, thế nhưng, chúng
ta đã kiên cường đứng lên sau thất bại, để giờ đây, năm 2022 đất nước đã đạt được những thành tựu
nổi bật và mang đến ý nghĩa quan trọng cho toàn dân tộc. Qua mỗi giai đoạn đổi mới, Đảng Cộng
sản và nhân dân Việt Nam luôn có sự tổng kết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn nhằm rút ra những bài
học và kinh nghiệm cho những giai đoạn phát triển tiếp theo. Có thể nói, con đường đổi mới ở Việt
Nam vừa thể hiện sự trung thành, vừa là sự tìm tòi và vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH, xây dựng Tổ quốc và sánh vai với
cường quốc năm châu.”

8
TRÍCH DẪN NGUỒN:

[1], [9]: Tài liệu hướng dẫn học tập môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
Gia,TP HCM, 2022, tr 78-79

[2]: Wikipedia, Hội nhập quốc tế ở Việt Nam, tr.2

[3]: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr.88.

[4],[5]: ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, 2021, tr. 26 – 27.

[6]: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.29.

[7]: ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr.69-70

[8]: Báo cáo của ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

[10]: Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự Thật 2011 ,Tập 11, Sđd, tr.92.

[11]: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, 2011, t.5, tr.309

[12]: Bài: Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết, Nguyễn Ái Quốc, đăng trên Báo Thanh Niên,
ngày 23/8/1925.

You might also like