You are on page 1of 25

Đề tài 1: Bằng lý luận và thực tiễn phân tích, chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam ra đời

3/2/1930 là tất yếu khách


quan? Quan điểm của anh (chị) như thế nào về ý kiến cho rằng ở Việt Nam cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo? Vì
sao?
Đề tài 2: Phân tích, chứng minh làm rõ CMT8 năm 1945 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của ĐCSVN. Phê
phán quan điểm cho rằng thắng lợi của CMT8 là “ăn may”.
Đề tài 3: Phân tích làm rõ chủ trương, biện pháp của Đảng để giữ vững chính quyền cách mạng trong thời kỳ 1945 –
1946? Vì sao tổ chức bầu cử Quốc hội 6/1/1946 được coi là một biện pháp để giữ vững chính quyền?
Đề tài 4: Phân tích làm rõ nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1945 - 1954. Nêu ý
nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đề tài 5: Phân tích làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai chiến lược cách mạng, cách mạng XHCN ở miền Bắc và
cách mạng DTDCND ở miền Nam trong giai đoạn 1954 – 1975.
Đề tài 6: Cơ sở lý luận và thực tiễn cho nhận định: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân đội
viễn chinh và chư hầu vào miền Nam Việt Nam nhưng so sánh tương quan lực lượng trên chiến trường không thay
đổi ?
Đề tài 7: Phân tích đường lối chung và đường lối kinh tế trong CM XHCN cả nước thông qua đại hội ĐB toàn quốc
lần thứ IV của Đảng (1976)
Đề tài 8: Làm rõ tính khách quan của công cuộc đổi mới; Nội dung đường lối đổi mới tại ĐH VI (1986)
Đề tài 9: Làm rõ quá trình nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội việt nam của đảng từ đại hội VII đến đại hội XII.
Đề tài 10: Phân tích làm rõ tính đúng đắn của KĐ độc lập dân tộc gắn với CNXH là lựa chọn đúng đắn của CMVN.
Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

TRẢ LỜI:
Đề tài 1:
1.Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử.
a. Hoàn cảnh quốc tế.
- Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, có tác động thức
tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải phóng.
- Quốc tế III được thành lập góp phần chuẩn bị tài liệu cho tư tưởng Mác - Lênin được truyền bá.
- Những tư tưởng cách mạng cấp tiến dội vào các nước thuộc địa.
a.Trong nước.
- Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã
hội Việt Nam.
- Tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội , đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu
tranh để tự giải phóng.
- Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết cả nhân dân ta: là nhu cầu bức thiết của dân tộc .
1.Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước.
- Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc tuy diễn ra liên tục mạnh mẽ, nhưng các
phong trào đều lần lượt bị thất bại vì đã không đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc .
- Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau đang bế tắc về đường lối thì khuynh
hướng vô sản thắng thế: Phong trào dân tộc đi theo khuynh hướng vô sản.
- Đảng Cộng sản ra đời để giải quyết sự khủng hoảng này.
1. Đảng ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.
- Từ sự phân tích vị trí kinh tế xã hội của giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ có giai cấp công nhân là
giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
- Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
- Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tồn tại tự nhiên. Muốn trở thành phong trào tự
giác nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; Vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân
- Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản.
- Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác, nó
được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường giải phóng dân tộc
theo đường lối cách mạng vô sản.
- Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị , tư
tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam .
- Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước
phát triển .
- Các phong trào đấu tranh từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành và đang trở
thành một lực lượng độc lập. Tình hình khách quan ấy đòi hỏi phải có một Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Ba tổ chức cộng sản ra đời là: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản
đảng liên đoàn đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng
- Ngày 3-2-1930 thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Quan điểm của anh (chị) như thế nào về ý kiến cho rằng ở Việt Nam cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh
đạo
Thực tiễn ở Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nguyện vọng và
sự lựa chọn đúng đắn của Nhân dân ta. Và chắc chắn khẳng định rằng ở Việt Nam không cần và không chấp nhận chế
độ đa đảng vì những lý do sau:
Thứ nhất, dưới góc độ lý luận: Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng xuất phát từ chủ nghĩa đa
nguyên - một trường phái triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Christian Wolff (1679-1754) đề xuất vào đầu thế
kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên là một học thuyết phi mác xít với luận điểm phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai
cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa đảng
phái và các tổ chức đảng phái quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương. Vì vậy, nếu áp dụng luận điểm này vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ làm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân
(ở Việt Nam còn đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam) và đi ngược lại với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn cách mạng của Việt Nam: Vào đầu thế kỷ XX qua sự “sàng lọc” dữ dội của lịch
sử, dân tộc Việt Nam, Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị duy nhất dẫn dắt
dân tộc ta đi đến độc lập, tự do và hạnh phúc. Trước sự bế tắc của nhiều phong trào, tư tưởng đấu tranh giải phóng dân
tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thì dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin (do Nguyễn Ái Quốc
nghiên cứu, tìm tòi và truyền bá vào cách mạng Việt Nam) và được sự chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời (03/2/1930) để lãnh đạo cách mạng Việt Nam - đây là một tất yếu lịch sử và
đã chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Ở Việt
Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm,
uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ ba, có phải chỉ thực hiện đa đảng mới có dân chủ?
Lý luận Mác-Lênin đã khẳng định: Dân chủ là phạm trù có tính lịch sử và giai cấp. Do đó, dân chủ xuất hiện khi
có nhà nước, mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định và dân chủ còn phụ thuộc vào trình độ phát triển
văn hóa, kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Thể chế một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất
dân chủ, và cũng không phải dân chủ phát triển chỉ khi gắn với thể chế đa đảng. Hiện nay, nhiều nước tư bản thực hiện
chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Các đảng có thể thay phiên nhau cầm quyền ở một quốc gia trong một
khoảng thời gian nhất định. Nhưng xét đến cùng, các đảng đó đều là đảng của giai cấp tư sản, đại diện cho lợi ích của
giai cấp tư sản. Do đó, nền dân chủ đó là nền dân chủ tư sản, nền dân chủ chỉ dành cho một bộ phận thiểu số, một số ít
người trong xã hội.
Thứ tư, ở Việt Nam hiện nay, nếu thực hiện đa đảng sẽ rất có thể dẫn đến tình trạng các đảng tranh giành ảnh
hưởng lẫn nhau, làm cho đất nước hỗn loạn, chính trị mất ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc mà Bác Hồ và Nhân dân ta
dày công vun đắp, xây dựng sẽ bị phá vỡ… Đó chính là thời cơ để các thế lực thù địch tấn công, lợi dụng. Như vậy, vì
sự ổn định và phát triển của đất nước, vì sự phát triển của nền dân chủ và hạnh phúc của nhân dân, thực hiện thắng lợi
mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh... đất nước Việt Nam, Nhân dân Việt
Nam không cần đa đảng và không chấp nhận đa đảng./

Đề tài 2:

Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên
giá trị và có ý nghĩa rất lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Ngay từ đầu năm 1930, tại Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập". Đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển cho
phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương VI (11/1939), quyết định chuyển hướng chiến lược,
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương. Tại Hội nghị Trung ương VII (11/1940), quyết định hoãn
cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì chưa đủ điều kiện giành thắng lợi, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để từ khởi nghĩa từng phần
tiến lên tổng khởi nghĩa. Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng. Hội nghị quyết định tiếp tục chủ
trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Bước vào năm 1945, những thế lực phát - xít Đức, Ý, Nhật bị thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường Âu - Á;
quân đội Xô - viết và các lực lượng chống phát - xít chiến thắng vẻ vang, tạo nhân tố quốc tế thuận lợi cho các dân tộc
bị áp bức, nô dịch có thể đứng lên giành lấy độc lập, tự do. Đối với cách mạng Việt Nam, sau ngày phát - xít Nhật đảo
chính lật đổ Pháp (ngày 9-3-1945), Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ra Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”. Đảng đã có chủ trương rất sáng suốt, kịp thời và cụ thể, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước
mạnh mẽ, từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên tổng khởi nghĩa; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
và công tác binh vận… Nét đặc sắc, tiêu biểu và độc đáo trong chủ trương của Đảng ta phát động cuộc tổng khởi nghĩa
là việc chọn thời điểm và địa điểm tiến hành khởi nghĩa.
Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Ban
Thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ
trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Được tin quân Nhật hoàn toàn
tan rã và xin đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh, ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân
Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định thời cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh đạo
toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh
vào Việt Nam. Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28-8-1945,
nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi diễn ra trong thời gian rất ngắn và ít hao tổn xương máu. Thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám năm 1945 thể hiện sâu sắc sự nhạy bén, mẫn cảm cách mạng của Đảng; biểu hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng
tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong quá trình chuẩn bị và tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền
thắng lợi.
*Phê phán quan điểm:
Mục đích của quan điểm: Những người phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám lập luận rằng: Từ sau cuộc đảo
chính của Nhật (09/3/1945), Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, mà là thuộc địa của Nhật. Bởi lẽ, khi phát xít
Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện thì ở Việt Nam xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, cho nên – theo họ, bấy giờ
cách mạng chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi. Từ cách nhìn ấu trĩ và giản đơn như vậy, họ cho rằng “Cách mạng Tháng
Tám là một sự ăn may”. Quan điểm này thực chất là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần
chúng, từ đó phủ nhận sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta.
Thực tế lịch sử đã chứng minh: Cách mạng tháng Tám 1945 không phải “sự ăn may” mà nổ ra và giành thắng lợi là do
Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường, biết chớp lấy thời cơ, tìm cách thức
tập hợp quần chúng theo đường lối nhất quán, có thay đổi cách thức tùy hoàn cảnh cụ thể, bởi vì:
Một là, để có thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, dân tộc ta đã kiên cường chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng
suốt 15 năm, trải qua các phong trào cách mạng:
1) Phong trào 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh;
2) Phong trào dân chủ 1936-1939;
3) Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945 với quyết tâm: lúc này không giải phóng được dân tộc thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được. Đặc biệt trong giai đoạn này Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh bám sát thực tiễn, đưa ra chủ trương kịp thời,
đúng đắn, thể hiện ở những sự kiện nổi bật như Đảng triệu tập Hội nghị Trung ương tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định)
vào ngày tháng 11/1939, chủ trương đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trên hết, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương hay ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Ðảng nhận định thời cơ khởi nghĩa đang đến; vì vậy
ngày 12/3/1945 ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước
và còn rất nhiều sự kiện nổi bật khác trong giai đoạn này. (đoạn này nếu có tgian thì chép)
Hai là, Tổng khởi nghĩa chính thức diễn ta từ đêm 13 rạng sáng 14/8/1945 đến ngày 28/8/1945 giành được chính
quyền về tay nhân dân trong cả nước mau lẹ, ít đổ máu là vì chuẩn bị chu đáo, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, cụ
thể là:
(1) Chuẩn bị về chủ trương, đường lối chẳng hạn như sự kiện ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào,
thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”.
(2) Chuẩn bị lực lượng cách mạng gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng thông qua hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất trong từng thời kỳ khác nhau.
(3) Chuẩn bị, xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn-Võ Nhai, Cao Bằng, sau đó phát triển thành Cao-Bắc-Lạng
và Thái-Tuyên-Hà...
(4) Đảng lãnh đạo quần chúng tập dượt đấu tranh 1930-1931, 1932-1935, 1936-1939, 1939-1945.
(5) Chuẩn bị bộ máy lãnh đạo Tổng khởi nghĩa, được thể hiện ở các sự kiện như Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc thành
lập vào trưa ngày 13/8/1945; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch vào ngày 16/8/1945;
(6) Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc Tuyên ngôn độc lập trước khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp quân đội Nhật.
- Liên hệ đến tình hình Đông Nam Á, tháng 8/1945, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh:
+ Khi Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện vào tháng 8/1945, thời cơ cách mạng đã chín muồi. Tuy nhiên, trong
thời gian này, tại ĐNA chỉ có 3 nước tuyên bố độc lập (Việt Nam, Lào, Indonesia), vì bên cạnh yếu tố khách quan, thì
yếu tố quan trọng quyết định đến thắng lợi đó chính là yếu tố chủ quan (giai cấp lãnh đạo, lực lượng cách mạng, ý thức
cách mạng của quần chúng).
+ Sự khác biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào, Indonesia so với các nước khác, đó là có dưới sự lãnh đạo của Đảng, ta
đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, trong đó đặc biệt là giai cấp lãnh đạo (Ở Indonesia là giai cấp tư sản, Việt Nam là vô sản
mà đại diện là Đảng cộng sản) đã trưởng thành và có kinh nghiệm đấu tranh. Nhờ đó khi yếu tố khách quan nổ ra, thì đã
biết chớp thời cơ vận động quần chúng đấu tranh giành cách mạng.
+ Trong khi đó, tại các nước khác của Đông Nam Á, do chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về lực lượng cách mạng, lực
lượng lãnh đạo, chưa có khả năng xác định và chớp thời cơ, đã bỏ lỡ cơ hội giành độc lập.
=> Từ những sự kiện, đường lối, chủ trương trên ta thấy được sự thành công của cách mạng tháng Tám 1945 là xuất
phát từ sự lãnh đạo của Đảng ta đứng đầu là Hồ Chí Minh, chúng ta biết chuẩn bị một cách kỹ càng cả về tài lực và vật
lực, biết chớp thời cơ để thực hiện các cuộc đấu tranh phù hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn; chuẩn bị một cách kỹ
lưỡng cho Tổng khởi nghĩa, và khởi nghĩa đúng thời cơ chứ chúng ta không bị động mà dựa vào các yếu tố khách quan,
yếu tố ăn may để giành chiến thắng mà chiến thắng này là kết quả tất yếu của sự lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta.

Đề tài 3:
I. CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG ĐỂ GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG TRONG THỜI
KỲ 1945-1946
1. Bối cảnh Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại cho Việt Nam không ít
thuận lợi trong việc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam lại không thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi
“thù trong, giặc ngoài” - những tàn dư sau chiến tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ.
1.1. Thuận lợi
Tình hình thế giới: Sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện khu vực và thế giới có những sự thay đổi lớn có
lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được sự
ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao.
Tình hình trong nước: Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở
thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước.
Đặc biệt, việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở, ra sức
phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam. Quân đội quốc gia và lực lượng Công an; luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dựng và
phát huy vai trò đối với cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.
1.2. Khó khăn
Tình hình quốc tế: trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”,
ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình,
các nước lớn, không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên
ngoài. Cách mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi,
khó khăn, thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
Tình hình trong nước: hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về
nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn, nông nghiệp
bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói
hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945
làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại
thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày 2-9-1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào cuộc mít
tinh mừng ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn-Chợ Lớn.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh-Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải
giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân Nhật giúp sức
quân Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam bộ) vào rạng sáng ngày 23-9-1945, mở
đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam (Đức), từ cuối tháng 8-1945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng
Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh
nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu
thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật
Hoàng thua trận chưa được giải giáp.
Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “như ngàn cân treo sợi
tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.
2. Chủ trương, biện pháp của Đảng để giữ vững chính quyền cách mạng thời kì 1945 – 1946
Trước tình hình của nước nhà lúc bấy giờ, Đảng, Nhà nước ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vô cùng
sáng suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Đảng đã đề ra những chiến lược và sách lược đúng đắn, vạch
ra chủ trương, biện pháp để giữ vững chính quyền cách mạng cũng như bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời đã đề ra hai nhiệm vụ cấp
bách của là cứu đói miền Bắc và kháng chiến ở miền Nam.
Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Dựa trên những nhận định về
tình hình khách quan và chủ quan , về tình hình của ta và địch, Chỉ thị đã chỉ rõ rằng: Cuộc cách mạng Đông Dương lúc
này vẫn là cuộc cách mạng “dân tộc giải phóng”.
Nhiệm vụ trước mắt “là phải củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”.
Để đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam, Đảng đã đưa ra nhiều biện pháp cụ thể trên các lĩnh vực:
Về chính trị: Đảng đẩy mạnh việc bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ, soạn thảo Hiến pháp và tổ chức bầu cử Hội
đồng nhân dân các cấp, hoàn thiện bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở. Mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất,
thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam vào tháng 5-1946 nhằm thu hút cả tầng lớp tư sản và địa chủ yếu nước. Để
bảo toàn lực lượng trước sự tấn công của địch, tháng 11/1945, Đảng ta tuyên bố “tự ý giải tán” mà thực chất là hoạt
động bí mật, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai dưới danh nghĩa hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
Về kinh tế: Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách lúc bấy giờ. Biện pháp cơ bản và lâu
dài là tăng gia sản xuất, phát động phong trào toàn dân tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: “Tăng gia sản xuất ngày, tăng
gia sản xuất nữa”, “Tất đất tất vàng”, khôi phục các nhà máy, mở hợp tác xã, lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy
bạc. Nhờ đó, sản xuất nhanh chóng được khôi phục và phát triển, nạn đói bị đẩy lùi. Phát động nhân dân tự nguyện
đóng góp tiền của, hưởng ứng “Tuần lễ vàng”, xây dựng “Quỹ độc lập”. Ngân sách quốc gia tăng lên hàng chục triệu
đồng với hàng trăm kg vàng, nền tài chính độc lập từng bước được xây dựng. Đồng thời, Chính phủ ra sắc lệnh tịch thu
ruộng đất của địa chủ để chia cho dân nghèo: chia lại ruộng công cho cả nam lẫn nữ; giảm tô 25%; giảm và miễn thuế
cho nhân dân các vùng lũ lụt.
Về quốc phòng, an ninh: Động viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu
dài. Cuối năm 1946, quân đội thường trực đã lên đến 8 vạn người. Việc quân sự hoá toàn dân được thực hiện rộng khắp
cả nước, hầu hết các khu phố, xã, hầm má đều có đội tự vệ. Đó là “bức tường sắt của Tổ quốc” để bảo vệ thành quả
cách mạng.
Về văn hóa, xã hội: Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xoá bỏ mọi tệ nạn văn hóa nô dịch, thực hiện
nền giáo dục mới, phát triển “bình dân học vụ” để diệt “giặc dốt”.
Về ngoại giao: để thoát khỏi “vòng vây đế quốc”, tránh tình thế phải đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng thực
hiện sách lược ngoại giao để mềm dẻo nhằm ngăn chặn chiến tranh, kéo dài thời gian hòa hoãn để xây dựng lực lượng
cách mạng. Những chủ trương đó là:
- Thứ nhất: tạm thời hòa hoãn với Trung Quốc ở miền Bắc để tập trung sức lực chống thực dân Pháp ở miền Nam (từ
tháng 9-1945 đến tháng 3-1946), nhưng ta vẫn bảo đảm nguyên tắc giữ vững thành quả cách mạng và đảm bảo sự lãnh
đạo của Đảng đối với chính quyền. Sách lược ngoại giao sáng suốt này đã làm thất bại một bước âm mưu chống phá
cách mạng của Tưởng và tay sai, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho quân
và dân cả nước tập trung nỗ lực vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam, đồng thời chuẩn bị thế và lực
để đưa cách mạng phát triển trong điều kiện mới.
- Thứ hai: Tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về nước (từ tháng 3-1946 đến tháng 12-
1946). Tạm thời hòa hoãn, có nhân nhượng cần thiết với Pháp trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự chủ của dân tộc. Do
vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946.
Theo đó, Pháp công nhận nước ta là một quốc gia tự do. Việc quân Pháp ra miền Bắc cũng được quy định rõ về địa
điểm, thời gian và số lượng, cụ thể Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân đội
Tưởng rút về nước và sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm. Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí, hai bên sẽ mở
cuộc đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris.
- Sau khi ký Hiệp định, Đảng và Chính phủ kiên trì giải quyết quan hệ Việt - Pháp bằng con đường hòa bình. Tuy
nhiên, do dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, cuộc đàm phán chính thức tại Phôngtennơblô không đi đến kết quả. Để
tranh thủ tối đa khả năng hòa bình, trong thời gian thăm chính thức nước Pháp (từ tháng 5-1946 đến tháng 9-1946,
trước khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14-9-1946. Đây là
nhân nhượng cuối cùng của ta đối với Pháp. Chúng ta không thể nhân nhượng thêm được nữa, cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp đang đến gần.
Với sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong giai đoạn 1945-1946, sự nghiệp đấu
tranh bảo vệ chính quyền cách mạng, vừa kháng chiến vừa kiến quốc của nhân dân ta không những vượt qua những giai
đoạn khó khăn, củng cố và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, đặt nền móng cho thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp, mà còn để lại những kinh nghiệm, bài học quý báu cho kho tàng lý luận về chiến tranh của nhân dân
Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam không những giữ vững được chính quyền cách mạng non
trẻ, mà còn tạo được sức mạnh căn bản, ban đầu để chủ động bước vào kháng chiến toàn quốc.
II. VÌ SAO NÓI VIỆC TỔ CHỨC BẦU CỬ QUỐC HỘI NGÀY 6/1/1946 ĐƯỢC COI LÀ MỘT BIỆN PHÁP
ĐỂ GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN?
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Lâm thời đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
nhiều chính sách quan trọng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để củng cố và tăng cường chính quyền là
phải thực hiện quyền dân chủ cho quần chúng, phải “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính
phủ Chính thức”.
Trên thực tế, nước ta là một nước tự do, độc lập, nhưng về mặt pháp lý chưa được một quốc gia nào trên thế
giới công nhận, thêm vào đó lại đang ở tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” - những hậu quả của chế độ thực dân - phong
kiến: nạn đói, nạn dốt và nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược mới do nhiều kẻ thù bên ngoài cùng lúc tiến hành,
được các thế lực phản động bên trong hậu thuẫn. Bấy giờ, nước ta vừa phải kháng chiến ở miền Nam, vừa phải giải
quyết những nhiệm vụ cấp bách hàng ngày đặt ra, vừa thực hiện sách lược tạm thời hòa hoãn với quân Tưởng ở miền
Bắc, đồng thời lại vừa phải đấu tranh để chống lại những hành động phá hoại điên cuồng của chúng. Do đó, giữ vững
và bảo vệ chính quyền cách mạng là nhiệm vụ hết sức cấp bách, sống còn của nhân dân lúc này.
Bởi vì Chính quyền là công cụ sắc bén, là đòn bẩy để đưa cách mạng tiến lên. Muốn vậy, phải tăng cường khối
đoàn kết toàn dân, hoà hợp dân tộc, xây dựng và củng cố chính quyền. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ cấp thiết,
quan trọng hàng đầu của Nhà nước Dân chủ Cộng hòa ngay sau ngày thành lập là tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu
Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức, đồng thời bảo vệ, phát triển những thành quả của cuộc
Cách mạng tháng Tám vừa mới giành được. Công việc này không chỉ để củng cố và tăng cường chính quyền vững
mạnh, thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân, mà còn làm cho thế giới nhận thấy tính hợp pháp, hợp hiến của một
chính quyền do nhân dân bầu ra.
Để khẳng định địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương sớm tổ
chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính
thức. “Mỗi lá phiếu là một viên đạn bắn vào quân thù”, làm thất bại âm mưu chia rẽ, lật đổ của các kẻ thù.
Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã hoàn toàn thắng lợi. Đó là kết quả của sự
đoàn kết toàn dân, lòng yêu nước đồng thời khẳng định sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân với Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Trong Đáp từ của Quốc Hội tại buổi họp toàn thể đại hội lần thứ nhất ngày 2/3/1946 do ông Nguyễn Đình
Thi đọc có ghi: “Chính quyền vừa giành được, nền dân chủ cộng hòa đã xây đắp ngay, chế độ phổ thông đầu phiếu
được thi hành, và cuộc tổng tuyển cử ngày 6 tháng giêng năm 1946 đã lập nên Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam”.
Kết luận
Do hoàn cảnh đặc biệt của đất nước lúc bấy giờ, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta không phải là một
cuộc Tổng tuyển cử thông thường, mà thực chất là một cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp và dân tộc hết sức
gay go, phức tạp và quyết liệt.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (tháng 1/1946), bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - đánh dấu một bước phát triển mới trong việc củng cố nền độc lập dân tộc vừa
giành được, thực hiện thể chế dân chủ thực sự, thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử là dấu mốc phát triển đầu tiên trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ của nước
Việt Nam, mở ra triển vọng của một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất và
một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội
và đối ngoại.
Từ đó có thể kết luận, cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 được coi là một biện pháp để giữ vững chính quyền
nước ta lúc bấy giờ.

Đề tài 4
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phổ Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà
Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với
phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô,
ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự
chủ trì của Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán,
song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa.
Khả năng hòa hoãn không còn. Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ
động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được
phát đi.
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền
độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Trong
khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ
gì có thể khắc phục được ngay.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công
nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam
Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.
2. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân:
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn.
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù
chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dần Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh
chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19-10-1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường
Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh
Pháp”‘, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng
bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5-11-1946), Hồ Chí Minh đã nêu lên những
việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố
ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn dân kháng chiến của Trung ương
Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chi Minh (19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất
định thắng lợi của Trường Chinh.
3. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 45-54:
– Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm
lược; giành thống nhất và độc lập”.
– Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến
tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải
phóng và dân chủ mới.
– Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
– Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là
một pháo đài.
– Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
+ Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết
với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
+ Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân
và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy.
+ Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
+ Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc,
khoa học, đại chúng.
+ Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống pharn động
thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Là để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn
địch, đánh thắng địch.
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ
nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ
lại.
Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắ Đường lối kháng của Đảng với những
nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về
chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.
4. Kết quả và ý nghĩa lịch sử:
* Kết quả của việc thực hiện đường lối
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc
kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được
thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới.
Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn công binh – pháo binh.
Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường 18, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào…đã tiêu diệt được
nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho cách mạng
Lào…. Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng một Chi Lăng
hay một Đống Đa trong thế kỷ XX .
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm
phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: “lập trường của nhân dân Việt Nam là
kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng”.
* Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất
bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến
tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở rộng địa bàn, tăng thêm
lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
5. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm:
* Nguyên nhân thắng lợi:
– Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động được sức mạnh toàn dân đánh
giặc; có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
– Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc
bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
– Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng chống một kẻ thù
chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu
chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
* Bài học kinh nghiệm:
Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện,
đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững
mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Thứ tư, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo.

Đề tài 5:
Mối quan biện chứng giữa 2 chiến lược cách mạng, cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng DTDCND
ở miền Nam
Sau Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, do âm mưu và những hành động phá hoại Hiệp định Geneve của Mĩ
và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội
khác nhau: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ
ở Đông Dương.
I. Vai trò cách mạng của miền Bắc

1. Giai đoạn 1954 – 1960


Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng miền Bắc là khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh; tiến hành
công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc vững mạnh, trở thành hậu phương vững chắc
cho miền Nam và là căn cứ địa cách mạng của cả nước.

2. Giai đoạn 1961 - 1975


Hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam:
- Tiến hành chi viện cho miền Nam bằng tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc – Nam mang tên Hồ Chí
Minh trên bộ và trên biển
- Khẩu hiệu của miền Bắc: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược hay “Thóc không
thiếu một cân, quân không thiết một người”
- Trong 5 năm (1961 – 1965): ngày càng có nhiều cán bộ quân sự và đơn vị vũ trang được đưa vào miền
Nam để tham gia chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng. Đây chính là nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của
nhân dân miền Nam đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
- Trong 4 năm (1965 – 1968): miền Bắc chi viện cho miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, chiến sĩ cùng hàng
chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men,… Cho thấy được sự chi viện tăng gấp 10 lần so với giai
đoạn trước.
- Trong 3 năm (1969 – 1971): hàng chục vạn thanh niên miền Bắc được gọi nhập ngũ, 60% trong số đó
được chi viện cho các chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia. Khối lượng vật chất đưa vào các chiến trường
tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước đó.
- Riêng năm 1972: miền Bắc tiến hành đưa vào chiến trường 3 nước Đông Dương nhiều đơn vị bộ đội
được huấn luyện, trang bị đầy đủ.
- Trong 2 năm (1973 – 1974): miền Bắc đưa vào chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia hàng vạn cán
bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật.
Từ năm 1974 đến năm 1975: miền Bắc tiến hành đưa vào chiến trường nhiều tấn vũ khí, quân trang, thuốc men,
lương thực, thực phẩm.
Từ năm 1974 đến năm 1975: miền Bắc tiến hành đưa vào chiến trường nhiều tấn vũ khí, quân trang, thuốc men,
lương thực, thực phẩm.
➜ Qua các giai đoạn trên cho thấy về vật chất – kĩ thuật, miền Bắc có nỗ lực phi thường, đáp ứng đầy đủ nhu cầu
to lớn và cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam. Đồng thời cũng nói lên được nguồn chi viện
trong chiến đấu và sản xuất của quân dân miền Bắc đó đã góp phần quyết định vào thắng lợi của quân dân miền
Nam trong cuộc đấu tranh đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mĩ và giải phóng miền Nam.
Không chỉ là hậu phương, miền Bắc còn là chiến trường trực tiếp đánh Mĩ. Với hai lần làm thất bại âm mưu chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ (lần thứ nhất từ 08/1964 - 11/1968, lần thứ hai từ 04/1972 – 01/1973), giành được
thắng lợi to lớn nhất là trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, gây tổn thất
nặng nề và buộc Mĩ quay lại bàn đàm phán và kí Hiệp địnhPari (1973). Những thành tựu của miền Bắc trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với uy tín của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nguồn động viên về
tinh thần to lớn đối với nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

II. Vai trò cách mạng của miền Nam

1. Giai đoạn 1954 – 1959


- Tháng 01 – 1959, kế thừa và phát triển đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, các chiến sĩ miền Nam trong hơn 4 năm đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ thì BCH Trung ương Đảng đã
tổ chức Hội nghị lần thứ 15, xác định nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước, con đường tiến lên của cách mạng
miền Nam.
- Về đường lối cách mạng ở miền Nam, nghị quyết hội nghị chỉ rõ: “Con đường phát triển cơ bản của cách
mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân".

2. Giai đoạn 1960 – 1975


- Trên cơ sở đường lối được xác định từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 1-1961, Bộ Chính trị
BCH Trung ương Đảng họp, ra nghị quyết về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam, trong đó nhấn mạnh
phải ra sức xây dựng lực lượng cả về chính trị và quân sự.
➜ Để làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh của nhân dân miền Nam, Tổng Quân ủy ra chỉ thị thành lập QGPMNVN
- một bộ phận của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam chiến đấu trên chiến trường miền Nam - kiên quyết thực
hiện cương lĩnh, đường lối của Đảng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
QGPMNVN ra đời đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc đấu tranh ở miền Nam, từ khởi nghĩa từng phần sang chiến
tranh cách mạng, góp phần làm thất bại các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, chủ trương lập “ấp chiến
lược” của địch, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Giành thắng lợi trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục
bộ”, cuộc tiến công chiến lược năm 1972, giáng những đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc Mỹ phải
ký Hiệp định Paris (27- 1-1973), rút quân về nước.
Cuối năm 1974, trên cơ sở cục diện chiến tranh có sự chuyển biến thuận lợi, sự trưởng thành vượt bậc của
QGPMNVN về chính trị và quân sự, Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.

III. Mối quan hệ biện chứng giữa 2 chiến lược cách mạng, cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách
mạng DTDCND ở miền Nam
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) xác định nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng cả nước là tiến
hành kháng chiến chống Mĩ cứu nước để thống nhất Tổ quốc, trong đó:
+ Miền Bắc đóng vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng cả nước ➜ Miền Bắc là hậu phương.
+ Miền Nam có nhiệm vụ tiếp tục cuộc cách mạng DTDCND (giải phóng dân tộc đồng thời giải phóng giai cấp)
➜ Miền Nam là tiền tuyến.
➜ Nhận thấy được hai chiến lược cách mạng này có mối quan hệ biện chứng, thuộc 2 chiến lược khác nhau song
trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước nên có mối quan
hệ mật thiết, ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, cụ thể là mối quan hệ hậu phương – tiền tuyến.
- Thập niên 1960 là thời kỳ đầy khó khăn và gian khổ cho nhân dân Việt Nam khi bị chiến tranh xâm
lược của Mỹ và chính phủ Sài Gòn. Tuy nhiên, hai phong trào cách mạng đã phối hợp hoạt động và hỗ trợ lẫn
nhau trong cuộc kháng chiến. Các lực lượng quân đội của miền Bắc (Quân đội Nhân dân Việt Nam) và miền
Nam (Quân Giải phóng Miền Nam) đã cùng nhau chiến đấu để chống lại quân đội Mĩ.
+ Miền Bắc tập trung xây dựng quân đội mạnh mẽ và nỗ lực phát triển kinh tế, điều kiện sống của nhân dân và tăng
cường quân đội.
+ Trong khi đó, Miền Nam đã tập trung vào cuộc kháng chiến và xây dựng cơ sở vật chất cần thiết để hỗ trợ cuộc
kháng chiến, bao gồm các trung tâm huấn luyện quân sự và các khu vực sản xuất.
- Nhìn chung, sự phát triển song hành hỗ trợ lẫn nhau của 2 chiến lược trong giai đoạn 1954 – 1975 được
nêu như trên thể hiện rõ qua nhiều khía cạnh:
+ Thứ nhất, các Đảng cách mạng ở cả 2 miền đều có chung mục tiêu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước
+ Thứ hai, cả 2 miền đều đã tận dụng một số yếu tố bên ngoài như sự giúp đỡ từ Liên Xô, Trung Quốc, Cuba để hỗ
trợ cho việc phát triển kinh tế và xây dựng quân đội.
+ Thứ ba, nhiều nhân vật lãnh đạo của cả 2 miền đều có quan điểm tương đồng trong việc đấu tranh chống đế quốc
và chống Mĩ.
- Trong sự phát triển của toàn bộ cuộc cách mạng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là “nhiệm
vụ quyết định nhất" bởi vì miền Bắc phải càng vững mạnh thì miền Nam mới có hậu phương càng vững chắc.
Miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa mới có thể trở thành nền tảng để thực hiện cách mạng giải phóng miền Nam.
- Nhìn chung, hai cách mạng XHCN ở miền Bắc và DTDCND ở miền Nam đã để lại sự ảnh hưởng rất lớn
đến Việt Nam hiện nay. Từ một quốc gia bị chia cắt, Việt Nam đã đoàn kết lại với nhau, trở thành một quốc gia
độc lập, thống nhất và phát triển. Cả hai chiến lược này đều để lại bài học quý giá cho chúng ta về sự đoàn kết, sự
kiên trì và sự hy sinh cho sự nghiệp độc lập, tự do, thống nhất và phát triển của
đất nước.
- Mặc dù có nhiều khác biệt trong phương pháp đấu tranh, mỗi cuộc cách mạng giải quyết một vấn đề song
cả hai luôn gắn bó chặt chē, phối hợp, tạo điều kiện cho nhau. Tất cả tạo nên mối quan hệ biện chứng giữa cách
mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng DTDCND ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975.
Đề tài 6:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO NHẬN ĐỊNH: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn
quân đội viễn chinh và chư hầu vào miền Nam Việt Nam nhưng so sánh tương quan lực lượng trên chiến trường
không thay đổi ?”
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến trong cả
nước. Đảng ta đã nhận định: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam nước ta
nhưng so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch không có sự thay đổi lớn” dựa trên 06 vấn đề cơ bản sau:
1. “Thế” và “lực” của ta và địch trên chiến trường
- Về phía ta: Quân ta đang giành thế chủ động tấn công trên mọi mặt trận, đã đánh tan chiến lược chiến tranh
đặc biệt của kẻ thù, vì vậy tạo niềm tin và sức mạnh tinh thần rất lớn, đặc biệt chúng ta đang ở thế tiến công.
- Về phía địch: Mỹ đưa quân vào miền Nam nhằm cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn trong chiến lược
chiến tranh đặc biệt, cho nên kẻ thù rơi vào trạng thái hoang mang lo sợ, bị động do chúng ta đã chiến thắng
chúng trên chiến trường.
Vì vậy, khi quân địch tăng cường quân viễn chinh, mặc dù cũng là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới
nhưng chiến lược chiến tranh cục bộ buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và thế bị động cho nên chứa
đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược.
2. Đế quốc Mỹ đối mặt với sự phản đối của các lực lượng tiến bộ trên thế giới
Mỹ tăng cường quân viễn chinh cũng chỉ là hành vi uy hiếp tinh thần, chúng muốn chứng tỏ sức mạnh quân sự
của mình nhưng thực chất bộc lộ sự nhu nhược và bất lực. Bởi lẽ, chúng đang tiến hành một cuộc chiến tranh
xâm lược phi nghĩa nhưng nhân dân ta đang tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại đế quốc để giành
độc lập, tự do, vì vậy ta luôn được sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Chính điều này cũng phần nào tạo tâm lý lo
ngại cho kẻ địch nhưng lại là nguồn lực tinh thần vô cùng to lớn cho chúng ta tiến công địch khi chúng tăng
cường quân viễn chinh.
3. Vị trí địa lý, địa hình của chiến trường miền Nam
- Miền Nam là vùng đồng bằng nhưng lại có tính phức tạp, có nhiều vùng chiêm trũng rộng lớn…vì vậy khi
quân thù tăng cường quân viễn chinh buộc phải dàn mỏng lực lượng để đối phó với quân đội ta (áp dụng lối
đánh du kích). Do đó khi chúng rải quân cũng sẽ rơi vào bất lợi, lực lượng mỏng sẽ không thể phát huy sức
mạnh quân đội. Hơn nữa, lực lượng chính yếu của Mỹ trong chiến lược chiến tranh đặc biệt trước đó chủ yếu là
quân đội Sài Gòn, vì thế mà lực lượng Mỹ và đồng minh được “chi viện” vào lúc này cũng không thể nhanh
chóng làm quen địa hình đầy tính phức tạp như chiến trường miền Nam.
- Trong khi đó, quân ta lại am hiểu quá rõ về địa hình miền Nam, ta đã từng đánh bại kẻ thù trong chiến lược
chiến tranh đặc biệt tại chiến trường này.
Chính vì vậy, càng có thể khẳng định địa hình miền Nam mối quan ngại đối với Mỹ và đồng minh tay sai.
4. Thế trận “lòng dân” được hình thành từ quá trình chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và có sự phát
triển mạnh mẽ.
- Cùng với lực lượng cách mạng miền Bắc, nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động chiến
trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu lâu dài và trước mắt của địch.
- Hàng loạt phong trào thi đua yêu nước, chống giặc ngoại xâm phát triển rộng khắp, thu hút sự tham gia của
hàng triệu người Việt Nam tham gia.
5. Đế quốc Mỹ bị ràng buộc trong khuôn khổ chiến tranh thực dân kiểu mới
Phương thức xâm lược và chính sách thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ luôn luôn quyện chặt vào nhau và
chứa nhiều mâu thuẫn. Chiến tranh càng mở rộng, kéo dài thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà Nhà
Trắng và Lầu Năm Góc không thể khắc phục:
- Mâu thuẫn thứ nhất: Mục đích của Mỹ là muốn giấu mặt trá hình áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, muốn
dùng âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” để chúng không tiếng ác. Chúng phải dựa vào bọn tay sai bản
địa (chính quyền Sài Gòn) để thực hiện mục tiêu xâm lược nhưng bọn tay sai lại rất yếu và đã thất bại thảm hại
trong chiến tranh đặc biệt nên buộc chúng phải tiến hành chiến tranh mới bằng quân viên chính của Mỹ nên
chúng nhanh chóng bị lộ mặt.
- Mâu thuẫn thứ hai: Mỹ phải vừa tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, vừa phải xây dựng chính quyền và quân
đội tay sai làm chỗ dựa và công cụ để bóc lột.
- Mâu thuẫn thứ ba: Tuy có tiềm lực về quân sự, nhưng vì sự phi nghĩa của cuộc chiến tranh, cùng với đó là sự
chi phối của thời đại, Mỹ càng không thể sử dụng toàn diện nguồn lực của mình trong một cuộc chiến cách xa
nước Mỹ.
Chính những mâu thuẫn này, đã tạo ra một rào cản rất lớn trong việc xây dựng chiến lược, đó là điểm chí mạng
mà Đảng ta đã nhận định trong chính sách của kẻ thù, từ đó có những nhận định và bước đi đúng đắn.
6. Đảng ta xác định phương châm: “Đánh lâu dài”
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang đứng vào một thế thuận lợi... Mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam
hàng chục vạn quân viễn chỉnh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Vì vậy, cách mạng
miền Nam vẫn phải giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Cần phải động viên lực lượng của cả nước
kiến quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Trên
cơ sở phương hướng và nhiệm vụ, Trung ương đề ra phương châm: Ra sức hạn chế cuộc chiến tranh của địch
và đánh thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, dãy chúng ngày
càng bị sa lầy thì ta nhất định giành thắng lợi quyết định ở miền Nam. Phương châm chiến lược là đánh lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, đồng thời phải tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, kết hợp vừa đánh, vừa đấu tranh
chính trị và ngoại giao. Kiên trì kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp
công.
* Đánh giá:
- Tất cả các cơ sở trên đã được Đảng ta phân tích và nghiên cứu rất kỹ, không chủ quan, nóng vội, khinh địch
mà rất khoa học, thể hiện tư duy nhạy bén về quân sự và thế tiến công. Một lần nữa ta khẳng định, dựa trên cơ
sở lý luận và thực tiễn rõ ràng, Đảng ta đã sáng suốt nhận định “mặc dù đế quốc Mỹ đình vào miền Nam hàng
chục vạn quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam Việt Nam nhưng so sánh tương quan lực lượng trên chiến
trường không thay đổi”. Điều này giúp Đảng để ra được những đường lối đấu tranh đúng đắn, tạo niềm tin cho
quân và dân ta trước kế hoạch mới của kẻ thù, giành thắng lợi vẻ vang trước quân thù hùng mạnh nhất thế kỷ
XX.
- Sức mạnh và tính bền vững của một hậu phương được tổ chức chặt chẽ và khối đại đoàn kết toàn dân không
ngừng được chăm lo, mở rộng, tăng cường, nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Điều này tạo nên sức mạnh dân tộc, củng cố niềm tin toàn dẫn trước kẻ thù mình, ở chủ động. Trong khi
đó, chính nước Mỹ lại bị rung động, nội bộ chia rẽ bởi những thất bại ngày càng nặng trong cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam. Việc đưa quân viễn chinh vào miền Nam là một bước đi thu đông, nhằm ra oai về sức
mạnh quân sự và dọn dẹp tàn dư của một chính quyền Sài Gòn thối nát.
Như vậy, nhận định trên của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, là tiền đề quan trọng cho các chiến lược tiếp theo,
giúp quân và dân ta đánh bại trước mặt là “Chiến tranh cục bộ”, sau là các chiến lược tiếp theo của Mỹ, giành
lại độc lập dân tộc.
NHỮNG NHẬN ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ CHUNG
 Như vậy, nhận định của Đảng trong nghị quyết 11 và 12 năm 1965 về tương quan lực lượng giữa quân đội Mỹ
và Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở.
 Nhận định được đưa ra dựa trên những phân tích và đánh giá cụ thể, hợp lí trên cả phương diện tinh thần và vật
chất. Đây không phải là ý kiến được đưa ra một cách chủ quan, nóng vội, khinh địch mà nó thể hiện được tài
mưu lược về khoa học quân sự, tầm nhìn chiến lược của Bộ tổng tham mưu.
 Từ nhận định trên, Đảng và Bộ chính trị đã đề ra được những đường lối và kế hoạch đúng đắn, tạo dựng niềm
tin trong lòng quân và dân, là tiền đề quan trọng để có thể phá tan chiến lược mới của quân thù.
 Bằng chứng là những chiến thắng quan trọng trong “Chiến tranh cục bộ”, góp phần đẩy lùi ý chí và binh lực
của quân đội Mỹ: Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi) mùa hè năm 1965, Chiến thắng Núi Thành (26-05-
1965).
 Kháng chiến chống Mỹ giai đoạn trên được đánh giá là “phiêu lưu mạo hiểm”, Việt Nam đánh Mỹ lúc này
chẳng khác nào “châu chấu đá voi”, “đem trứng chọi đá”. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh đây là quan điểm
đúng đắn, có cơ sở khoa học. Ta đã thắng Mỹ không chỉ bằng sự đồng lòng, mà còn bằng bản lĩnh, trí tuệ và
những sách lược mang tính lịch sử.

Đề tài 7:
Nội dung đường lối chung cách mạng cả nước được Đại hội IV thông qua. (chép giáo trình)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước ta là:
“Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba
cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa,
trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế
độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc
phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội”14. Trong đường lối chung thể hiện nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở
nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn
hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp
phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát
triển quan hệ kinh tế với các nước khác.
Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa (1976-1980) nhằm hai mục tiêu cơ
bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới; tăng cường Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị
và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào
và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng,
toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến, vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi
viện cho chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Trong điều kiện đó không thể áp dụng đầy đủ các quy
luật kinh tế, không thể hạch toán kinh tế mà tất yếu phải thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong điều kiện đó, chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội
đã bộc lộ rõ sau chiến tranh. Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả
năng thực tế... là những chủ trương nóng vội, thực tế đã không thực hiện được.

CÁCH KHÁC:
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà Nội. Đại hội đã thông qua nhiều báo
cáo quan trọng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng,
bầu Ban Chấp hành Trung ương, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư của Đảng.
(có thể bỏ nếu không đủ thời gian) Đại hội khẳng định thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc.
Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới:
 Nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
 Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi rất
lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới
gây ra.
 Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh
“ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt”.
Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng đó là sự
nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo
trong quá trình cách mạng. Trong ba đặc điểm trên, đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước đi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
*Đường lối chung :
+ Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
+ Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội.
 Mô hình mục tiêu :
1. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
2. Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
3. Xây dựng nền văn hóa mới.
4. Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
 Mục đích đường lối chung :
+ Xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
+ Xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.
+ Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
*Đường lối kinh tế :
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp;
+ Kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất;
+Tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước
khác;
 Mục đích đường lối kinh tế :
+ Bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
+ Tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể.
+ Coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội.
+ Coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy
mạnh hợp tác với Liên Xô.
+ Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng
định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra
sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
(có thể bỏ nếu không đủ thời gian) Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: …. thực hiện
được. (GIỐNG CÂU CUỐI CÁCH TRÊN)

Đề tài 8:
Làm rõ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới.
Do cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp ko còn phù hợp, bao cấp qua giá, bao cấp qua lương, bao cấp qua ngân
sách ko còn phù hợp nữa. Chính vì vậy nó đã bộc lộ những cái yếu kém, nó đã triệt tiêu những động lực, triệt tiêu
môi trường cạnh tranh và đồng thời làm các DN bao cấp lời ko dc thu, lỗ không được bù, kiềm hãm sự phát triển
khcn
Tiền đề đổi mới đã chín muồi: về nhận thức, tồn tại nền kinh tế khách quan và phê phán nền kt bao cấp; quyết định
25, 26 CP của chính phủ cho các dn tự chủ trong sx kinh doanh; đến ĐH đảng lần thứ V đã nhìn nhận lại thời kỳ
quá độ; nghị quyết 08 về giá thu tiền vào 1985; kết luận của bộ chính trị và ban bí thư cơ cấu kt nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tất cả những điều này đã cho phép chúng ta đổi mới
toàn diện.
Trên thế giới có 1 sự thay đổi, đó là cnxh khủng hoảng dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô, năm 90 bức tường berlin
sụp đổ, năm 91 Liên Xô sụp đổ chính vì vậy đây là 1 sự chấn động chính trị chưa từng có trong lịch sử CM thế
giới. Đối với VN, tình hình thế giới đã có sự tác động đặc biệt là ở LX, mà mô hình cnxh ở VN đi theo mô hình
của LX. Chủ nghĩa tư bản hiện vẫn còn tiềm năng về chính trị, kt, vh,......những tác động buộc chúng ta phải đổi
mới

Nội dung đường lối đổi mới được Đại hội VI thông qua.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI toàn diện trên các lĩnh vực, nổi bật ở những nội dung sau:
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm,
chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ
yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa
hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ
chức và công tác cán bộ của Đảng. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mơi. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Về kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu
dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế
lớn là lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa
trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước
đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết
thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Năm phương hướng lớn
phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh
mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Về chính sách xã hội, Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, cần có
chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu
tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động. Thực hiện công
bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các
nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Về quốc phòng và an ninh: Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết
đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ
quốc.
Về nhiệm vụ đối ngoại: Góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam
Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện
với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Về xây dựng Đảng: Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tư tưởng; đổi mới
công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết
nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của
quần chúng.
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt phát triển mới trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách mạng, tạo bước
ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội VI là chưa tìm ra những giải
pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.

Đề tài 9:
2.4 Nhận thức và thành tựu của Đảng ta xuyên suốt từ Đại hội VII đến Đại hội XII
2.4.1 Nhận thức của Đảng
Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do Đại hội VII đề ra (6 – 1991) và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011 là quá trình không
ngừng phát triển nhận thức về CNXH và con đường XHCN dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của Việt
Nam. Sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do những hạn chế, yếu kém kéo dài
không được khắc phục, do sai lầm trong nhận thức và lãnh đạo, quản lí không được sửa chữa và nhất là do sự tấn
công trực diện của các thế lực thù địch và phản bội. Cũng chính từ thất bại và tổn thất to lớn đó là bài học để các
Đảng Cộng Sản, các nước kiên định con đường XHCN, trong đó có Việt Nam phải không ngừng đổi mới tư duy
lý luận và tổng kết thực tiễn để tìm ra quy luật phát triển riêng. Kiên định, trung thành với lý luận Mác – Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng phải không ngừng đổi mới và phát triển sáng tạo mới thành công.
Có thể thấy, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Trước
hết, sáng tỏ về mô hình, mục tiêu của CNXH Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), đã xác định 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng hàng đầu là xây
dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các đặc trưng về vai trò làm chủ của nhân dân,
về nền kinh tế phát triển cao, về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, về xã hội và con người, về đoàn
kế các dân tộc, về nhà nước pháp quyền và về hợp tác, hữu nghị trong quan hệ quốc tế, đã làm rõ bản chất tốt đẹp
và tính hiện thực của CNXH ở Việt Nam.
Sáng tỏ hơn về những nội dung phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu theo định hướng XHCN;
Xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội;
Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hào bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất;
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH cũng làm rõ hơn khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến
lên CNXH. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo,
phát triển chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, tăng
cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nâng cao năng lực dự báo, xử lí có hiệu quả những vấn đề mới nảy
sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, phản ánh quy luật đổi mới và phát triển. “Đó là quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
2.4.2 Thành tựu
Về kinh tế:
Trong thời kỳ Đại hội VII, nền kinh tế từng bước phát triển, đạt được nhiều tiến bộ quan trọng trong việc
thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, huy động các nguồn lực sản xuất của xã hội, lạm
phát được kiềm chế, cuộc sống của một số người đã được cải thiện. Tổng sản phẩm quốc nội tăng 8,2%/năm,
công nghiệp tăng trưởng 13,3% hàng năm. Sản xuất lương thực tăng 26%. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và
kinh tế nông thôn. Dịch vụ đã tăng 80%. Giao thông vận tải tăng 62%. Lạm phát giảm từ 67,1% (1991) xuống
12,7% (1995).
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, nền kinh tế đang hoạt động khá tốt. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tăng trưởng bình quân hàng năm là 7%. Nông nghiệp không ngừng phát triển, đặc biệt là sản xuất
lương thực. Nuôi trồng thủy sản và sử dụng thủy, hải sản ngày càng phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp bình
quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống cơ sở hạ tầng: bưu chính viễn thông, đường, cầu, bến cảng, sân bay, điện,
thủy lợi... được hoàn thiện. Các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu có bước phát triển. Năm 2000, tình trạng suy
giảm tăng trưởng kinh tế đã chấm dứt và các mục tiêu chính đều đạt hoặc vượt.
Nền kinh tế có sự tăng trưởng liên tục, đặc biệt là tăng tường GDP đạt 6,81% cao nhất kể từ 2009. Trung
ương Đảng ban hành Nghị quyết xác định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trở thành động lực của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về văn hóa – xã hội:
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng
lên, số hộ nghèo giảm. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Người lao động
được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động
sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Giáo dục và đào tạo ngày càng tăng về quy mô và cơ sở vật chất. Mặt bằng dân trí, chất lượng nguồn
nhân lực được cải thiện. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, báo chí, biên tập tích cực động viên toàn dân tộc tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao trình độ dân trí và chất lượng cuộc sống. Nhu cầu cơ bản của dân cư về ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe,
nước uống, điện phục vụ sinh hoạt, học tập, đi lại và giải trí... được đáp ứng tốt hơn. Phát triển phong trào thể
dục, thể thao; nhiều bộ môn đã đạt thành tích cao trong và ngoài nước. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
được đẩy mạnh.
Công tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức, nhiều biện pháp; Cuối năm 2005, tỷ
lệ hộ nghèo (theo chuẩn Việt Nam 2001-2005) là 7% (năm 2001 là 17,5%, dự kiến 10%). Thông qua kết hợp tốt
nguồn lực nhà nước và nhân dân, đã xây dựng được nhiều kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho vùng nông
thôn, miền núi, vùng dân tộc. Trong 5 năm đã tạo công ăn việc làm cho 7,5 triệu lao động. Thu nhập bình quân
đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên hơn 10 triệu đồng năm 2005. Khống chế và đẩy lùi nhiều loại dịch
bệnh nguy hiểm. Tuổi thọ trung bình của dân số nước ta đã tăng từ 67,8 (năm 2000) lên 71,5 (năm 2005).
Về chính trị:
Giữ vững ổn định chính trị, độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo khuôn khổ cho
công cuộc đổi mới.
Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh tổng hợp của quốc phòng và an ninh nhân dân được
phát huy, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo. Tổ chức của quân đội và cảnh sát đã được điều
chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới. Đã đạt được tiến bộ trong việc liên kết giữa quốc phòng và an ninh, phát
triển kinh tế và chính sách đối ngoại.
Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển khai
quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ án kinh tế,
tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng
viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.
Công tác thanh tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển khai
quyết liệt, bài bản, toàn diện với những kết quả cụ thể, rõ ràng. Nhiều vụ án kinh doanh, tham nhũng đã bị phanh
phui, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, có tính răn đe và cảnh cáo, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan
nghênh, đánh giá cao, được đồng tình hưởng ứng. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kéo giảm và ngăn chặn.
Về đối ngoại:
Phát triển quan hệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công cuộc dựng nước và giữ nước. Nước ta
duy trì quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, quan hệ thương mại với hơn 100 nước. Các công ty từ hơn 50 quốc
gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế tài trợ hoặc cho vay
để phát triển.
Nước ta tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác đa dạng với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng
giềng, bạn bè truyền thống; tích cực tham gia các hoạt động thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và
đa phương với một số đối tác quan trọng; phát triển và tăng cường liên kết hợp tác với các đối tác; góp phần
quan trọng vào việc hình thành và mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác trong thời
gian diễn ra Đại hội X.
Đóng góp tích cực, có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và khu vực, được cộng
đồng quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế của Đảng, Nhà nước, thế và lực của đất nước không
ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Việt Nam đảm nhận thành công trọng trách Chủ tịch ASEAN 2020,
Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA 41) và Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động
mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt
được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng
trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2.91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam đã bắt nhịp nhanh, tham gia đóng góp tích
cực, chủ động và toàn diện trên tất cả các vấn đề của Hội đồng Bảo an LHQ.

KẾT LUẬN
Nhìn lại 35 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về CNXH Việt Nam đã có những bước tiến bộ quan trọng:
quá độ lên CNXH; phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; văn hóa; giữ vững môi trường hòa bình, độc
lập tự do, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế; phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng
cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc. Những bước phát triển quan trọng trong nhận
thức của Đảng về CNXH Việt Nam cho thấy tầm vóc, quy mô, tính chất, chiều sâu và ý nghĩa của công cuộc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng được nâng lên. Đồng thời cũng minh chứng cho năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm
của Đảng ta đối với giai cấp, nhân dân, và toàn thể dân tộc trên con đường xây dựng CNXH. Nhưng để đảm bảo
cho CNXH giành thắng lợi cuối cùng thì cần phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò
chủ thể của Nhân dân mà nòng cốt là khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; đảm bảo độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ là tiền đề tiến lên CNXH. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự ý thức được sứ mệnh, trọng
trách trước giai cấp, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Để hoàn thành sứ mệnh, trọng trách lớn lao đó, trong
quá trình lãnh đạo, Đảng luôn coi trọng tự đổi mới và tự chỉnh đốn. Sau 35 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về
CNXH Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng, minh chứng cho năng lực, trí tuệ, bản lĩnh và trách
nhiệm của Đảng ta đối với giai cấp nhân dân và dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đề tài 10:
Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, là mục tiêu phấn đấu, là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách
mạng Việt Nam. Điều khẳng định trên đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh. Bằng sự kết
hợp chặt chẽ hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam đã huy động sức mạnh của
cả dân tộc tiến hành thắng lợi cách mạng tháng Tám, giành độc lập dân tộc, hoàn thành hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, đưa cả nước đi lên CNXH.
Trước hết, chúng ta phải thấy rằng độc lập dân tộc là tiền để là điều kiện cho sự nghiệp xây dựng CNXH. Không
có độc lập dân tộc, không có chính quyền của nhân dân, không thể xây dựng được CNXH: vì mục tiêu của CNXH
là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, đưa lại hạnh phúc cho người lao động. Một chế độ xã hội như vậy
không thể thực hiện được trong chế độ thực dân phong kiến. Chúng ta chỉ giành lại được độc lập, chỉ có độc lập
thực sự, khi đi theo con đường XHCN. Bằng chứng là: hàng loạt các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trước
khi có Đảng cộng sản lãnh đạo, dù rất anh dũng kiên cường nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Ngày nay, khi đã có
độc lập dân tộc, chỉ đi lên CNXH chúng ta mới có độc lập một cách thực sự và đưa lại hạnh phúc cho những người
lao động, vì “... CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bắn cùng, làm cho mọi người có công
ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” (12,17). Khi người dân đã được hưởng những giá trị, thành
quả của chủ nghĩa xã hội đem lại. họ sẽ mang hết sức mình ra để bảo vệ độc lập dân tộc.
Như chúng ta đã biết, đấu tranh giành độc lập dân tộc là bước mở đầu để Việt Nam có điều kiện đi lên CNXH,
CNXH là lí tưởng. là mục tiêu phấn đấu của chúng ta, bởi lẽ “chúng ta đấu tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được
ăn no mặc đủ". (9,152)
Muốn thực hiện được mơ ước trên không có con đường nào khác là con đường cách mạng XHCN. Bởi lẽ, những
cuộc cách mạng trước đây, giai cấp lãnh đạo chỉ cần tới những người lao động trong quá trình đấu tranh giành
chính quyền, khi đã có chính quyền họ quay trở lại áp bức bóc lột những người lao động. Chỉ có cuộc cách mạng
XHCN dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới xoá bỏ mọi nguồn gốc gây ra áp bức bóc lột, đi đến một xã
hội mà "... tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển *** tự do của mọi người"(7,569).
Như vậy, độc lập dân tộc gắn với CNXH ở Việt Nam đã được minh chứng trong lịch sử và sự gắn kết đó hiện nay
vẫn là một là tự nhiên. Chúng ta cần nhận thức một cách đúng đắn vấn đề này để cùng nhau chung sức, chung lòng
tập trung mọi tài năng trí tuệ phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ ngày 20 đến ngày 27-5-1959, đã diễn ra kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I. Quốc hội đã nghe trình bày và
thảo luận báo cáo của ông Trường-Chinh “Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hóa
nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Quốc hội nhận định đó là khâu chính trong toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và nhất
trí tán thành những quy định về mục đích, yêu cầu, đường lối giai cấp, phương châm, nguyên tắc, những chính
sách cụ thể nêu lên trong báo cáo.
Hiến pháp mới chính thức xác định miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp
mới là cương lĩnh chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng đời sống mới của nhân dân Việt Nam. Hiến pháp
đã dành cả chương VI với tiêu đề “Hội đồng Chính phủ” để quy định về tổ chức và hoạt động của Chính phủ.
Từ 5 đến 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã họp ở Thủ đô
Hà Nội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: Từ ngày hoà bình lập lại,
cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền
Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này
là:“Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc; đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà
trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông-Nam á và thế giới”.
Đến cuối năm 1960, ở miền Bắc, 84,8% số hộ nông dân lao động đã gia nhập hợp tác xã, chiếm 76% tổng
diện tích canh tác; trong 41 nghìn hợp tác xã có 4.346 hợp tác xã bậc cao, chiếm 12% tổng số hợp tác xã. Nghề cá
có 520 hợp tác xã, chiếm 77,2% tổng số hộ nông dân. Nghề muối có 269 hợp tác xã, chiếm 85% tổng số hộ làm
muối.
Ở thành thị, 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành xí
nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác. 1.553 chủ tư sản được cải tạo thành người lao động. 90% tổng số thợ
thủ công trong diện cải tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp bậc vừa và bậc thấp; hơn 7 vạn thợ thủ
công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. 60% tổng số người buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, kinh doanh ngành ăn uống
thuộc diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm đại lý cho thương nghiệp quốc doanh và trên 1 vạn
người đã chuyển sang sản xuất.
Đi đôi với cải tạo quan hệ sản xuất, kế hoạch Nhà nước trên nhiều lĩnh vực đã hoàn thành, thành phần kinh
tế quốc doanh ngày càng phát triển, có tác dụng lãnh đạo rõ rệt trong nền kinh tế quốc dân. Từ 16 nông trường
quốc doanh năm 1957 đã lên 59 nông trường quốc doanh năm 1960. Công nghiệp quốc doanh năm 1960 chiếm
89,9% giá trị sản lượng công nghiệp. Vận tải quốc doanh chiếm 79,7% tổng khối lượng vận tải hàng hoá tính theo
tấn/km. Thương nghiệp quốc doanh chiếm 49,5%, nếu kể cả thương nghiệp hợp tác xã và tư bản nhà nước chiếm
91%.
Về nông nghiệp, trong ba năm, mặc dù năm 1960 có thiên tai lớn, sản xuất vẫn tăng trung bình mỗi năm
5,6%. Cơ cấu nông nghiệp có biến đổi. Cây công nghiệp và chăn nuôi phát triển nhanh hơn, phục vụ yêu cầu sản
xuất công nghiệp, xuất khẩu và nâng cao đời sống nhân dân. Phong trào cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ lao động
trong nông nghiệp có nhiều tiến bộ. Nhiều công trình thuỷ lợi nhỏ và vừa được xây dựng bảo đảm nước tưới, nước
tiêu cho đồng ruộng hợp tác xã và của nông dân. Một số công trình lớn được khởi công, tiêu biểu là công trình
thuỷ lợi Bắc-Hưng-Hải.
Sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 21,7%, riêng công nghiệp quốc doanh tăng 49,6%. Năm
1960 so với năm 1959, công nghiệp quốc doanh vượt 12,6% và tăng 32,3%. Đặc biệt công nghiệp địa phương có
đà phát triển mạnh, năm 1960 tăng gấp 10 lần năm 1957. Cơ cấu công nghiệp cũng chuyển biến. Công nghiệp
nặng bước đầu được xây dựng. Tỷ trọng nhóm A trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng
từ 23,5% năm 1957 lên 32% năm 1960. Công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm năm 1960 so với năm 1957
tăng 60,4%. Hầu hết hàng tiêu dùng trong nước trước đây phải nhập nay đã tiến tới tự cung cấp được một phần
quan trọng.
Xây dựng cơ bản được đẩy mạnh. Một số công trình quan trọng đã được hoàn thành như Nhà máy điện
Vinh, Nhà máy điện Lào Cai, mỏ Apatít Lào Cai mở rộng, các nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá ở Hà Nội, nhà
máy sứ Hải Dương...
Trên cơ sở sản xuất phát triển, mức sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động được nâng cao một
bước. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người từ năm 1955 đến năm 1960 tăng gấp đôi, sức mua của xã hội tăng
70%.
Ngày 16-1-1961, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định thành lập Ủy ban trị thủy sông Hồng (gọi tắt là Ủy ban
sông Hồng).
Tháng 7-1961, Hội nghị toàn thể lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
(khóa III) đã ra Nghị quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Từ ngày 24-10 đến ngày 27-10-1961, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá II, đã thông qua Nghị quyết sáp nhập
huyện Đông Triều (Hải Dương) vào Khu Hồng Quảng; Nghị quyết về tình hình thế giới và công tác đối ngoại của
Chính phủ; Tuyên bố của Quốc hội về tình hình miền Nam và tình hình đấu tranh thống nhất nước nhà; Lời kêu
gọi của Quốc hội Việt Nam gửi Quốc hội các nước trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam
chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm.
Ngày 27-11-1961, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Nghị định phê chuẩn các phương án chữ Tày-Nùng, chữ
Thái và chữ Mèo. Từ đây, đồng bào các dân tộc Tày-Nùng, Thái, Mèo có chữ viết riêng của dân tộc mình.
Từ ngày 18 đến ngày 26-4-1962, Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá II thông qua kế hoạch Nhà nước năm 1962;
dự toán ngân sách Nhà nước năm 1962 và ra Bản Tuyên bố lên án đế quốc Mỹ vũ trang xâm lược miền Nam Việt
Nam.
Từ ngày 4 đến ngày 6-5-1962, Đại hội liên hoan Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ 3 họp tại Hà
Nội. Dự đại hội có 1.060 đại biểu được tuyển lựa từ cơ sở thuộc đủ các ngành, các giới (công nghiệp, nông nghiệp,
lực lượng vũ trang, lao động trí óc, sự nghiệp hành chính, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh, thiếu nhi). Đại hội đã
tuyên dương 4 đơn vị lá cờ đầu là: Nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), Hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong
(Quảng Bình), Hợp tác xã thủ công nghiệp Thành Công (Thanh Hoá), Trường phổ thông cấp II Bắc Lý (Hà Nam),
Phong trào Ba Nhất của Quân đội và 45 Anh hùng Lao động.
Ngày 4-6-1962, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập thành phố Việt Trì. Thành phố Việt Trì nằm
trên ngã ba sông Lô và sông Hồng, là một thành phố hoàn toàn mới do cán bộ, công nhân Việt Nam xây dựng và
cũng là thành phố đầu tiên được thành lập từ khi hoà bình lập lại.
Từ ngày 23 đến ngày 27-10-1962, Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II, đã thông qua: Luật Tổ chức Hội đồng
Nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp; Nghị quyết về việc đổi tên Khu tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây
Bắc; Nghị quyết hợp nhất thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An thành thành phố Hải Phòng; Hợp nhất tỉnh Bắc
Ninh và tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc.
Ngày 30-10-1962, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định thành lập Ngân hàng Ngoại thương nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 2-1-1963, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ quyết định mở cuộc vận
động đồng bào miền xuôi đi tham gia phát triển kinh tế, văn hoá miền núi.
Ngày 19-2-1963, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác
xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển vững chắc sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc”. Sau đó,
ngày 1-6-1963, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết mở rộng cuộc vận động này. Đến cuối tháng 12-1964, có
15.287 hợp tác xã nông nghiệp thuộc 20 tỉnh, thành phố, vùng đồng bằng và trung du đã hoàn thành lần thứ nhất
cuộc vận động, chiếm 76% tổng số hợp tác xã nông nghiệp.
Tháng 4-1963, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 8 bàn về
kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng đã đề ra. Hội nghị đã kiến nghị những phương hướng, nhiệm vụ, những chỉ tiêu, biện pháp chủ yếu của kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa,
tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Từ ngày 29-4 đến ngày 4-5-1963, Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá II, đã thông qua: Nghị quyết tán thành
đường lối, chính sách của Chính phủ về tình hình miền Bắc và những vấn đề lớn của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965), về phong trào yêu nước ở miền Nam, tình hình quốc tế và chính sách ngoại giao của Việt Nam.
Ngày 20-7-1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết mở cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng
cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” trong ngành công nghiệp, gọi
tắt là “Ba xây, ba chống”. Sau đó, ngày 20-10-1963, Hội đồng Chính phủ chính thức phát động cuộc vận động“Ba
xây, ba chống”.
Tháng 10-1963, Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá II, đã nghe Báo cáo của Chính phủ về tình hình miền Nam và
tình hình đấu tranh thống nhất nước nhà. Quốc hội nhất trí thông qua: Lời kêu gọi của Quốc hội nhiệt liệt biểu
dương lòng yêu nước nồng nàn và chí khí đấu tranh bất khuất của đồng bào miền Nam anh hùng. Quốc hội đã
quyết định hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng thành tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 31-12-1963, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết ban hành kế hoạch phát động phong trào làm thuỷ
lợi toàn miền Bắc hai năm 1964-1965.
Từ ngày 14 đến ngày 17-1-1964, Đại hội các hợp tác xã tiên tiến vùng đồng bằng toàn miền Bắc họp tại
Thái Bình. 10 Anh hùng Lao động, 30 chiến sĩ thi đua nông nghiệp cùng với đại biểu của 245 hợp tác xã đã nghe
các bản báo cáo của các hợp tác xã tiên tiến. Đại hội đã kết luận được 5 vấn đề quan trọng: Phương hướng sản
xuất, quản lý lao động, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, phân phối, công tác chính trị và tư tưởng trong các hợp
tác xã nông nghiệp. Tiếp đó, từ ngày 13 đến ngày 18-4-1964, Đại hội các hợp tác xã và đội sản xuất nông nghiệp
tiên tiến miền núi và trung du do Thủ tướng Chính phủ triệu tập đã họp tại Thái Nguyên. Đại hội đã biểu dương
những thắng lợi to lớn của phong trào hợp tác hoá và sản xuất nông nghiệp ở miền núi và trung du, khẳng định
những thành tích đã đạt được, đồng thời giúp các hợp tác xã trao đổi kinh nghiệm học tập lẫn nhau, đưa phong trào
hợp tác hoá và sản xuất nông nghiệp tiến lên những bước mới giành thắng lợi to lớn hơn nữa, tăng cường đoàn kết
dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi.
Từ ngày 27 đến ngày 28-3-1964, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội nghị chính trị đặc biệt lần thứ nhất do Chủ tịch
Hồ Chí Minh triệu tập. Dự Hội nghị có 325 đại biểu chính thức thay mặt cho các đảng phái, các dân tộc, các tôn
giáo, đồng bào miền Nam tập kết và kiều bào mới về nước, nhiều Anh hùng Lao động, nhân sĩ dân chủ và trên 500
đại biểu dự thính thuộc các tầng lớp nhân dân.
Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày bản báo cáo quan trọng. Báo cáo của Người đánh giá
những biến chuyển to lớn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời biểu dương những thắng
lợi vẻ vang của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Người vạch rõ âm mưu đẩy mạnh chiến tranh
xâm lược ở miền Nam và tăng cường phá hoại, khiêu khích miền Bắc của đế quốc Mỹ xâm lược; đồng thời nêu rõ
quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào miền
Bắc ra sức thi đua mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại đồng bào miền Nam ruột thịt.
Sau Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị phát động và
hướng dẫn tổ chức cao trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai, ra sức thi đua xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích
cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam” theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Nội dung đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc được giải phóng, Trung ương
Đảng đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới với nhận thức: sự kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân cũng là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa như các cương lĩnh của Đảng đã xác định.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến
tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định
đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường
sau 9 năm chiến tranh.
Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã
nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định
Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống
nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh
cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc
đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền Bắc theo đúng lịch trình quy định. Cuộc đấu tranh này đã diễn ra
hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và
mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân, như kích động, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào Nam,
phá hoại, di chuyển máy móc nguyên vật liệu trái phép...
Để chống lại âm mưu, thủ đoạn của địch và ổn định tình hình, Đảng và Nhà nước đã ban hành kịp thời
nhiều chính sách chỉ đạo các địa phương thực hiện, như: chính sách đối với tôn giáo; chính sách đối với công chức,
trí thức trước đây làm việc cho địch; chính sách đối với ngụy quân. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động
hàng vạn cán bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch
cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình.
Trước tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, địch đã phải rút quân theo đúng Hiệp định. Ngày 10-10-1954,
tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp và tay sai đã phải rút
khỏi miền Bắc.
Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và phát triển sản xuất
nông nghiệp làm trọng tâm. Việc khôi phục sản xuất nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động
đổi công, giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Đến năm 1957, cơ bản
nông nghiệp miền Bắc đã đạt được năng suất và sản lượng của năm 1939, năm cao nhất dưới thời Pháp thuộc. Nhờ
đó nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều kiện giải quyết những vấn đề cơ bản trong nền kinh tế quốc dân, góp phần ổn định
chính trị, trật tự an ninh xã hội.
Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi phục công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông
vận tải cũng hoàn thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã được phục hồi sản xuất và tăng thêm thiết bị, một số
nhà máy mới được xây dựng. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được phát triển nhanh.
Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Để đảm bảo thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai
cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ để chia đều cho dân cày nghèo. Đến tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn
bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và miền núi. Chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc đến đây
bị xóa bỏ hoàn toàn. Hơn 9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ nông dân lao động được chia hơn 810.000 ha ruộng
đất.
Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, ta đã phạm phải một số sai lầm
nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sai lầm là chủ quan, giáo
điều, không xuất phát từ tình hình thực tiễn, nhất là những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông
thôn miền Bắc sau ngày được hoàn toàn giải phóng. Do đó, trong chỉ đạo, thực hiện cải cách ruộng đất, đã cường
điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá mức dân tộc đấu tranh; sử dụng hình thức, phương
pháp không phù hợp với đối tượng là địa chủ ở nông thôn Việt Nam; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về
tình hình tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến xử lý oan nhiều
cán bộ, đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra một số tổn thất đối với Đảng và quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), tháng 9-1956, đã nghiêm khắc kiểm điểm
những sai lầm, trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, công khai tự phê bình trước nhân dân, thi hành kỷ
luật đối với một số Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng. Công tác sửa sai trong năm 1956-1957 đã
được Đảng chỉ đạo, tiến hành một cách thành khẩn, kiên quyết, khẩn trương, thận trọng và có kế hoạch chặt chẽ,
nên từng bước đã khắc phục được những sai lầm đã xảy ra.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá thắng lợi về khôi phục
kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới. Đến tháng 11-1958, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960). Cũng như tư duy, nhận thức chung của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em lúc đó, coi nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội là có 2 thành phần, (quốc doanh và tập
thể), Hội nghị đã xác định phải cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán nhỏ, tư bản tư doanh,
khuyến khích chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức
toàn dân và tập thể. Mục tiêu trước mắt là xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết về vấn đề hợp
tác hóa nông nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp
tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội
nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi
và quản lý dân chủ. Về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa bình
đối với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không
tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh, sắp xếp
công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.
Kết quả của ba năm phát triển kinh tế-văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960) đã tạo nên những
chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên
chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam.
4b. Ý nghĩa thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam.
Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Ý nghĩa lịch sử đối với Việt Nam:
- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc thắng lợi 21 năm
chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 117
năm chống đế quốc (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
cho đất nước.
- Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên
mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ
nghĩa xã hội.
- Đã tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao uy
tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.
- Để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài về
sau.
Về mặt quốc tế:
- Đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới,
bảo vệ được tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội, mở rộng địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
- Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác
động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài.
- Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực
Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình
thế giới.
Nguyên nhân thắng lợi
- Là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi
ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng
đắn, sáng tạo.
- Là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của
đặc biệt, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng
với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”.
- Là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc
vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền
tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia và kết quả của sự ủng
hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công
nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.
Kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh
Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
- Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh
nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp...
Ba là, trên cơ sở sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng phải có công tác tổ chức chiến đấu
giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi ủy quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn,
là “trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi, rồi thực tiên sẽ cho phép ta hiểu rõ sự vật hơn nữa”9.
Bốn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam và tổ chức
xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
“Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự
toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công
vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”10.
Thắng lợi đó đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt đầu từ
Cách mạng tháng Tám, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên đất nước Việt
Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội.

You might also like