You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM


KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
--------

TIỂU LUẬN MÔN HỌC


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ ĐẾN
NƯỚC TA HIỆN NAY

GVHD: THẦY THÁI NGỌC TĂNG

Mã lớp: LCT120314- 07CLC

(thứ 3, tiết 7-8)


Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 2020
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
STT Họ và tên MSSV
1 Liêu Anh Khoa 19145248

2 Trần An Khang 19124118

3 Huỳnh Như Kiều Khanh 19116098

4 Nguyễn Thị Như Quỳnh 19116125

Giáo viên hướng dẫn: Thái Ngọc Tăng


Điểm Nhận xét của giáo viên

Giáo viên kí tên


LỜI MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra, sự lãnh đạo của Đảng không phải là quyền lực
mà đảng tự đtặ ra cho mình, cũng không phải do sự áp đặt đối với quần chúng, mà phải
do quần chúng thừa nhận một cách tự nhiên. Có như vậy, Đảng mới đoàn kết dân tộc,
mới trở thành lãnh tụ của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mới trở thành
lãnh tụ của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Sự ra đời
của Đảng Cộng Sản Việt Nam tuân theo những quy luật khách quan, đó chính là sự vận
dụng, phát triển của phong trào công nhân kết hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin và phong
trào yêu nước của dân tộ. Bởi vậy, từ khi Đảng xuất hiện theo quy luật vừa phổ biến vừa
đặc thù đó đã đưa cách mạng Việt Nam vào một bước ngoặt, mở ra một chấn trời triển
vọng mới cho dân tộc ta phát triển.
Có thể nói lịch sử thăng hoa của đất nước ta hôm nay gắn liền với lịch sử thẳng
trầm sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, nhờ có
lý luận tiên phong dẫn đường, Đảng đã dẫn đường nhân dân ta dành hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (1986) đến nay, Đảng đã có
nhiều đóng góp trong sự nghiệp lý luận, đặc biệt là những luận điểm mới chủ nghĩa xã
hội và con đường chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đổi mới, nhìn chung công tác lý luận vẫn không
kịp sự phát triển của thức tiễn, vẫn không ít cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên chưa nắm
chắc những vấn đè lý luận về công tác tư tưởng. Thậm chí, ở một số nơi, tình trạng này
vẫn còn vô hiệu hóa các giả pháp có giá trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng của cấp ủy, các tổ chức của Đảng. Do đó nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của
Đảng trong giai đoạn mới hiện nay có ý nghĩa quyết định việc thực hiện mục tiêu phấn
đấu 2021, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đòi hỏi
cần phải có một sự lãnh đạo cảu Đảng và sự hưởng ứng nhiệt tình đông đảo quầ chúng
nhân dân thì đất nước mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Đặc biệt, trong công cuộc đổi
mới, thức hiện CNH – HĐH thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng mang tính thời sự và cấp
thiết.
Xuất phát từ những lý do trên tôi nghiên cứu đề tài
2. Mục đích, yêu cầu
- Mục đích: Mỗi công dân Việt Nam cần phải xác định đúng đắn, nhìn nhận được
tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Yêu cầu:
+ Phân tích và làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam ( cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa).
+ Đánh giá một cách khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Đưa ra vai trò của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: toàn thể quần chúng nhân dann Vietj Nam trong giai đoạn
giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa.
4. Những đóng góp của đề tài
- Cung cấp cho bạn đọc thấy rõ hơn và toàn diện hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
- Góp phần làm tang them sự hiểu biết và cũng như việc đánh giá đúng vị tri vai
trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới hiện nay
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lý luận kết hợp giữa phân tích và tổng hợp.
- Học tập phương pháp của Hồ Chí minh: gắn lý luận với thức tiễn trong quá trình
cách mạng Việt Nam
MỤC LỤC
1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.........................................1

1.1 Bối cảnh ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam...............................................1

1.2 Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam...................................1

1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời cùa Đảng Cộng sản Việt Nam...3

1.3.1 Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin.......................................................3

1.3.2 Theo quan điểm Hồ Chí Minh.......................................................................3

2. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÁCH MẠNG......................4

2.1 Sự lãnh đạo của đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam........................4

2.2 Tiếp tục nâng cao vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới.....8

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TA
HIỆN NAY.............................................................................................................11

1. BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................11

2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC HIỆN NAY............14

2.1 Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay........................................................14

2.2 Công tác xây dựng Đảng.................................................................................15

KẾT LUẬN............................................................................................................18

Tài liệu tham khảo.................................................................................................19


Chương I: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1.1 Bối cảnh ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng
đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một
mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân
lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước
trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng
gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Marx-Lenin từ lý
luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc,
thời đại giải phóng dân tộc.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc
tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin và thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.2 Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều
nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911,
người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi
tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu,
châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực
dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng
như ở các nước thuộc địa.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lenin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa
yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Marx-Lenin, mà còn đánh
dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế,
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, vạch phương hướng chiến
lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

1
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Marx-
Lenin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị về lý luận cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân
chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường,
đó là hệ tư tưởng Marx-Lenin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị
quốc tế, viết tác phẩm ''Bản án chế độ thực dân Pháp'' và tổ chức ra các tờ báo Thanh
niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin
vào Việt Nam.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác
phẩm ''Đường cách mệnh'' (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện
chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên).
Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng
có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới
chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ.
Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo
cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương
Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo
cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí
cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã
nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất,
chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ
động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hong Kong, Trung Quốc từ ngày 6/1
đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng,
An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản
và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành
lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập
Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

2
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3/2 dương
lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.

1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời cùa Đảng Cộng sản Việt Nam

1.3.1 Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin


Chủ nghĩa Mác – Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở
các nước tư bản chủ nghĩa với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động
làm cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Mác – Lênin khẳng định: “Đảng Cộng sản là sự kết hợp của chủ nghĩa
Mác và phong trào công nhân phương Tây”.
Phong trào công nhân phương Tây là giai cấp tiến tiến, đông đảo về số lượng, giày
đặc về mật độ, có ý thức tổ chức và tinh thần kỉ luật, tự giác cao trong lao động, là lực
lượng tiên tiến trong sản xuất, xã hội nên nhạy bén và dễ tiếp thu cái mới, tích cực áp
dụng cái mới. Nếu phong trào công nhân không tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin thì nó
mãi mãi dừng ở trình độ tự phát, không thể trở thành phong trào tự giác được. Ngược lại,
nếu chủ nghĩa Mác – Lênin không thâm nhập vào phong trào công nhân thì nó sẽ mãi
dừng lại ở lĩnh vực lý luận, mà không thể trở thành hoạt động thực tiễn. Sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ đưa cách mạng đến thắng lợi.

1.3.2 Theo quan điểm Hồ Chí Minh


Nhân dịp kỷ niệm ba mươi năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh khảng định: “Chủ
nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Tổng kết của Hồ Chí
Minh nói lên quy luật ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa. So với “công
thức" của Lênin “công thức” của Hồ Chí Minh có thêm một yếu tố mới là phong trào yêu
nước.
Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin như là cơ sở tư
tưởng của phong trào công nhân. Người cũng nhận thức rõ vai trò của phong trào công
nhân như là cơ sở xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Không có chủ nghĩa Mác - Lênin thì
phong trào công nhân chỉ dừng lại ở trình độ “tự phát”. Không có phong trào công nhân
thì chủ nghĩa Mác - Lênin không có đất để bám rễ. Nhưng tại sao Hồ Chí Minh lại nêu
thêm yếu tố mới là phong trào yêu nước Và yếu tố mới này lại có khả năng kết hợp với
phong trào công nhân.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam phải có thêm yếu tố mới là phong trào yêu
nước, vì phong trào yêu nước là một yếu tố trường tồn trong lịch sử có trước phong trào
công nhân, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc. Ngay cả khi có
phong trào công nhân (từ khi có giai cấp công nhân ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất của thực dân Pháp, (1897-1914), thì phong trào yêu nước vẫn giữ vai trò cực
kỳ to lớn trong cuộc đấu tranh cách mạng, vì lúc này phong trào công nhân vẫn còn trong
tình trạng “tự phát”. Các phong trào yêu nước đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu, đòi để
tang Phan Châu Trinh trong những năm 1925-1926 là những minh chứng cho sức mạnh
của phong trào yêu nước.

3
Phong trào yêu nước bàn tới ở đây không phải tất cả mọi loại hình mà chỉ là
những phong trào yêu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản, tức là các phong trào
yêu nước triệt để. Các loại phong trào yêu nước triệt để đó có thể kết hợp được với phong
trào công nhân vì mấy lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong điều kiện một
nước thuộc địa đều có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, đưa
đất nước phát triển theo con đường phồn vinh, hạnh phúc. Nói tới phong trào công nhân
là nói đấu tranh chống ách áp bức giai cấp là nói tới chủ nghĩa xã hội nói tới phong trào
yêu nước là nói đấu tranh chống ách áp bức dân tộc, là nói tới độc lập dân tộc. Nhưng
dưới ách áp bức của thực dân Pháp thì trước hết đất nước phải giành được độc lập dân
tộc. Không có độc lập dân tộc không có gì hết. Giải phóng dân tộc trong đó có cả lợi ích
của giai cấp công nhân.
Thứ hai, trong phong trào yêu nước, lực lượng nông dân chiếm phần lớn. Mà nông
dân Việt Nam lại có quan hệ tự nhiên với giai cấp công nhân (nông dân mất ruộng trở
thành công nhân và công nhân mất việc trở thành nông dân). Vì vậy, phong trào nông dân
có khả năng kết hợp với phong trào công nhân.
Thứ ba, trong phong trào yêu nước đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng cả về số
lượng và vị trí, vai trò. Đội ngũ trí thức nhờ điều kiện làm việc đặc thù nên rất nhanh
nhạy với thời cuộc, dễ tiếp thu cái mới. Vì vậy, họ thường là “ngòi nổ" của các phong
trào chống Pháp. Họ đưa lý luận cách mạng vào phong trào công nhân, làm cho phong
trào công nhân chuyển dần từ “tự phát” sang “tự giác”. Về vai trò của Đảng Cộng sản
Việt Nam: Nói tới Đảng Cộng sản Việt Nam là nói tới lãnh đạo cách mạng, tổ chức, giáo
dục, tập hợp quần chúng đưa quần chúng ra đấu tranh cách mạng Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh
hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng
cách mạng vô tận của nhân dân đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhưng nếu không có Đảng lãnh đạo thì
lực lượng vô tận của quần chúng không chắc chắn thắng lợi. Ngay từ năm 1927, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ vai trò của Đảng là trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Người cho rằng: “ Muốn khỏi đi lạc
phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và
định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ
địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên
quvết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật
mạnh, để đánh đổ kẻ địch, giành lấy chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng
vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.

2. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÁCH MẠNG

2.1 Sự lãnh đạo của đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam
    Vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước. Ngọn cờ cứu nước của giai cấp phong kiến đã

4
lỗi thời, ngọn cờ của giai cấp tư sản cũng không phất cao lên được, điển hình
là thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành.
Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước thực chất là cuộc khủng hoảng về sự
lãnh đạo cách mạng của một giai cấp tiên tiến mà đại biểu là chính đảng cách
mạng. Đất nước trong cơn bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người đã tiếp thu và
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ
chức để thành lập Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
    Qua một quá trình chuẩn bị, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Đây là kết quả của quá trình vận động cách mạng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; là sự kiện có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó
đến nay. Đảng ra đời sớm có Cương lĩnh cách mạng đầu tiên đúng đắn. Cương lĩnh
xác định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản… Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm
cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đáp ứng đúng yêu cầu
của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho Đảng giành được quyền lãnh đạo phong
trào cách mạng, đồng thời phản ánh vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của
Đảng ngay từ khi mới ra đời. Đánh giá sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng”.
   Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931,
đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công
nông cả nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong kiến. Thành
quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn
khốc của đế quốc và phong kiến đã không thể nào xóa nổi là ở chỗ, nó khẳng định
trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về Đảng ta; ở chỗ, nó đem lại cho
quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi khẳng định đường lối
cách mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng cách mạng to lớn của công nông, nó
cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu, cải lương của giai cấp phong kiến và tư sản mại
bản. Đó là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển về sau
của cách mạng Việt Nam. “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu rung
trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực
cách mạng phi thường của mình, thì không thể có cao trào những năm 1936-1939”.
Đây là “cuộc tổng diễn tập đầu tiên” cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945.
    Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết
hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận
Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một cơ hội tốt để đưa cách mạng
5
tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này là “chống phản động thuộc
địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”.
Cao trào cách mạng 1936-1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động
quần chúng sôi nổi với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phong phú,
kể cả việc lợi dụng các “Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực
dân Pháp lập ra. Đảng đã động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong các
cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ này đánh dấu
bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện
để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt trong những năm 1940-
1945. 
    Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp quỳ gối dâng nước ta
cho phát xít Nhật, dân ta một cổ hai tròng. Đảng nhận định đây là thời kỳ mà ách
áp bức, bóc lột và chiến tranh đế quốc làm cho nhân dân ngày càng cách mạng hóa,
cách mạng sẽ bùng nổ. Đảng quyết định lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp rộng rãi
các lực lượng dân tộc dân chủ, đồng thời xây dựng các căn cứ địa và những đơn vị
vũ trang đầu tiên, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật sôi nổi, mạnh mẽ.
Khi Nhật hất cẳng Pháp, Đảng đã tranh thủ thời cơ, chuyển hướng mau lẹ, phát
động cao trào kháng Nhật, cứu nước, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành
công, giành chính quyền nhanh gọn trong cả nước, lập nên nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa Đảng ta lên vị trí lãnh đạo, cầm quyền. Đánh
giá về cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lần này là lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc”  .
    Sau Cách mạng Tháng Tám, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước, trước
nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng do thù trong giặc ngoài gây ra, tình hình đất nước
như “ngàn cân treo sợi tóc”. Với sự lãnh đạo sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên
tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt
qua thác ghềnh hiểm trở, lướt sóng đi lên. Lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh
tay đối phó với Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc thì tạm hòa hoãn với
Pháp để đuổi quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai, giành thời gian củng
cố lực lượng, chuẩn bị cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó cho thấy sự lãnh đạo
tài ba của Đảng ta và đã “được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu
mực tuyệt vời của sách lược lêninnít”. 
    Sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta còn thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp 1946-1954. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã
tiến hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính” và đã giành được thắng lợi vẻ vang, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu, giải phóng miền Bắc, tạo điều
6
kiện cơ bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng
lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa không chỉ với nước ta
mà còn đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời, cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ
và XHCN trên thế giới”.
    Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 với tinh thần chiến đấu vô cùng anh
dũng và quả cảm, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Giải phóng miền Nam, xây
dựng CNXH ở miền Bắc. Với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và CNXH, Đảng đã kết hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, động
viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, một cuộc kháng chiến đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên trình độ cao
những truyền thống cách mạng và năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại
thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ
nguyên độc lập, tự do và CNXH trên đất nước ta. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng
thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất,
một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
    Hơn 30 năm đổi mới là giai đoạn lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam,
đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng ta. Đổi mới mang tầm
vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là
sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, thể hiện tài
năng lãnh đạo của Đảng ta. Đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá; nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN từng bước được hình thành; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng
bước được nâng lên; dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng;
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức
mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng
mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao.

7
Thời gian là hòn đá thử vàng, 90 năm qua là giai đoạn đặc biệt của cách mạng
nước ta dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, là
thời gian mà đất nước và dân tộc vượt qua nhiều thách thức, có lúc hiểm nghèo.
Mỗi lần vượt qua thách thức, Đảng và dân tộc ta lại trưởng thành, vươn lên
tạo dựng những mốc son mới. Những mốc son chói ngời đó chứng minh rõ tài
năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Chỉ điểm qua những kết quả nêu trên, có
thể khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 

  2.2 Tiếp tục nâng cao vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới
    Bước sang giai đoạn mới, ể nâng cao vai trò và sự lãnh đạo, Đảng cần tập trung
vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau: 
    Thứ nhất, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính
chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt các cấp. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiền phong,
gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công
tác xây dựng Đảng. Nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ
chức đảng, của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách
phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát
triển. 
    Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ
thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đẩy mạnh công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch
định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. “Đổi mới
mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền
nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới chương trình đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả
và phù hợp với từng đối tượng”.
    Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hơn
nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu
nhiệm vụ chính trị. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch. Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên
tạc, sai trái, thù địch. 

8
    Thứ tư, nâng cao năng lực lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân, đúng với tư cách nền tảng pháp lý cho quyền làm chủ của nhân
dân. Ở đó, sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà
nước cần rõ ràng, rành mạch, không trùng chéo, tạo ra sự hỗ trợ, tương tác và kiểm tra,
giám sát lẫn nhau để vận hành hiệu quả của các cơ quan quyền lực trên cơ sở phát huy
cao nhất sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó cũng là cơ sở pháp lý nâng
cao vai trò và sự lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị nước ta.
    Thứ năm, nâng cao năng lực lãnh đạo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Kiên trì phấn đấu hoàn thiện cơ bản và đồng bộ hệ thống thể chế theo các
tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bảo đảm tính
đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm
sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội
bền vững.  Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây
dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế -
xã hội. 
    Thứ sáu, thực hiện tốt mục tiêu mà Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng
vừa qua đã đề ra: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu
lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ công chức, viên chức”.
    Thứ bảy, thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu mà các Hội nghị Trung ương khóa XII
của Đảng vừa qua đã đề ra: Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp
ứng yêu cầu trong thời kỳ mới. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang
tầm nhiệm vụ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức,
chạy quyền. Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng
cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về
công tác tổ chức, cán bộ. Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. đi vào chiều sâu. Chuẩn bị thật tốt những vấn đề cơ bản về nội
dung và nhân sự đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng. 
    Thứ tám, cần xác định đấu tranh PCTN, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, là trách nhiệm của các cấp ủy
đảng, chính quyền và của toàn hệ thống chính trị. Là một đảng cầm quyền, Đảng ta cần
tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch
và thực hiện đồng bộ các giải pháp về PCTN, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực
hiện nghiêm về kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Chú trọng giáo dục phẩm chất đạo đức và trách nhiệm công vụ. Quy

9
định rõ trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị trong PCTN, lãng phí.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý
nghiêm, đúng pháp luật hành vi tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất trong nhận thức và sự đồng thuận trong xã
hội về PCTN, lãng phí.
    Đảng ta khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng
thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao vai trò và sự lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
dân chủ XHCN, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất
nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Nhân dịp đón Xuân Canh Tý 2020, chúng ta có thể tự hào
rằng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, xứng đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện.
 

10
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TA
HIỆN NAY

1. BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những thành
tựu to lớn và rất quan trọng, đã làm biến đổi và phát triển đất nước cả về chính trị, kinh
tế, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nâng cao và
khẳng định vị thế của đất nước trong đời sống chính trị, kinh tế của thế giới.

- Kinh tế

Sự phát triển của Viê ̣t Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhâ ̣n. Đổi mới kinh
tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ
một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình
thấp. Năm 2019, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục cho thấy có nền tảng mạnh và khả năng
chống chịu cao, nhờ nhu cầu trong nước và sản xuất định hướng xuất khẩu vẫn ở mức
cao. GDP thực tăng ước khoảng 7% trong năm 2019, tương tự tỉ lệ tăng trưởng năm
2018, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực.

Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số
nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng gấp 2,5 lần. Trong vòng 30
năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản có nhiều thay đổi tích cực. Tỉ lệ tiếp cận nước
sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm 2016, trong khi tỉ lệ
ở thành thị là trên 95%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính
theo phần trăm GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN.

- Văn hóa, xã hội

Nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010
trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn, đan xen
nhau. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu
vực, nhất là ASEAN ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của mỗi quốc gia. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực

11
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ
sản. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp tục phát triển.

Đời sống của cán bộ, viên chức và người hưởng lương đã được cải thiện đáng kể
nhờ tăng lương theo các Nghị định của Chính phủ. Đời sống đại đa số nông dân ổn định
và từng bước được cải thiện do sản xuất phát triển và giá nhiều loại nông sản, thực phẩm
tăng. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương tiếp tục giảm, tình trạng thiếu đói
giáp hạt giảm đáng kể so với năm 2005. 

Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới đã tạo thêm
cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào kinh tế thế giới. Tuy
nhiên, với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự điều hành quyết liệt khẩn
trương có hiệu quả của Chính phủ, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế xã hội đều đạt và vượt
mức Quốc hội đề ra, nền kinh tế tiếp tục phát triển, chính trị xã hội ổn định. 

- Xây dựng hệ thống chính trị

Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong
bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đặt ra rất cấp bách. ” Đó là vấn
đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai?
Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ
nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo” .

Gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân
dân, thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp
công nhân, của dân tộc và của nhân dân là thống nhất. Xây dựng Nhà nước ta thật sự
trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu sát dân, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực thuộc
về nhân dân. 

Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng
và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội. Hoàn thiện
12
thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong bộ
máy nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu
rộng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử để các cơ quan
này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong
việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.

Xử lý nghiêm minh các hành vi trì hoãn, làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc
lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tập trung xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính công khai, minh bạch cao, phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu
rộng. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu
và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh
chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương, phép nước.

Cùng với tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, đề cao tinh thần “thượng tôn
pháp luật”, cần coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp
sức mạnh của pháp luật với sức mạnh đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội.

- Quốc phòng, an ninh

Hiện nay trên thế giới, xu hướng chung là các nước xây dựng quân đội theo
nguyên tắc “đủ, hợp lý, chất lượng cao” với những mục tiêu cụ thể: đổi mới lý luận quân
sự; hiện đại hóa vũ khí trang bị; cải cách tổ chức quân đội, giảm quân số thường trực đến
mức thấp nhất mà vẫn bảo đảm được an ninh quốc gia.

Với quan điểm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò ba
thứ quân, lấy chất lượng là chính và xây dựng chính trị làm cơ sở.

Đảng ta xác định xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại là trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí minh về xây dựng Quân đội cách mạng và sức chiến đấu của Quân
13
đội.Quân đội nhân dân cách mạng là quân đội mang bản chất giai cấp công nhân, có tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc

2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC HIỆN NAY

2.1 Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay


Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,

Tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn,
sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức
tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25
năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp,
sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp
dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai
lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết
sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai
lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
 
Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách
mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi
mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng
nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam
phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ
với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập,
không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù
đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của
nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo
lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”,
“Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư
bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân
tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.
 
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám
sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào
cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của

14
Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi
mới tư duy nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới
chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã
hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 
Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong
những năm tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ 8 phương
hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện: 
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. 
- Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
- Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 
- Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội. 
- Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. 
- Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. 
- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
 
Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ
tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn
trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước

2.2 Công tác xây dựng Đảng


Trong tình hình hiện nay, để đạt được mục tiêu đó, Huyện ủy đã và đang tiếp tục
triển khai thực hiện một số giải pháp:

Một là, thường xuyên quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên.

Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo
và làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường giáo

15
dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối tin tưởng đường lối, chủ
trương của Đảng, nắm chắc chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu trong tình hình mới. Đảng bộ
phải là một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động; mỗi tổ chức đảng, đảng viên
phải chủ động, nhạy bén đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, thống nhất tư
tưởng và hành động, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Để làm tốt nhiệm vụ này, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ
lãnh đạo, người đứng đầu các cấp phải tăng cường các biện pháp giáo dục chính trị, tư
tưởng; gắn công tác tư tưởng với công tác tổ chức, chính sách và các biện pháp quản lý
hành chính, chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng và Quy định về những điều đảng viên không
được làm. Chủ động nghiên cứu, dự báo, đánh giá tình hình, diễn biến tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân; giải quyết kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh, giữ vững
đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, tổ chức đảng, sự đồng thuận trong cơ quan, đơn vị.
Cùng với giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, cấp ủy và tổ chức đảng phải tập trung bồi
dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên. Tạo điều kiện, quan
tâm đào tạo đội ngũ cán bộ “sáng” về phẩm chất, đạo đức; “giỏi” về chuyên môn, có tinh
thần, thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều và làm
có hiệu quả thực chất.

Hai là, tập trung xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên.

Thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
trước hết là cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; kịp thời khắc phục hạn chế, khuyết
điểm với phương châm “tự soi, tự sửa”, tự phê bình và phê bình. Tăng cường đoàn kết,
thống nhất; nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên và hiệu
lực, hiệu quả công tác đảng…

Ba là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh ngang tầm yêu
cầu nhiệm vụ.

16
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc. Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Huyện
ủy tập trung làm tốt công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất
đạo đức, lối sống trong sáng, gương mẫu, nói đi đôi với làm; có phong cách làm viê ̣c
khoa học, dân chủ, chuyên nghiê ̣p. Thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp; đồng thời, lãnh đạo thực hiện nghiêm nguyên tắc, quy chế, quy trình
công tác cán bộ; chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn, năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ. Quán triệt các quy định của Bộ Chính
trị về luân chuyển, điều động cán bộ, đánh giá cán bộ, cụ thể hóa quy định về tiêu chuẩn,
chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; rà soát, bổ sung quy hoạch
cán bộ các cấp theo quy định. 

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.

Thực hiện phương châm “Giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng
điểm”, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp phải chủ động thực hiện tốt công tác kiểm tra,
giám sát; phát hiện sớm và tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm. Trong kiểm tra, giám sát phải lấy công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
làm trọng tâm; lấy Nghị quyết Trung ương 4 , Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị làm tiêu chí; lấy ý thức tự giác chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định về những
điều đảng viên không được làm để quy chiếu khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân, động cơ
vi phạm... Công tác kiểm tra, giám sát phải chặt chẽ, công tâm, khách quan; gắn kiểm tra
tổ chức đảng với kiểm tra, giám sát đảng viên và cấp ủy viên cùng cấp đối với việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị,
nghị quyết của cấp ủy các cấp, chấp hành nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, đoàn kết
nội bộ, thực hiện nhiệm vụ đảng viên và chức trách, nhiệm vụ được giao. Kịp thời phát
hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; xem xét, giải quyết đơn thư

17
khiếu nại, tố cáo, bảo đảm đúng nguyên tắc, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong
Đảng.

KẾT LUẬN
Sau quá trình học tập môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh thì chúng em cũng đã
phần nào nắm được những kiến thức cơ bản của môn học về tư tưởng, nhưng
quan trọng hơn hết qua đề tài tiểu luận này, chúng em lại càng am hiểu hơn về
nguồn gốc cũng như là vai trò của sự phát triển của Đảng như hiện nay, Ai là
người sáng lập ra Đảng Cộng sản, ai là người dẫn dắt cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi rồi dành lấy độc lập tự do , để rồi có một nước Việt Nam độc lập và
vững mạnh như hiện nay. Dựa trên những nghiên cứu của thực tiễn, nguồn thông
tin, dữ liệu từ sách giáo khoa, giáo trình đã góp phần hoàn thiện nên bài tiểu luận
này chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót, nhưng tất cả đều là kết quả của quá trình cố
gắng và nổ lực để hoàn thiện, mong quý bạn đọc thông cảm, và cũng mong rằng
sẽ mang đến cho các bạn thêm một nguồn kiến thức mới, hữu ích với cá nhân
chúng ta !.

18
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các
bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003.
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục & đào tạo, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009,
2011.
3. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001.
4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
https://loigiaihay.com/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-su-ra-doi-va-vai-tro-cua-dang-
cong-san-viet-nam-c124a20207.html
5. Sự ra đời của Đảng - bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam
https://www.vietnamplus.vn/su-ra-doi-cua-dang-buoc-ngoat-lich-su-cua-cach-mang-viet-
nam/301739.vnp
6. Nguyễn Giang, Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về những tiền đề ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://luatquanghuy.vn/quan-diem-sang-tao-cua-ho-chi-minh-ve-nhung-tien-de-ra-doi-
cua-dang-cong-san-viet-
nam/#Quan_diem_Mac_8211_Lenin_ve_thanh_lap_Dang_Cong_san
7. https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202001/vai-tro-lanh-dao-cua-dang-la-nhan-to-quyet-
dinh-moi-thang-loi-trong-tien-trinh-cach-mang-viet-nam-307494/

19

You might also like