You are on page 1of 6

NỘI DUNG ÔN TẬP

MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Câu 1. Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSVN?
Câu 2. Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
So sánh Cương lĩnh với Luận cương chính trị tháng 10/1930?
Câu 3. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) của Đảng Cộng sản Đông Dương?
Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa chủ trương "Kháng chiến ‒ Kiến
quốc” ngày 25/11/1945 của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương?
Câu 5: Nguyên nhân bùng nổ và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược 1946-1954?
Câu 6: Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và nội dung, ý nghĩa
đường lối cách mạng Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng
9/1960) đề ra?
Câu 7. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa đường lối kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của Đảng Lao động Việt Nam thể hiện trong Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 11(3-1965) và lần thứ 12(12-1965)?
8. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa đường lối đổi mới của Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng?
9. Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (Cương lĩnh năm 1991 và 2011)?
10. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp
đổi mới?
Câu 1: Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSVN?
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong
bối cảnh lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước
đều thất bại thì Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại
về "tự do, bình đẳng, bác ái", với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo
đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin,
Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách
mạng vô sản, giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy
sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước thì mới có thể xây dựng được một Đảng cách
mạng chân chính, đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và
chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
- Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người đã
phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung qua những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
- Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt
Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân,
làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm
chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội dung truyền bá là những nguyên lí cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho phù hợp với trình độ của các giai
tầng trong xã hội.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các
lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng
chí, từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng
lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành
công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được
Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong
trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ họ. Thông qua
phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn,
giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của nhân
dân, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến
tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự
ra đời của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc dù chưa nhận được chỉ thị
của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng
do sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất,
thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa
chiến lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn
bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là
do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 2: Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? So sánh
Cương lĩnh với Luận cương chính trị tháng 10/1930?

Phần 1 ghi trong vở


Phần 2: So sánh:
4.1. Điểm giống nhau
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả hai văn kiện đều xác định được tính
chất của cách mạng Việt Nạm là Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng,
bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản.
- Về nhiệm vụ cách mạng: Chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc
lập dân tộc.
- Về lực lượng cách mạng: chủ yếu là công nhân và nông dân - hai lực lượng nòng cốt
và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc
nước ta.
- Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả
về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế
quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
- Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khắng khít với cách mạng thế
giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam.

4.2. Điểm khác nhau:


STT CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ
Luận cương chính trị xây dựng đường lối
Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của
Phạm vi cách mạng cho Việt Nam nói riêng và các
cách mạng Việt Nam
nước Đông Dương nói chung.
Xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
bao gồm hai mâu thuẫn:
Xã hội Đông Dương gồm hai mâu thuẫn dân
Tính chất xã - Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế
tộc và giai cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp là
hội quốc Pháp (mâu thuẫn cơ bản nhất, gay gắt nhất). cơ bản nhất.
- Mâu thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ yếu là nông
dân) với địa chủ phong kiến.
Cách mạng trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách
Tính chất mạng tư sản dân quyền, sau khi thắng lợi tiến
cách mạng dân quyền và Cách mạng thổ địa để tiến lên chủ nghĩa lên XHCN không qua giai đoạn phát triển
cộng sản. TBCN.
Xác định kẻ
thù và Cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của
Luận cương chính trị xác định kẻ thù là Đế quốc
nhiệm vụ, cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ
mục tiêu và phong kiến.
phong kiến và tay sai phản cách mạng.
cách mạng
Mục tiêu của cương lĩnh: Làm cho Việt Nam
hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân Luận cương chính trị xác định phải tranh đấu
chủ, bình đẳng, tích thu ruộng đất của bọn đế để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ
Nhiệm vụ quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo, thành các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để
cách mạng lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để;
quân đội công nông, thì hành chính sách tự do đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho
dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo Đông Dương hoàn toàn độc lập.
hướng công nông hoá.
Vai trò lãnh Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Giai cấp vô sản với đội tiên phong là Đảng
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam Cộng sản Đông Dương
Lực lượng Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách Luận cương chính trị xác định giai cấp vô sản
cách mạng mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng và nông dân là hai động lực chính của cách
mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô
bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp
tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng
trung nông, tiểu địa chủ. đông đảo nhất, là một động lực mạnh của
cách mạng.

Câu 3. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) của Đảng Cộng sản Đông Dương?
Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ở lán Khuổi Nặm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Tham gia Hội nghị có các
đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt cùng
một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và đại biểu tổ chức Đảng hoạt động ở
nước ngoài. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
Xét về tính chất và quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 như một Đại hội toàn quốc
của Đảng. Nghị quyết Trung ương đã vạch ra những chiến lược căn bản cho con
đường cách mạng Việt Nam với những nội dung quan trọng.
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp – Nhật bởi vì
dưới hai tầng áp bức Nhật – Pháp, quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng
dân tộc nguy vọng không lúc nào bằng.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương phải thay đổi chiến lược đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo, chia lị ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Thứ ba, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông
Dương, thi hành chính sách dân tộc tự quyết; sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật, các dân
tộc trên cõi Đông Dương sẽ tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng
tành lập một quốc gia tùy ý. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi
nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời
đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày,
phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều có thể cùng
nhau tham gia vào mặt trận Việt Minh cứu nước, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước của chung cả toàn
thể dân tộc.
Thứ sáu, Hội nghị xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và
nhân dân để khi thời cơ đến, với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi
nghĩa từng phần trong từng địa phương tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong toàn quốc.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và sự thay đổi chiến lược cách mạng của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể
của nước ta, chính là sự hoàn chỉnh nội dung các nghị quyết của Hội nghị Trung ương
lần thứ 6 và 7 trước đó. Sự thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo của
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân
tộc, phù hợp với bối cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, thực chất là sự trở lại với
tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam đã được nêu ra trong
Chánh cương, Sách lược vắn tắt từ đầu năm 1930. Như vậy, Hội nghị Trung ương lần
thứ 8 đã mở đường cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đi đến thắng lợi hoàn toàn
ở Việt Nam.

You might also like