You are on page 1of 34

LỜI CAM ĐOAN

“Tôi xin cam đoan tiểu luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã
được tôi cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong tiểu luận đã được chỉ rõ nguồn
gốc”.

Tác giả tiểu luận


(Ký và ghi rõ họ tên SV cam đoan)
Mục lục

LỜI CẢM ƠN .........................................................................................................2

PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................3

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................5

CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG RA ĐỜI ...........5

1.1 Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập, tự chủ trở thành một nước

thuộc địa ...................................................................................................................6

1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng cộng sản Việt Nam

ra đời ........................................................................................................................7

CHƯƠNG 2 : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG

CỘNG SẢN VIỆT NAM ......................................................................................10

2.1 Điều kiện, tình hình của thế giới ......................................................................10

2.2 Sự thất bại của các phong trào yêu nước trong nước .......................................11

2.3 Con đường tìm đường cứu nước – con đường “cách mệnh” của Nguyễn Ái
Quốc .......................................................................................................................11
1
2.4 Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam .......................................................... 13

CHƯƠNG 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM-NHÂN TỐ LÀM NÊN


THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG .....................................................................16

3.1 Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cuộc cách mạng tháng 8/1945 đến thắng

lợi ............................................................................................................................16

3.2 Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) dưới sự lãnh đạo

của Đảng ................................................................................................................18

3.3Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ - khép lại chiến tranh ....................20

3.4 Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố làm nên thắng lợi trong thời kì mới ........22

CHƯƠNG 4: LIÊN HỆ VỚI BẢN THÂN TRƯỚC SỰ NGHIỆP, THẮNG

LỢI CỦA ĐẢNG...................................................................................................24

PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................25

Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................................27

2
LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn đến trường Cao Đẳng Kinh Tế Kỹ Thuật Thành
Phố Hồ Chí Minh và đặc biệt là Thạc Sĩ Phạm Thị Hoà người Giảng Viên đã
phụ trách việc giảng dạy em trong bộ môn Giáo Dục Chính Trị, nhờ sự quan tâm
và giúp tận tình giúp đỡ của cô trong suốt thời gian học tập, cùng với những
kiến thức về chính trị mà cô đã truyền đạt cho em, những kiến thức về chính trị,
về việc tu rèn đạo đức sẽ giúp ích rất nhiều cho em trận đường sau này và ở hiện
tại với những kiến thức cô đã truyền tải em đã có thể giải quyết một số vấn đề
rất tốt, và một lần nữa em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến trường Cao Đẳng
Kinh Tế Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh và Thạc Sĩ Phạm Thị Hoà rất nhiều.

3
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài tiểu luận

Lịch sử đã chứng minh, kể từ khi có đảng ra đời dân tộc ta đã giành được những
thắng lợi ý nghĩa có tính dân tộc và thời đại sâu sắc. Đảng ra đời đã viết nên
những trang sử mới hào hùng nhất, oanh liệt nhất, về lịch sử chiến đấu giữ nước
của dân tộc ta trong quá khứ. Từ khi có Đảng ra đời và dẫn dắt, quân và dân ta
đã làm nên nhiều thắng lợi to lớn và vĩ đại từ cuộc cách mạng tháng tám năm
1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cho đến việc chiến thắng
một đế quốc hùng mạnh như Pháp qua chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày
7/5/1954 rồi sau đó là đế quốc Mỹ bằng Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân
Mậu Thân năm 1975,… Và cho đến ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa, xây dựng và đổi mới đất nước đã và
đang đạt được những thành tựu to lớn. Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc ta

4
đều có dấu ấn của Đảng cộng sản và không thể phủ nhận được vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam để làm nên những thắng lợi đó.

Ngày nay, nhân dân ta được sống trong một xã hội hòa bình, có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, hưởng thụ được những thành quả cách mạng của các thế hệ đi
trước, từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam.
Việc giáo dục và giúp cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ những người đang
trực tiếp hưởng thụ những thành quả đó thấy được vai trò và sự cống hiến to lớn
của Đảng để dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam là vô cùng quan
trọng cũng như thấy được trách nhiệm phải góp phần xây dựng và bảo vệ nền
độc lập dân tộc mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Viêt Nam đã
đỗ bao xương máu mới giành được. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: “Đường lối đúng đắn của đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp cách mạng”. Đất nước ta ngày nay ngày càng giàu mạnh và
đang khẳng định vị thế trên trường quốc tế do vậy việc tìm hiểu và học hỏi về:
“Sự lãnh đạo đúng đắn của đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam” là việc làm hết sức quan trọng đối với lớp
trẻ và đặc biệt là sinh viênViệt Nam , những người chủ tương lai của đất nước
để thấy được công lao to lớn của đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
và sự nghiệp xây dựng , bảo vệ dân tộc Việt Nam.

Chính vì những lý do trên em quyết định chọn đề tài: “ Đảng Cộng Sản Việt
Nam – Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của bài tiểu luận

Với tư cách một công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, chúng ta phải hiểu rõ về sự ra đời, vai trò, quá
trình lãnh đạo và tư tưởng lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt là các thành tựu, thắng
lợi mà Đảng ta đã đạt được trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân ta qua công
cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Qua đó, mỗi công dân Việt Nam cần phải xác
5
định đúng đắn, nhìn nhận được tầm quan trọng vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với sự thành công của cách mạng của Việt Nam (cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng xã hội chủ nghĩa).

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài được xác định:

-Tìm hiểu về sự ra đời của Đảng, nghiên cứu, phân tích, làm rõ vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam (cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa).

-Nhận xét một cách khách quan về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.

-Nhìn nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá khứ và bài học trong giai đoạn
hiện nay và đưa ra quan điểm cá nhân.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Phạm vi: Vì đây là đề tài chứa đựng nhiều nội dung, bao hàm một khối lượng
thông tin vô cùng rộng lớn, nhiều vấn đề chưa được công bố và có nhiều vướng
mắt, tranh cãi. Trong điều kiện kiến thức còn hạn hẹp, kinh nghiệm bản thân
chưa có nên em chỉ giải quyết vấn đề ở phạm vi cơ bản, không được rộng khắp
mà chủ yếu đề cập đến quá trình hình thành, vai trò của Đảng đối với sự nghiệp
cách mạng, bài học quan điểm ở tầm vi mô.

Đối tượng nghiên cứu ở đây là:Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh
đạo nhân dân giành thắng lợi trong tiến trình cách mạng lịch sử và cho đến ngày
hôm nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp lý luận kết hợp với phân tích tổng hợp, liệt kê.
6
Phải gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình cách mạng Việt Nam.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của
cách mạng, nó ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Cung cấp cho mọi người thấy rõ và toàn diện hơn, có cái
nhìn bao quát toàn diện về vai trò lãnh đạo của Đảng và là nhân tố quyết định
thắng lợi đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Giúp tăng cường sự hiểu
biết cũng như đánh giá đúng vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu đề bài gồm 4 chương:

Chương 1: Tình Hình Việt Nam trước khi đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

Chương 2: Quá trình hình thành, phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam

Chương 3: Đảng cộng sản Việt Nam- Nhân tố làm nên thắng lợi của cách mạng.

Chương 4: Liên hệ với bản thân trước sự nghiệp, thắng lợi cách mạng của Đảng
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG


CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI

Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước biến Việt
Nam thành thuộc địa và thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ
nghĩa thực dân trên đất nước ta. Tình hình đất nước Việt Nam có nhiều thay đổi
lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội. Bên cạnh đó là các phong trào đấu
tranh chống thực dân Pháp của nhân dân nổ ra trong khắp cả nước từ Bắc chí

7
Nam nhưng điểm chung là tất cả các phong trào đều thất bại, chưa tìm được
tiếng nói chung.
1.1. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập, tự chủ trở thành một nước
thuộc địa

Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam đã sớm hình thành trong quá trình
dựng nước và giữ nước chạy dọc theo suốt chiều dài lịch sử. Với truyền thống
đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh
(Quân Tần, quân Mông-Nguyên, quân Hán, quân Thanh với nhiều trận chiến nổi
tiếng như ). Tuy nhiên năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam,
không những không phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết đánh
giặc của nhân dân ta mà vua quan triều đình nhà Nguyễn đã từng bước đầu hàng
chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước
Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành
thuộc địa của đế quốc Pháp, và chúng từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn
bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
1.1.1. Về chính trị

Thực dân Pháp trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước,
vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Ngoài ra, thực dân Pháp còn thi
hành chính sách chia để trị, chia rẽ ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi lập
ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào,
Campuchia trên bản đồ thế giới. Chúng thi hành chính sách cai trị chuyên chế,
tạo ra một bộ phận tay sai lớn mạnh phục vụ đắc lực cho công cuộc bình định và
cai trị của chúng, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay
sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. bên cạnh đó dưới sự cai trị của chính quyền
thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ,…

8
1.1.2. Về kinh tế

Với mục đích là lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh và vì lợi ích của giai cấp tư
sản và bọn cầm quyền Pháp, cung cấp nguồn nguyên liệu để phát triển mẫu
quốc. Bọn chúng đã bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc
quyền, ra sức vơ vét tài nguyên, hạn chế phát triển công nghiệp, kìm hãm sự
phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Ngoài ra với việc đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý, vô nhân đạo, bên cạnh đó cũng duy trì bóc lột kiểu phong kiến,... đẩy
nhân dân ta vào cảnh bần cùng, nghèo đói làm cho nền kinh tế kiệt quệ, lệ thuộc
cột chặt vào kinh tế Pháp.
1.1.3. Về văn hóa-xã hội

Với mục đích là cai trị đất nước ta lâu dài, thực dân Pháp đã thực hiện chính
sách ngu dân, lợi dụng việc truyền đạo nhằm khuyến khích văn hóa nô dịch,
phục tùng nước Pháp, tự ti để kìm hãm nhân dân ta trong sự tối tâm, dốt nát, lạc
hậu để chúng dễ dàng cai trị và đồng hóa.

Với chính sách cai trị của mình, thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam
phân hóa sâu sắc và làm xuất hiện thêm các giai cấp mới (công nhân và tư sản).
Bên trong xã hội Việt Nam xảy ra những mâu thuẫn gay gắt vốn đã tồn tại từ rất
lâu giữa nông dân với địa chủ phong kiến thì bây giờ lại xuất hiện thêm một
mâu thuẫn mới bao trùm lên tất cả và mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp. Mâu thuẫn đó vừa là
mâu thuẫn cơ bản cũng đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam -
phản ánh mâu thuẫn của một xã hội thuộc địa lúc bấy giờ. Những mâu thuẫn đó
ngày một lớn và đòi hỏi đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn với giải quyết
vấn đề giai cấp, đòi quyền dân sinh dân chủ. Đó cũng chính là nhân tố, cơ hội
mà Hồ Chí Minh nhận thấy để có thể thành lập nên một tổ chức Đảng để lãnh
đạo nhân dân đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn đó. Bác đã từng viết:

9
" Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn
phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi" Phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất
phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới”.
1.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời

Với một dân tộc có một lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần đoàn kết chống giặc,
kiên cường, bất khuất đã được chứng minh kể từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến
những nǎm hai mươi của thế XXI đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức
anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc Pháp xâm lược. Tuy các phong trào này
đều bị thất bại chứng tỏ con đường đi theo khuynh hướng tư sản đều chưa đáp
ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhưng nó là bài
học xương máu là sự thể hiện tinh thần yêu nước bất diệt của nhân dân ta từ
ngàn đời nay.
1.2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến

Tiêu biểu nhất cho phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến là phong
trào Cần vương. Ngày 13/7/1885, Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương.
Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung
Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào
Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896. Trước kia, nếu chế độ phong kiến khi
đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh
thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh xâm lược. Tuy nhiên, trong bối
cảnh hiện tại khi chế độ phong kiến đã suy tàn, thối nát, quân đội yếu kém và
phải đối mặt với một đế quốc hùng mạnh là Pháp thì giai cấp phong kiến bất lực,
thể hiện sự yếu kém và thậm chí trở thành phản động, tay sai cho Pháp. Dù có sự
ủng hộ của bộ phận nhân dân nhưng cho đến cuối cùng thì phong trào Cần
vương cũng thất bại.Thất bại của phong trào này đã chấm dứt thời kỳ đấu tranh
chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến, cho thấy phong trào
10
đấu tranh theo hệ tư tưởng phong kiến hoàn toàn lỗi thời, không còn phù hợp với
điều kiện đất nước hiện tại và cũng là do thiếu đường lối đúng đắn, không phù
hợp lòng dân do chủ trương khôi phục lại chế độ phong kiến đã suy tàn thối nát.
Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám
cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi.
1.2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản.

Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến thất bại là điều kiện cho các
hệ tư tưởng yêu nước khác phát triển tiêu biểu là con đường đi theo khuynh
hướng tư sản.

Trong đó, nhiều người Việt Nam yêu nước chọn con đường đi ra nước ngoài,
tìm đến con đường mới để giải phóng dân tộc như các phong trào Đông Du do
nhà yêu nước Phan Bội Chậu lãnh đạo, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục,
phong trào Duy Tân do cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo.
Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu chủ trương tranh thủ sự giúp đỡ của
nước Nhật- nước đế quốc hùng mạnh nhất ở châu á lúc bấy giờ. Bác Hồ đã từng
rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối nhưng không tán thành
cách làm của họ như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để chống Pháp
chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau” vì bản chất của cả Pháp
và Nhật đều là đế quốc và đều có cùng mục đích là nô dịch các nước thuộc địa.

Khác với phong trào Đông du, phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh lại chủ
trương mở mang dân trí: chấn hứng dân khí, nhân tài, mặt khác bài xích, chính
sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách. Phong trào đã thu hút sự
ủng hộ đông đảo của những trí thức yêu nước nhưng cuối cùng cũng bị thất bại
do chủ trương cải lương thoả hiệp không thực tế.

Khuynh hướng dân chủ tư sản cũng là điều kiện ra đời của tổ chức Việt Nam
quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài với tôn chỉ đánh đuổi thực
11
dân Pháp, lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập toàn quyền. Do nhiều nguyên nhân
khách quan mà chủ yếu là chủ quan, Việt Nam quốc dân đảng và đặc biệt là
cuộc khởi nghĩa Yên Bái phát động trong thế bị động bị thực dân Pháp đàn áp
đẫm máu là dấu chấm hết cho sự lãnh đạo của giai cấp tư sản đối với phong trào
cách mạng Việt Nam.
1.2.3.Các phong trào đấu tranh của nhân dân; công, nông binh,…

Dưới tác động của các phong trào dân tộc, dân chủ đòi các quyền tự do, bình
đẳng, quyền sống,…nên phong trào nông dân lúc này diễn ra vô cùng sôi nổi
như biểu tình giảm sưu thuế, đập phá huyện đường,… tiêu biểu là khởi nghĩa
nông dân ở Yên Thế. Nhưng các phong trào này chỉ với mục đích là giảm sưu
cao thuế nặng, sự áp bức của địa chủ phong kiến, cải thiện đời sống vốn đã rất
cơ cực.

Tuy chỉ mới được hình thành và số lượng chưa được lớn mạnh nhưng giai cấp
công nhân cũng đã ý thức được trách nhiệm và vai trò của mình tham gia vào
các các phong trào đấu tranh sôi nổi như: cuộc đình công của các công nhân tàu
biển, bãi công bạo động của công nhân công trường đường sắt Yên bái,…

Bên cạnh các tầng lớp giai cấp nói trên, lúc này đã có một lực lượng mới tham
gia phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp đó là binh lính người Việt trong
quân đội Pháp. Vốn dĩ họ tham gia phong trào, nổi dậy khởi nghĩa chống Pháp
là vì họ thấy được tội ác mà thực dân Pháp gây ra khi thực hiện các cuộc bình
định càn quét đẫm máu đồng bào, bên cạnh đó những người tham gia đi lính cho
Pháp vì bị ép buộc và còn bị người Pháp đối xử khinh miệt, ngược đãi, sỉ nhục.

Ngoài ra, còn có các cuộc đấu tranh của các dân tộc ít người như người Mường,
Tày,… cũng gây khó khăn cho thực dân Pháp, ngoài ra còn hàng ngàn cuộc
khởi khác của nhân dân trong khắp cả nước.

12
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1.Điều kiện, tình hình của thế giới

Chủ nghĩa Mác ra đời và về sau được chính Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa
Mác - Lê nin. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả
những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản. Kể
từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu
nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách
mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công đã ảnh hưởng đến cách
mạng ở các nước thược địa trong đó có Việt Nam. Cách mạng Tháng Mười nêu
tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn ái Quốc
khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu
Á tỉnh giấc mê hàng thế kỉ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững
bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Cùng với đó là sự ra đời nhiều đảng cộng sản ở
các nước như: Đảng Cộng sản Đức, Đảng cộng sản Hungari (năm 1918), Đảng
Cộng sản Pháp (năm 1919)…

Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng
sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường
cách mạng vô sản. Và nó đã có ảnh hưởng lớn đến sự truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin và sự thành lập của Đảng cộng sản Việt Nam.

13
2.2.Sự thất bại của các phong trào yêu nước trong nước

Tuy các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX nổ ra rất nhiều, trên phạm vi rộng khắp tuy có sự ủng hộ của môt bộ phận
tầng lớp nhân dân nhưng tất cả đều thất bại đã chứng tỏ con đường cứu nước
theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt
Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo.
Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai
cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân có đủ uy tín
và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thành công.
2.3. Con đường tìm đường cứu nước – con đường “cách mệnh” của Nguyễn
Ái Quốc.

Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước mang tên
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đầu tiên, Người đến Pháp sau đó
là các nước Tây và các nước Á, Phi,... Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như
Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ
những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản và nó mạng không thể đưa lại độc
lập và hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.

Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng. Người tìm thấy
con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam: về vấn đề thuộc địa trong mối
quan hệ với phong trào cách mạng thế giới,
Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.

Tại sự kiện của Đại hội Đảng Xã hội Pháp


(12/1920), Người đã bỏ phiếu tán thành
việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham
14
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt
động cách mạng từ một người yêu nước trở thành người cộng sản rồi giúp người
tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn “Muốn cứu nước phải giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con

(Chân dung của Bác) đường cách mạng vô sản”. Từ đây cùng với
việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc
xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách
mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở nước ngoài, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - LêNin vào Việt Nam
qua các bài báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và đặc biệt là
tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925)-tác phẩm này đã vạch rõ
những âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc, kiên cường
bất khuất nhằm đánh đuổi bọn thực dân Pháp xâm lược.

Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu. Sau đó, tháng 6-1925 Người
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với mục đích là làm cách mạng
dân tộc và cách mạng thế giới. Nếu sau khi cách mạng thành công, Hội chủ
trương thành lập Chính phủ nhân dân; mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân; tiến
lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản
các nước, với phong trào cách mạng thế giới.

Tính từ năm 1925 - 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp
huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam, xây dựng được nhiều cơ
sở trong nước và năm 1928, Hội Việt Nam thực hiện chủ trương “vô sản hóa”
nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.

15
Năm 1927, Người sáng tác cuốn Đường cách mệnh. Tác phẩm Đường cách
mệnh đã đề cấp những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về
tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường cách
mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Cùng
với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra cá tờ báo Thanh niên,
Công nông, lính cách mệnh, Tiền phong,…Với mục đích nhằm thức tỉnh và giác
ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát
triển theo con đường cách mạng vô sản.
2.4. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
2.4.1.Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Từ sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, tại số nhà
5D Hàm Long- Hà Nội, một số hội viên tiên tiến của tổ chức Thanh niên ở Bắc
Kỳ đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam vào cuối tháng 3- 1929.

Sự ra đời lần lượt của các tổ chức Cộng Sản:

Đông Dương Cộng sản Đảng: Ngày 17-6-1929, tại 312 Khâm Thiên- Hà Nội,
đại biểu các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp Đại hội quyết định thành lập Đông
Dương Cộng sản Đảng. Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ: “Đảng Cộng sản Đông
dương tổ chức đại đa số và thực hành công nông liên hiệp mục đích để đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa; đánh đổ tư bản chủ nghĩa; diệt trừ chế độ phong kiến; giải
phóng công nông; thực hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái, tức là hội cộng
sản”.

An Nam Cộng sản Đảng: Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng đã ảnh
hưởng đến sự ra đời của An Nam Cộng sản Đảng và nhằm giải quyết yêu cầu
của phong trào cách mạng, vào tháng 7/1929, các đồng chí trong Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An
Nam Cộng sản Đảng về thông qua điều lệ của Đảng: “Ai tin theo chương trình
16
của Quốc tế Cộng sản, hăng hái phấn đấu trong một bộ phận đảng, phục tùng
mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí, có thể cho vào đảng được”.

Đông Dương Cộng sản Liên đoàn: Việc ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng
và An Nam Cộng sản Đảng đã làm cho nội bộ Đảng Tân Việt phân hóa mạnh
mẽ, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn.

Tuy sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc,
phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản Việt Nam và được đông đảo quần
chúng nhân dân ủng hộ nhưng ba tổ chức cộng sản trên đây lại hoạt động phân
tán, chia rẽ, tranh giành sự ảnh hưởng của nhau đã ảnh hưởng xấu đến phong
trào cách mạng ở Việt Nam lúc này dẫn đến nguy cơ mất đoàn kết, chia rẻ.
Chính vì thế, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán để thống nhất, đoàn kết giữa
các tổ chức cộng sản là yêu cầu cấp bách, quan trọng, cấp bách trước mắt của
cách mạng Việt Nam nói chung và những người cộng sản Việt Nam nói riêng
mà đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc.
2.4.2. Hội nghị thành lập Đảng-Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

Từ sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng yêu nước, sự ra đời của ba
tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng Sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng Sản
Đảng (7-1929), Đông Dương Cộng Sản liên đoàn 9-1929) dẫn đến cách mạng
Việt Nam đứng trước nguy cơ chia rẻ lớn và cũng do yêu cầu khách quan của
điều kiện thế giới (Quốc tế Cộng Sản đã viết thư yêu cầu Việt Nam phải thành
lập riêng cho mình một tổ chức Cộng Sản thống nhất và giao nhiệm vụ cao cả
này cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhiệm vụ hợp nhất ba tổ chức cộng sản).

Nói về việc thành lập và vai trò của Đảng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách
mạng muốn thắng lợi thì phải có một đảng lãnh đạo. Đảng có vững, cách mạng
mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng
17
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt. Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Trước tình hình đó của cách mạng
Việt Nam cùng với chỉ thị của Quốc tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh
chống gấp rút chuẩn bị nhân lực, văn kiện cho việc hợp nhất các tổ chức Cộng
Sản. Và sau khi đã chuẩn bị hoàn tất vào ngày 3 đến 7/2/1930, Nguyễn Ái Quốc
đã chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng Sản tại Hương cảng Trung Quốc.

Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, sự chia rẽ, cái tôi bản thân
quyết định thành lập Đảng CS và lấy tên là Đảng CS Việt Nam. thông qua chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt do chính Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo và lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng, bầu
Ban chấp hành trung ương lâm thời. Hội nghị được coi như là hội nghị thành lập
Đảng và các văn kiện do Hội nghị thông qua chính là cương lĩnh đầu tiên của
Đảng.

Về quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khái quát: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu
năm 1930”. Và sau này tại Đại hội VII của Đảng năm 1991 chỉ rõ:

“Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng
ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội”.
2.4.3.Ý nghĩa của việc Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp. Đảng ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam,
18
là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta .
Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng”.

Với sự thành công của hội nghị thành lập Đảng đã hợp nhất ba tổ chức cộng sản
ở Việt Nam thành một Đảng cộng sản duy nhất “Đảng Cộng sản Việt Nam” với
một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về mọi mặt của phong
trào cách mạng cả nước để cùng thực hiện mục tiêu yêu cầu của đất nước là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng đã có cương lĩnh chính trị xác định đúng
đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng
vô sản đó chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm bắt
được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, giải quyết được tình
trạng khủng khoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng và
phương hướng phát triển mới của đất nước Việt Nam

Đảng ra đời sẽ là nhân tố thắng lợi cho cách mạng Việt Nam sau này.

CHƯƠNG 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – NHÂN TỐ LÀM


NÊN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG

Nhìn lại tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình, giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, mở ra một kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn với Chủ nghĩa xã
hội. Đảng cộng sản Việt Nam với đường lối lãnh đạo đúng đắn, khoa học,phù
hợp với qui luật của cách mạng Việt Nam cùng với lí luận Mác-LêNin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là kim chỉ nam đã dẫn dắt nhân dân ta đi hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, bảo vệ độc lập
chủ quyền của đất nước và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.

19
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cuộc cách mạng tháng 8/1945 đến thắng
lợi

Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quần chúng nhân dân được
chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa.

Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng
1930 - 1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng
Tám. Cao trào dân chủ 1936 - 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho
cách mạng tháng tám. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc
diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt,
trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước, Đảng ta đã nhận định đúng đắn và
đưa ra chỉ đạo kịp thời sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” ngày 12-3-1945. Sau đó, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa
từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như
đồng thời ở nhiều nơi, quần chúng nhân dân được chuẩn bị về mọi mặt.

Thứ hai, sự thông minh sáng suốt của Đảng trong việc phân tán kẻ thù, lôi kéo
lực lượng trung gian. Vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian có tầm quan trọng lớn
cho dù cơ bản tầng lớp trung gian không đóng vai trò đầu tàu quyết định trong
những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về phía
cách mạng thì đã tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công. Trái
lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì
nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn không thể làm cách mạng thắng lợi
nhanh chóng được.

Thứ ba là, Đảng chớp đúng thời cơ, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lãnh
đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.

20
Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941) do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đề ra chủ trương thay đổi chiến lược
cách mạng phù hợp với điều kiện cụ thể, chủ trương thành lập Mặt trận Việt
Minh, và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa. Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước lãnh đạo toàn dân gấp rút
chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Bản Chỉ thị
“Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng
suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận trọng và sáng tạo. Trong cao
trào tiền khởi nghĩa, tất cả các hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự, tư
tưởng đều chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân Nhật,
nhằm mục tiêu trước mắt là tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Vừa được tin
quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh,
ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên
Quang). Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam
đã gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền, Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ nổi dậy tổng
khởi nghĩa giành chính quyền, đây là nhân tố vô cùng quan trọng để cuộc khởi
nghĩa giành thắng lợi.

21
Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa 2/9/1945 (Tư liệu sưu tầm).

Kết thúc thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho thấy đường lối,
chủ trương đúng đắn của Đảng với trí sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh
đấu tranh của nhân dân ta. Nếu Đảng tiên phong không chuẩn bị đầy đủ, không
kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu cách
mạng cũng không nổ ra được. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách và giành được thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
3.2. Đảng lãnh đạo nhân dân giải quyết khó khăn và giành thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi quy định bởi nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan thuận lợi, tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là do cách
mạng có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh với
đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.

22
Thứ nhất, chiến thắng trên lĩnh vực quân sự dưới sự chỉ đạo tài tình sáng suốt
của Đảng.

Khi quân Pháp có những hãnh động khiêu khích quá đáng, Đảng ta đã nhanh
chóng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến, tổ chức cuộc chiến đấu ở các đô thị phía
Bắc vĩ tuyến 16 đẻ giam chân địch trong thành phố đến viêc tổ chức phản công
Pháp trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947 đánh bại kế hoạch “đánh nhanh thắng
nhanh” của Pháp. Sau đó với chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn của mình
Đảng đã cùng nhân dân giành Chiến thắng Biên giới (Thu - Đông 1950) với
chiến thắng này được coi là bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Từ nay ta đã nắm
được quyền chủ động về chiến lược ở chiến trường chính là đồng bằng Bắc Bộ.
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân (1953 – 1954) bước đầu
phá sản kế hoạch của Pháp và đánh bại hoàn loạt kế hoạch quân sự lớn của
Pháp.

Cuối cùng, Đảng ta đã quyết định mở chiến dich Điện Biên Phủ nhằm phá tan
hoàn toàn kế hoạc Nava của Pháp với phương ban đầu là “đánh nhanh thắng
nhanh” sau chuyển sang “đánh chắc tiến chắc”. Thất bại tại chiến dịch Điện
Biên Phủ buộc Pháo phải ngồi vào bàn đàm phán và kí Hiệp định Giơnevơ

Thứ hai, thắng lợi về mặt chính trị - xã hội:

Các chính sách, giải pháp hết sức sáng suốt, kịp thời, quyết liệt để quyết được
vấn đề “ngàn cân treo sợi tóc” năm 1946 về việc xây dựng chính quyền, khó
khăn về nạn đói, nạn dốt, thiếu hụt tài chính và nội xâm ngoại phản.Từ việc hòa
Tưởng đánh Pháp trước 6/3/1946 đến việc hòa Pháp để đuổi Tường sau
6/3/1946 đến trước 19-12-1946. Từ 1948 đến 1950 ta đã tiến hành củng cố chính
quyền dân chủ nhân dân.

23
Sự sáng suốt khi đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động
Việt Nam và bầu Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được
bầu lại làm Tổng bí thư Đảng, hợp nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt
thành lập Mặt trận Liên Việt và thành lập khối liên minh Việt - Miên - Lào. Lập
tờ báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền ngôn luận chính thức của Đảng ta.

Đảng cũng tập trung xây dựng hâu phương phát triển về mọi mặt: chính trị, kinh
tế, văn hóa – giáo dục, đề ra phương châm của cuốc kháng chiến để thực hiện
sao cho đúng.

Thứ ba, lãnh đạo nhân dân ta thắng lợi về ngoại giao:

Năm 1949 cách mạng Trung Quốc thành công. Từ năm 1950 hệ thống xã hội
chủ nghĩa được hình thành. Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
đã lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với ta, ủng hộ rất tích cực cuộc kháng chiến
của ta. Giành chiến thắng trên bàn ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ, buộc thực
dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) để chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Đông Dương.

Tóm lại, sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là do sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân
sự và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Đảng lãnh đạo là nguyên nhân
chi phối các nguyên nhân khác. Nếu không có Đảng lãnh đạo tạo nên sức mạnh
tổng hợp của dân tộc và của thời đại. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3.3. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ - khép lại chiến tranh

Tình hình trong xuyên suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là: đất nước
bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Bên cạnh
đó là, nền kinh tế của đất nước chậm phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá, đời
24
sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn; chúng ta phải đương đầu với một đế quốc
hùng mạnh có tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn và chính sách tàn bạo, đang đứng
đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới.

Với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tiến
hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng được nêu ra trong Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm mục tiêu giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc đã tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã
hội, tạo ra hậu phương lớn để tập trung sức người, sức của chi viện cho miền
Nam đánh Mỹ. Ở miền Nam, đã huy động tất cả các lực lượng yêu nước, các
nguồn lực tập trung đánh đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai của chúng để
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành nhiệm vụ của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

25
(Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày
5 đến ngày 10-9-1960. Ảnh tư liệu)

Để biến đường lối cách mạng thành hiện thực, Đảng ta đã phát động, tổ chức và
lãnh đạo nhân dân tiến hành chiến tranh nhân dân với nội dung và hình thức đa
dạng, phong phú (toàn dân, toàn diện đánh giặc; mỗi người dân yêu nước là một
chiến sĩ; mỗi làng xã, khu phố, nhà máy, trường học, hợp tác xã, bệnh viện... là
một pháo đài đánh Mỹ, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết
hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp tiến công quân sự với
nổi dậy của quần chúng...); phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức
mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh của thời đại để đánh lui từng bước,
đánh đổ từng bộ phận và đi đến đánh đổ hoàn toàn kẻ thù, tiến hành chiến tranh
nhân dân, toàn dân, toàn diện, quân và dân cả nước đã đánh địch bằng nhiều
hình thức, nhiều phương pháp, nhiều phương tiện, nhiều vũ khí... và cuối cùng
đã làm phá sản ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Sau nhiều chiến thắng, nhất là
thắng lợi của “Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968”, “Chiến dịch Nguyễn Huệ
mùa hè năm 1972” và trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 trên bầu
trời Hà Nội, đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Đặc biệt là, với “Đại thắng mùa xuân năm 1975”, nhân dân Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
đã ghi một dấu son chói lọi trong lịch sử phát triển của nhân loại tiến bộ ở thế kỷ
XX.

Cuối cùng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước với đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng
tạo, việc xác định đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã
thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tư duy chiến lược, tài thao lược xuất sắc của
Đảng, nhất là ở những thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến.
Không chỉ phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam mà còn đáp
ứng xu thế của thời đại.
26
3.4. Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố làm nên thắng lợi trong thời kì mới

Đồng chí: Nguyễn Phú Trọng (14/4/1944) hiện đang là Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo
con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở
thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã giành được
những thành tựu quan trọng: tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt từ 6,5-

27
7%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, theo hướng tăng tỷ
trọng ngành công nghiệp-dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp.

Đến năm 2019, thu nhập bình quân trên đầu người đạt gần 2.800 USD, vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài đạt hơn 360 tỷ USD, thu hút 18 triệu khách quốc tế...

Văn hóa-xã hội có sự chuyển biến tích cực, với những thành tựu quan trọng, đặc
biệt là chỉ số phát triển con người (HDI).

Đến năm 2020, tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 94,9%, tuổi thọ trung bình của người
dân đạt gần 73,5 tuổi, tỷ lệ nghèo dưới 3%. Đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được nâng lên một bước, không khí dân chủ trong xã hội từng bước
được phát huy. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố và tăng cường; chính trị, xã hội ổn định, an ninh-quốc phòng được giữ vững.
Vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ ở các mức độ khác nhau với 228
chính đảng tại 112 nước trên khắp các châu lục, trong đó có 59 đảng cầm quyền
và 38 đảng tham chính.

Việt Nam hiện có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, là
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
(APEC), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM). Việt Nam đã chủ động, linh hoạt
thực hiện thành công việc ký kết và thực thi có hiệu quả 12 hiệp định thương
mại tự do (FTA) với các đối tác thương mại quan trọng.

Thực tế phong phú của cách mạng Việt Nam 90 năm qua đã chứng minh rằng sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng, làm nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam.Những
28
thành tựu to lớn từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập cho đến nay
chứng tỏ sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc.

Chương 4: Liên hệ với bản thân trước sự nghiệp, thắng lợi cách
mạng của Đảng

Học tập, nghiên cứu về sự nghiệp, thắng lợi của Đảng giúp em hiểu biết về quá
trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của Đảng không phải chỉ để tự hào về
Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần nâng cao hơn nữa niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng. Từ đó khiêêns em càng phải ra sức phấn đấu thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi mới giành thắng lợi to lớn
hơn.

Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của mình, không những em mà
mọi người phải góp phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp
phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ra sức học tập, rèn luyện
phấn đấu để trở thành những đảng viên của Đảng, đem tài năng và sức trẻ cống
hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những thành tựu và truyền thống của
Đảng ngày càng phát triển và phong phú hơn

Đặc biệt phải chống lại các hiện tượng tiêu cực, sự chống phá của các thế lực
thù địch đối với Đảng. Tuy nhiên, trong lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm,
khuyết điểm, có những sai lầm nghiêm trọng. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình,
sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách
mạng tiến lên. Nhưng, một số kẻ thù địch, cơ hội chính trị lại không thấy hoặc
cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế, họ còn thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm của
Đảng và quy kết Đảng không đủ năng lực lãnh đạo trong điều kiện mới của đất
nước. Rõ ràng đây là một sự xuyên tạc, vu cáo Đảng ta, nhằm kích động, chia rẽ
29
nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta,
chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm. Là một công dân
Việt Nam, em cũng như mọi người phải tuyệt đối tin tưởng sự lãnh đạo của
Đảng, tránh bị kẻ xấu lợi dụng để thực mưu đồ phản động.

Đừng nghĩ là mình phải là quan chức lớn, là đại gia, mình mới giúp ích được
cho Đảng, cho đất nước. Nếu so với các đại gia, quan chức lớn đã đi tù vì tham
nhũng, lạm quyền, thì ai trong chúng ta cũng đã đóng góp cho đất nước nhiều
hơn họ. Chính vì vậy nếu đã yêu nước, muốn xây dựng Đảng ngày một tốt thì
bản thân chúng ta hãy làm tốt nhiệm vụ cơ bản của một công dân, của một người
Đảng viên, học tập và làm việc theo hiến pháp và pháp luật gia các hoạt đô ̣ng xã
hô ̣i về Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam. Tuyên truyền cho mọi người về truyền thống
tốt đẹp của Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam.

Kết luận

Trải qua 90 mùa Xuân, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng phát triển tư duy
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi
mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới;
quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín như ngày nay. Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của
cách mạng Việt Nam giành được trong hơn 7 thập kỷ qua bắt nguồn từ nhiều
nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng
suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện - một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó
30
Đảng không có lợi ích nào khác. Giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho
nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong
phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý
tưởng, không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng
chất, không hạ thấp vị trí tiên phong chiến đấu và trách nhiệm của người lãnh
đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một lòng một dạ phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam được tôi luyện,
thử thách và ngày càng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng
đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của
nhân dân. Dân tộc Việt Nam tự hào về Đảng Cộng sản quang vinh do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đã lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam vượt qua mọi chông gai, hiểm nguy để cập
bến bờ vinh quang, hạnh phúc. Cần khẳng định rằng, Ðảng Cộng sản Việt Nam
duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị là nguyên tắc không thể thay
đổi cả trong quá khứ lẫn hiện tại và cả tương lai.

31
DANH MỤC THAM KHẢO

1. Vũ Thiên Bình, Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi của sức mạnh Việt
Nam, nxb. Lao động, 2018.

2. Tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1930-2016 ( qua các kỳ Đại hội),
nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2016.

3. Hà Minh Hồng (chủ biên), Bác Hồ với các kỳ Đại hội Đảng, nxb Trẻ, 2016

4. Thời dựng Đảng, nxb. Tổng hợp TP.HCM, thành phố Hồ Chí Minh, 2013.

5. Trịnh Nhu - Trần Trọng Thơ, Cách mạng tháng 8-1945 - thắng lợi vĩ đại đầu
tiên của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, nxb. Tổng hợp TP.HCM, thành phố
Hồ Chí Minh, 2020

6. Văn Tiến Dũng, Đại thắng Mùa xuân, nxb. Quân đội nhân dân, 1976.

7. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

8. https://toc.123docz.net/document/683712-tinh-hinh-xa-hoi-viet-nam-truoc-
khi-dang-cong-san-viet-nam-ra-doi.htm, truy cập ngày 11/06/2021.

32
9. https://www.vietnamplus.vn/dang-cong-san-viet-nam-nhan-to-quyet-dinh-
moi-thang-loi-cua-cach-mang/620856.vnp, truy cập ngày 11/06/2021.

10.https://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/S%E1%BB%B1_ra_
%C4%91%E1%BB%9Di_c%E1%BB%A7a_%C4%90%E1%BA%A3ng_C
%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam_v%C3%A0_c
%C6%B0%C6%A1ng_l%C4%A9nh_ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B_
%C4%91%E1%BA%A7u_ti%C3%AAn_c%E1%BB%A7a_
%C4%90%E1%BA%A3ng_II, truy cập ngày 12/06/2021.

11. https://sachgiai.com/Lich-su/tom-tat-nhung-thang-loi-co-tinh-chat-buoc-
ngoat-ve-quan-su-chinh-tri-va-ngoai-giao-cua-ta-trong-cuoc-khang-chien-
chong-phap-1946-1954-9866.html, truy cập ngày 10/06/2021.

33

You might also like