Professional Documents
Culture Documents
Tháng 11-1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nhân loại bước vào
thời đại mới, mở ra cơ hội cho các dân tộc đang bị đô hộ giành lại nền độc lập.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Bản sơ thảo Luận cương của Lênin
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, sự bắt gặp của lý tưởng yêu nước với
chân lý thời đại đã mở ra bước ngoặt lớn trong tư tưởng cứu nước của Người.
Từ đó Nguyễn Ái Quốc bắt đầu trở thành người chiến sĩ cộng sản đầu tiên và
bắt tay vào chuẩn bị các điều kiện cốt yếu để nhanh chóng thành lập một chính
đảng cộng sản ở Việt Nam.
Người nhận thức, chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng
chân chính đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng thành lập Hội liên hiệp
thuộc địa, tờ báo “Le Paria” (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các
báo Nhân đạo, Đời sống công nhân…
Năm 1922, NAQ được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương.
Người tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bót lộc, nô dịch của chủ nghĩa
Từ tháng 6/1923 đến tháng 12/1924 : tại Liên Xô (tháng 6/1923, NAQ sang LX),
Người có dịp tìm hiểu về kinh tế, chính trị, xã hội của nước Nga Xô viết. Người
hoạt động trong Quốc tế cộng sản, tham gia nhiều Hội nghị quốc tế quan trọng,
học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lênin và kinh nghiệm tổ chức Đảng kiểu mới
của Lênin.
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin dưới góc độ phát triển và sáng tạo, dần hình
thành một hệ thống luận điểm chính trị bước đầu, được hệ thống trong cuốn
“Đường Kách mệnh”. ⇒ truyền bá vào Việt Nam
Về chính trị:
Luận điểm về CMGPDT: con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của CNCS. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới
giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xâ duựng
nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
CMGPDT ở các nước thuộc địa là một bộ phận của CMVSTGL giữa CMGPDT
ở các nước thuộc địa với CMVS ở chính quốc có MQH chặt chẽ và hỗ trợ nhau,
nhưng không phụ thuộc mà có thểt hành công trước.
Ở các nước nông nghiệp lạc hậu, phải thu phục và lôi cuốn nông dân, xây dựng
khối liên minh công nông làm động lực CM.
Đảng cộng sản: Trước hết phải có Đảng kách mệnh, đểt rong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công.
Về tổ chức
Huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng
Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra
báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất
thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người,
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân
ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin
được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước,
cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân,
giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác.
Chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách
phái viên của QTCS, NAQ đến Hồng Kông triệu tập đại biểu tiến hành hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công (Trung
Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc. Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (2
đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ
Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn). Còn Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã thành
lập, song chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (và ngày
24/02/1930, tổ chức này được hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam).
Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông
qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn
tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến
lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn
bao giờ hết.
Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt là do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua
đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung: Giành độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản
ở nước thuộc địa, ở Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây cũng là một đóng góp đặc sắc, bổ
sung phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin trên phương diện lý luận về các mô hình
vận động, phát triển của cuộc cách mạng vô sản.
Những nội dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản
trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang
một bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Cương lĩnh chính trị đầu tiên là một cương lĩnh
cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan
điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Và là kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có
giá trị trong thời đại ngày nay.
Nhiệm vụ cách mạng: Chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành
độc lập dân tộc.
Lực lượng cách mạng: chủ yếu là công nhân và nông dân - hai lực lượng nòng
cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng
dân tộc nước ta.
Phương pháp cách mạng: sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam
cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là
đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
Vị trí quốc tế: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khắng khít với cách mạng thế
giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mac - Lenin và
cách mạng vô sản chịu ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga ( 1917 )
Làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân Đánh đổ các di tích phong
dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, Tịch kiến Đánh đổ các cách bóc
thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia lột theo lối tiền tư bản và
Nhiệm vụ cách cho dân cày nghèo, Thành lập chính phủ để thực hành thổ địa cách
mạng công nông binh và tổ chức cho quân đội mạng cho triệt để Đánh đổ
công nông Thi hành chính sách tự do dân đế quốc chủ nghĩa Pháp,
chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo làm cho Đông Dương hoàn
hướng công nông hoá. toàn độc lập.
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược
cách mạng. Về cơ bản thống nhất với nội dung của Chính cương, sách lược vắn tắt
của Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930. Tuy nhiên, Luận cương đã không nêu rõ
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra
được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân
Sự nhận thức khác biệt của người khởi thảo
Trần Phú: nhận thức giáo điều, máy móc của người khởi thảo về vấn đề dân tộc
và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh
hướng “tả” của Quốc tế cộng sản và một số Đảng Cộng sản lúc bấy giờ
Nguyễn Ái Quốc: thấy được mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mẫu thuẫn dân
tộc và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là chống đế quốc giành độc
lập dân tộc
Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội
thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.
Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đứng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mac –
Lenin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và
thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới,
đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử
6/1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng.
6/1941, Đức tấn công Liên Xô sau khi chiếm một loạt các nước châu Âu.
12/1941, chiến tranh TBD bùng nổ. Quân phiệt Nhật đánh chiếm nhiều thuộc địa
Anh và Mỹ
Trong nước
Ở Đông Dương, bộ máy đàn áp được tăng cường, thiết quân luật được ban bố,
cộng sản bị cấm tuyên truyền.
Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn,
đồng thời vẫn chú trọng các đô thị.
Thực hành chính sách thời chiến, phát xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay đàn
áp phong trào cách mạng: thực hiện chính sách tăng cường vơ vét sức người,
sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc
9/1940, Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật để
thống trị và bóc lột, nhân dân chịu cảnh một cổ hai tròng.
Lấy giải phóng dân tộc, quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn để cũng
phải nhằm giải quyết vấn đề ấy
Khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” tạm gác lại và thay bằng các khẩu hiệu chống
địa tô cao, cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội
Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 7 (11/1940) tiếp tục bổ
sung nội dung chuyển hướng
TWĐ chưa thật sự dứt khoác với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu
Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 8 (5/1941) hoàn chỉnh
nội dung chuyển hướng
Vấn đề chính là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
Lập Mặt trận Việt Minh với khẩu hiệu: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống
Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất
Khẳng định dứt khoác chủ trương “phải thay đổi chiến lược”: Đưa nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác lại cách mạng ruộng đất
Cuộc cách mạng tư sản dân quyền (phản đế, điền địa) ⇒ cách mạng giải phóng
dân tộc
Gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất dân cày” sang khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghoè, chia lại ruộng đất
cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Không giải quyết vấn đề dân tộc giỉa phóng thì quyền lợi của bộp hận, giai cấp
cũng không đòi lại được
Gỉai quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi
hành chính sách dân tộc tự quyết
Mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn két toàn dân tộc
Tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, các tổ chức quần chúng trong Mặt
trận Việt Minh đều mang tên cứu quốc
Không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nống, địa chủ, tư bản… miẽn là có
lòng yêu nước thương loài, tham gia thống nhất mặt trận, giải phóng dân tộc
Chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ lập nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa theo tinh thần dân chủ
Toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hoà
Xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và
nhân dân. Xác định điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng
khởi nghĩa
Luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện đánh lại
quân thù
Với lực lượng sẵn có, có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong
từng địa phương, mở đường cho tổng khởi nghĩa to lớn.
4. Ý nghĩa
Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội gnhị tháng 11/1939, khắc
phục nhưng hạn chế của Luận cương chính trị 10/1930
Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc dúng đắn trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiêu của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của
NAQ.
Ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân VN đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng,
tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, tự do.
Uy tín của Liên Xô và ảnh hưởng của CNXH ngày càng lên cao
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dân cao
Trong nước
ĐCS trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước
Hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp TW đến cơ sở
được kiện toàn, ra sức phục vụ lợi ích của tổ quốc, nhân dân
Chủ tịch HCM rở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trugn tâm của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam
Quân đội quốc gia và lực lượng công an, hệ thống luật pháp của chính quyền
cách mạng được khẩn trương xây dựng và phát huy vai trò đối với cuộc đấu
tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới
Khó khăn
Thế giới
Đế quốc chủ nghĩa ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới,
trong đó có cách mạng Việt Nam
Các nước lớn không ủng hộ lập ptrường độc lập và công nhận địa vị pháp lý
của NNVNDCCH
Trong nước
Hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn non trẻ, thiếu thốn,
yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Thiệt hại do lũ lụt, hạn hán dẫn tới nạn đói 44, 45 chưa khắc phục được thì
người dân dã phải cb đối mặt với một nạn đói mới
Quân đội chưa phải chính quy, lực lượng còn ít, chưa bài bản. phương tiện vũ
khí vừa yếu vừa thiếu. Khối đại đoàn kết chưa được vững chắc, có sự ra đời
của các tổ chức Đảng phái thù địch.
Thực dân Pháp âm mưu quay trở lại thống trị Việt Nam mọt lần nữa. Đồng thời,
Trung Hoa dân quốc cùng với danh nghĩa đồng minh và thực dân Anh và Ấn
cũng đổ bộ vào Việt Nam
Mục tiêu “dân tộc giải phóng”, khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”
Mọi hành động tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt là củng cố chính
quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trự nội phản, cải thiện đời sống
nhân dân
Quân sự: động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh
đạo của kháng chiến lâu dài
Nguyên tắc ngoại giao: thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân
thiện” đối với quân đội Tưởng giới Thạch và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng
về kinh tế” đối với Pháp.
Giải pháp
Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng:
Chủ trương sớm tổ chức bầu cử toàn quốc để bầu ra Quốc hội và thành lập
chính phủ chính thức. Địa phương cũng tiến hành bầu cử HĐND các cấp và
kiện toàn UBHC các cấp
Mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam
nhằm thu hút tầng lớp tư sản và địa chủ trong nước tiến bộ
Củng cố và tổ chức lại LLVT, tích cực mua sắm vũ khí, tích trữ lương thực,
thuốc men, cugnr cố các cơ sở và căn cứ địa cách mạng…
Tập trung chỉ đạo, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào
lớn, các cuộc vận động: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với khẩu hiệu
“Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa”, lập hũ gạo tiết kiệm, tổ chức
“Tuần lễ vàng”, quỹ “Độc lập”…
Bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ, giảm tô 25%
Một số nhà máy, công xưởng, hầm mở được khuyến khách đầu tư khôi phục
hoạt động trở lại
Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, phát ành đòng giấy bạc Việt Nam
Chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ”. toàn dân học quốc gnữ để
từng bước xoá bỏ nạn dốt
Vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới, đời sống văn hoá mới để đẩy lùi
các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ
Trường học các cấp được khai giảng, thành lập trường đại học đầu tiên - trường
Đại học Văn khoa Hà Nội
⇒ Đời sống nhân dân được cải thiện, nhân dan tin tưởng vào chế độ mới, nêu cao
quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng
Xây dựng LLVT, kháng chiến ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách
mạng
Sáng 23/9/1945, thống nhất đề ra chủ trương Hiệu triệu quân, dân Nam bộ
đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp
25/10/1945, quyết định những biện pháp cấp bách củng cố lực lượng vũ trang,
xây dựng hệ thống chính trị và vũ trang bí mật, tổ chức phát động toàn dân
kháng chiến, kiên quyết đẩy lùi cuộc ấn công của quân Pháp
Nhân dân Nam Bộ nêu cao tinh thần chiến đấu “ Thà chết tự do còn hơn sống
nô lệ”
Quân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và kịp thời chi viện, chia lửa với
đồng bào Nam Bộ kháng chiến. 26/9/1945, nhưugnx chi đội đầu tiên ưu tú nhấ
của quân đội, được tranng bị vũ khí tốt nhất chi viện cho Nam Bộ
9/1945 - 3/1946, Thực hiện sách lược hoà với quân Tưởng ở miền Bắc và đánh
Pháp ở miền Nam
3 - 12/1946, thực hiện sách lược hoãn hoà với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng
về nước
“triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hoà hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc”
Chủ trương chỉ có hoà bình mới có thể than được thời gian và củng cố và phát
triển hoà bình về mọi mặt
Tưởng chỉ là kẻ thù thứ yếu, bản thân cũng đang gặp khó khăn về cung ứng
lương thực
Chủ trương
Khôn khéo đối phó có hiệu quả với các hoạt động, khiêu khích, gây xung đột vũ
trang với Tưởng
Thực hiện ngoại giao thân thiện, ứng xử mềm dẻo, linh hoạt với các yêu sách
của quân tưởng và các tổ chức đảng phái chính trị tay sai.
Tránh mũi nhọn tấn công của kẻ thủ, Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật
Đồng ý với việc đảm bảo cung cấp lương thực cho 20 vạn quân đội Tưởng và
nhân nhượng dùng đồng tiền quan kim song hành cùng đồng bạc Đông Dương
Kết quả
Củng cố, bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng và thành quả của CMT8
Tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
Tránh 1 lúc phải đối đầu với quá nhiều kẻ thù cùng lúc.
Chủ trương chỉ có hòa bình mới hòa bình mới có thể tranh thủ được thời gian
củng cố và phát triển về mọi mặt
Bản thân thực dân Pháp đang gặp nhiều khó khăn, nội bộ chia rẽ
Hiệp ước Hoa -Pháp: phải lựa chọn đánh hay làm hòa khi Pháp xuất hiện ở
miền Bắc
Chủ trương
Tạm thời “dàn hoà với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích kinh tế nhưng đòi Pháp
phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam
Thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm
Ký hiệp định Sơ bộ (3/1946) ⇒ thể hiện Pháp đã công nhận chính phủ của HCM
là một quốc gia độc lập
Kết quả
Ngăn chặn bước tiến của Pháp tại Nam bộ. Đuổi được gần 20 vạn quân Tưởng
về nước mà không phải đổ máu
Củng cố, bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng và thành quả của CMT8
Tạo thêm thời gian (10 tháng) hoà bình hoàn hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực,
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
Nhân dân Pháp và giới chính trị Pháp,... hiểu thêm về cuộc đấu tranh chính
nghĩa vì nền độc lập thực sự của Việt Nam → nhân dân yêu chuộng hòa bình
thế giới và Pháp ủng hộ VN
Tránh 1 lúc phải đối đầu với quá nhiều kẻ thù cùng lúc. Hiệp ước Hoa -Pháp và
thời hạn rút về nước của quân đội Tưởng đã hết những vẫn kéo dài
Hiệp ước sơ bộ là thoả thuận tạm thời, vẫn đang tiếp tục đàm phán để ký hiệp
định chính thức để hoà hoãn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh
Phía Pháp không thực tâm đàm phán, lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm
lược
Chủ trương chỉ có hòa bình mới hòa bình mới có thể tranh thủ được thời gian
củng cố và phát triển về mọi mặt. Làm cho nhân dân Pháp và thế giới hiểu rõ
thiện chí của ta.
Chủ trương
14/9/1946, ký bản Tạm ước, đồng ý nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh
tế, văn hoá; hai bên đình chỉ chiến sự ở Nam bộ và tiếp tục đàm phán ⇒
Bước
Lợi dụng thời gian hoà hoãn diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tàu
trắng, những hành động khiêu khích ly gián của ta và Pháp
Thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm
Kết quả
Giải pháp
Quân sự:
Xây dựng LLVT, kháng chiến ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách
mạng
Chỉ đạo từng bước chuyển sang tình trạng chiến tranh và chuẩn bị khagns chiến
lâu dài
Củng cố, xây dựng căn cứ địa, các chiến khu, an toàn khu
Hàng ngàn tấn máy móc, nguyên, nhiên vậtl iệu được di chuyểm ,mua sắm cất
giữa trên các chiến khu, căn cứ địa kháng chiến
Thực hiện tiêu thổ kháng chiến “vường không nhà trống”, “phá hoại khángc
hiến” nhằ mngăn cản bước tiến của địch
Ngoại giao:
Hoà Tưởng:
Khôn khéo đối phó có hiệu quả với các hoạt động, khiêu khích, gây xung đột vũ
trang với Tưởng
Tránh mũi nhọn tấn công của kẻ thủ, Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật
Đồng ý với việc đảm bảo cung cấp lương thưucj cho 20 vạn quân đội Tưởng và
nhân nhượng dùng đồng tiền quan kim song hành cùng đồng bạc Đông Dương
Hoà Pháp
Tạm thời “dàn hoà với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích kinh tế nhưng đòi Pháp
phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam
Lợi dụng thời gian hoà hoãn diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tàu
trắng, những hành động khiêu khích ly gián của ta và Pháp
Thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm
Ký hiệp định Sơ bộ (3/1946) ⇒ thể hiện Pháp đã công nhận chính phủ của HCM
là một quốc gia độc lập
Bản tạm ước 14/9/1946 ⇒ nhân nhượng thêm một số lợi ích kinh tế, văn hoá
“nhân nhượng cuối cùng”
Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học, kỹ thuật,
nhất là sự lớn mạnh của Liên Xô
Phong trào hoà bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản
Trong nước
Có miền Bắc hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa hậu phương cho cả nước
Thế và lực của các mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến, có ý chí độc
lập thống nhất của nhân dân cả nước
Khó khăn
Xuất hiện đế quốc Mỹ với âm mưu làm bá chủ thế giới, với các chiến lược toàn
cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối tiếp nhau xây dựng và thực
hiện
Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang
Xuất hiện bất đồng, chia rẽ trong hệ thống XHCN, nhất là giữa Liên Xô và Trung
Quốc
Trong nước
Đất nước chia làm 2 miền, có chế độ chính trị khác nhau,
Miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm soát, không chịu thực hiện hoà bình thống
nhất đất nước
9/1954, BCT đề ra nhiệm vụ trước mắt là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục
hồi nền kinh tế quốc dân mà trước hết là phục hồi sản xuất nông nghiệp, ổn định
xã hội, ĐSND, tăng cường và mở rộng QHQT.. để đưa MB lại bình thường sau
9 năm chiến tranh
Hội nghị lần thứ 7 (3/1955) và thứ 8 (8/1955): củng cố miền Bắc, giữ vững cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam để chống đế quốc Mĩ và tay sai, củng cố hoà
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ
Hậu Geneva, hoà bình lặp lại nhưng Pháp và tay sai dùng mọi thủ đoạn, âm
mưu để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an ninh… ⇒chỉ đạo nhiều
chính sách và huy động cán bộ, bộ đội giúp đỡ, tuyên truyền, vận động ⇒
16/5/1955, toàn bộ rút khỏi MB
Khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm, kết hợp cải cách
ruộng đất, giúp nhau sản xuất… ⇒ 1957, nạn đói đẩy lùi, giải quyết vấn đề, ổn
định chính trị, trật tự ATXH.
Cải cách ruộng đất đến tháng 7/1956 đã hoàn thành ở đồng bằng, trung du,
miền núi → xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất PK, chia ruộng đất cho nông
dân nhưng mắc phải sai lầm chủ quan giáo điều, áp dụng phương pháp ko phù
hợp trong cải cách, xử lý oan sai nhiều cán bộ, đảng viên, nhân dân gây mất
niềm tin trong nhân dân
Hội nghị lần thứ 10 (9/1956), nghiêm khắc kiểm điểm và chỉnh đốn, công khai tự
phê bình và thi hành kỷ luật
Hội nghị lần thứ 14 (11/1958) đề ra kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế-văn hóa
và cải tạo XHCN đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân ⇒ Mục tiêu
trước mắt là xây dựng và phát triển miền Bắc trở thành trụ cột trong công cuộc
thống nhất nước nhà
Hội nghị lần thứ 16 (4/1959), thông qua nghị quyết hợp tác hoá nông nghiệp,
xác định hình thức và bước đi của HTX là: “Hợp tác hóa phải đi trước cơ giới
hóa”; khẳng định 3 nguyên tắc cần quán triệt: tự nguyện, cùng có lợi và quản lí
dân chủ
⇒ Kết quả của 3 năm phát triển kinh tế từ 1958-1960 đã tạo nên chuyển biến về
kinh tế và xã hội trong miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố và từng bước đi
lên CNXH, trở thành hậu phương hùng hậu, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng VN .
Miền Nam
1954, đế quốc Mỹ âm mưu xâm lược và biến thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ
quân sự tấn công MB và hệ thống XHCN ⇒thiết lập bộ máy chínuh qyền tay sai và
xây dựng lực lượng quân đội, tiến hành khủng bố cán bộ Đảng viên, thân cộng sản
và chống chế độ
Do tương quan lực lượng nên Đảng chuyển hướng từ đấu tranh quân sự sang đấu
tranh chính trị, đòi Mỹ-Diệm tuân thủ và thi hành Hiệp định Geneva
Hội nghị thứ 6 (7/1954): chỉ rõ Mỹ là kẻ thù chính và trực tiếp, cần phải tập trung
chống đế quốc Mỹ
22/7/1954, HCM ra lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước: “Trung
Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả
nước nhất định sẽ giải phóng”
Chuyển hướng công tác cho phù hợp điều kiện mới
Tập hợp mọi lực lượng dân tộc nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ và
thống nhất Tổ quốc
Xứ uỷ Nam bộ được thành lập. 8/1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Bản đề
cương Đường lối cách mạng VN ở miền Nam khẳng định: để chống đế quốc Mỹ
và tay sai nhân dân VN chỉ có con đường cứu nước là tự cứu mình là con
đường cách mạng. ⇒ Một trong những văn kiện quan trọng góp phần hình
thành đường lối CMVN ở miền Nam VN.
1958, kẻ địch tiếp tục đẩy mạnh khủng bố dã man liên tiếp, mở các cuộc hành
quân đàn áp, dồn dân với quy mô lớn vào các trại tập trung.
Tháng 3/1959, tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình
trạng chiến tranh. Đặc biệt chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện đạo luật 10/59
lê máy chém khắp miền Nam để xét xử và bắn giết tại chỗ những người CM
Sử dụng bảo lực cách mạng với hai lực lượng: chính trị và vũ trang
Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, tiến tới khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền về tay nhân dân
Mở hai tuyến đường trên bộ và trên biển (hay còn gọi là đường Trường Sơn) để
chi viện cho đồng bào miền Nam. Các tỉnh miền Bắc đã chủ động kết nghĩa với
các tỉnh miền Nam để phối hợp đấu tranh CM vì mục tiêu giải phóng miền Nam,
thống nhất tổ quốc.
17/01/1960, tại Bến Tre hình thức khởi nghĩa đồng loạt hay phong trào Đồng
Khởi bùng nổ, sau đó nhanh chóng mở rộng ra cả nước và các tỉnh thành
ĐBSCL, Tây Nguyên,… ⇒ Hệ thống của địch ở xã, ấp bị tê liệt, tan vỡ từng
mảng lớn.
20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam VN ra đời, đoàn kết nhân
dân chống Mỹ - Diệm
⇒ Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi là bước nhảy vọt mang ý nghĩa lịch sử của
CMVN. Chuyển CMVN từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ khởi nghĩa
từng phần sang chiến tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ.
Cách mạng XHCN có vai trò quyết Cách mạng DTDCND có vai trò
Vai trò
định nhất quyết định trực tiếp
Miền Bắc chuyển dần sang KT chỉ Miền Nam du nhập - yếu tố kinh tế
Kinh tế
huy tập trung, phát triển HTX từ thị trường tư bản vào.
Sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và Đông Dương đã thúc đẩy phong trào
cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên từ những năm 70 của
thế kỉ XX, tình hình kinh tế - xã hội của các nước XHCN trì trệ và mất ổn định.
Trong nước
Nước ta đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn TBCB
Tổ quốc đã hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên CNXH với nhiều
thuận lợi lớn. Song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh và chủ
nghĩa thực dân mới gây ra.
Cách mạng tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai
thắng ai” giữa các mạng và phản cách mạng còn gây go, quyết liệt.
Ngoài ra do tư tưởng chủ quan và nóng vội muốn tiến nhanh lên CNXH trong
thời gian ngắn đã dẫn đến kinh tế - xã hội nước ta gặp khó khăn.
2. “Các bước đột phá” dẫn tới đổi mới toàn diện đất
nước năm 1976 - 1986
Hội nghị TW 6 (8/1979) - bước đột phá đầu tiên
Chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý y tế, trong cải tạo
XHCN, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”
Tháng 9/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định về việc tận dụng đất đai nông
nghiệp để khai hoang, phục hóa được trả thù lao thích đáng và được sử dụng
toàn bộ sản phẩm miễn thuế.
Tháng 10/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định xóa bỏ tất cả các trạm ngăn
sông, cấm chợ để người sản xuất có thể tự do đưa sản phẩm của mình trao đổi
ngoài thị trường không phải nộp thuế sau khi làm nghĩa vụ đầy đủ cho Nhà
nước.
13/1/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100/CT/TW về cải tiến công tác khoản, mở
rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động”.
Trong lĩnh vực nông nghiệp: 21/1/1981 Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết
định số 25-CP về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài
Trong lưu thông, phân phối: 23/6/1980 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26 về cải tiến
công tác phân phối, lưu thông.
Tính đủ chi phí hợp lí trong giá thành sản phẩm; giá cả bảo đảm bù đắp chi
phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả đáng; Nhà nước từng
bước có tích luỹ
Xóa bỏ toàn bộ tình trạng nhà nước mua thấp, bán thấp, bù lỗ và thực hiện
cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống, khắc phục trong tình trạng thả nổi
trong việc định giá và quản lí giá
Thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp,
chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hạch toán kinh doanh XHCN
Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp
hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị của hàng hoá.
Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất
bao cấp tràn lan.
Nhanh chóng chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh
doanh XHCN
⇒ VAI TRÒ:
Hội nghị đã xác định nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến lên
cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Hội nghị Trung ương 8 thực chất đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy
luật sản xuất hàng hóa trong kinh tế quốc dân để từ đó từng bước hình thành tư
tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ trương quá lớn vềy quy mô, quá cao về
nhịp độ
Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư
theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng cần phải có sự lựa chọn về quy mô và nhịp độ
Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba
chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết
yếu và hàng xuất khẩu.
Chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo XHCN
Phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng
như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ
thấp đến cao, tử nhỏ đến trung bình rồi lớn
Phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần,
Thay đổi cả chế độ quản lý, phân phối trong một quãng thời gian dài
Bố trí lại cơ cấu kinh tế đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh XHCN:
Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy
luật kinh tế XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của hàng hoá -
tiền tệ
Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh
Phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức năng quản
lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế
Phân công, phân cấp bảo đảm quyền tập trung thống nhất của TW và quyền
chủ động của địa phương
Biểu hiện
Tư tưởng nóng vội nhằm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”
trong từng quyết sách và phương châm hành động của từng địa phương trong
cả nước, nhất là chủ trương “cải tạo XHCN” vội vàng xoá bỏ các TPKT chỉ để lại
kinh tế quốc doanh và tập thể.
Chậm thay đổi tư duy về xây dựng hệ thống chính trịnh thời chiến sang thời
bình, quá nhấn mạnh xây dựng chuyên chính vô sản với xây dựng chế độ làm
chủ tập thể mà chưa chú trọng đến lợi ích thiết thực của cá nhân, huy động
được sức dân trong và ngoài nước. ⇒ Bộ máy tổ chức Đảng, MTTQ và các
đoàn thể chính trị - xã hội đặc thù chậm đổi mới về phương thức hoạt động nên
càng phình to, hoạt động kém hiệu quả và không ít trở nên hành chính hoá.
Sai lầm trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Đảng đề ra một số chỉ tiêu quá lớn
về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, đưa
quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương.
⇒ Việc không thừa nhận sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường, nền kinh tế nhiều
thành phần, xây dựng nền kinh tế khép kín là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình
Trên lĩnh vực quan hệ quốc tế, chưa kịp chuyển từ tư duy đối ngoại trong chiến
tranh sang thời bình, quá nhấn mạnh “ba dòng thác cách mạng” mà không quan
tâm đúng mức, thậm chí đoạn tuyệt quan hệ với các nước đối lập về tư tưởng
và thểc hế chính trị.
Hậu quả
Chậm so với những quốc gia có khả năng thường xuyên điều chỉnh, nhờ có
được những kênh thông tin nhanh nhạy từ cuộc sống đến não trạng
Đó cũng là một sự mất mát lớn khi nhiều tài năng bị thải loại, nhiều ý tưởng
sáng tạo bị vùi dập.
Những thói quen tự do tản mạn do sự chỉ đạo sai lầm lại chuyển thành yếu tố
kìm hãm sự phát triển
Sự “triệt sản” đó đã lấp hết những kẽ hở, nếu không nói là những cửa sổ nhỏ,
để xã hội có thể hít thở một chút trong những điều kiện ngột ngạt của mô hình
kinh tế toàn trị. Đến một mức nào đó thì sự bức xúc ắt dẫn tới “vỡ bờ”.
Đông Âu
Mới thiết lập mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa sau Đại chiến thế giới II như Việt
Nam, ở đó cũng còn khá nhiều những yếu tố thị trường và kinh tế tư nhân.
Nhưng khác với Việt Nam, mô hình xã hội chủ nghĩa ở các nước đó là do Liên
Xô trực tiếp mang sang và áp đặt, ở đó ít nhiều đã có nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, đã gắn với thị trường thế giới, trước hết là với Tây Âu.
Nên trong sự bức xúc của kinh tế, có cả yếu tố dân tộc, chính yếu tố đó tạo ra
sự nứt rạn đầu tiên và dẫn tới sụp đổ nhanh chóng.
Cuba
Việc Liên Xô bị sụp đổ và trước những sức ép của các thế lực thù địch
Việc chuyển đổi mô hình kinh tế ở Cuba vẫn rất khó khăn, bởi vì ngoài lợi ích
kinh tế, còn phải tính đến các vấn đề thuộc an ninh quốc gia.
Khả năng chuyển đổi sang kinh tế thị trường và phát triển kinh tế tư nhân còn
rất hạn hẹp. Hiện tượng phá rào hầu như không có
Trung Quốc
Một nước rất lớn, có kỷ cương rất chặt chẽ. Hiện tượng phá rào gần như không
thể xảy ra.
Mọi sự chuyển đổi đều bắt đầu từ ý tưởng của các nhà lãnh đạo cao cấp ở
Trung ương. Do đó, sự chuyển đổi chỉ thực sự bắt đầu từ lãnh đạo tối cao.
Với tư tưởng đó, nền kinh tế được khai mở, nhưng là sự khai mở từng bước, dè
dặt, thận trọng. Khi chưa qua nghiên cứu, chưa có mệnh lệnh từ cấp trên thì cấp
dưới không được tự tiện.
Việt Nam
Đặc thù
Những sáng kiến của địa phương, ngay cả trong chiến tranh cũng như trong
thời bình, luôn luôn có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi các sáng kiến này là vì dân, vì
nước, chứ không phải vì lợi ích riêng của địa phương, do đó, dù có những điều
chưa nhất trí với Trung ương, nhưng Trung ương vẫn nhìn nhận đó là những cố
gắng tìm tòi.
Kết quả của “phá rào” được thực tế chứng minh là tích cực thì sau đó, được
Trung ương nhận thức và chấp nhận, chuyển thành chính sách chung của cả
nước. Đó là một con đường khá đặc thù của Việt Nam.
Về chính sách
Dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc dễ khuất phục trước những áp đặt.
Lịch sử hàng ngàn năm đã cho thấy rõ điều đó. Nhưng đối với những áp đặt của
mô hình kinh tế quan liêu, bao cấp thì họ không muốn giải quyết theo cách“vỡ
bờ”. Sự nghiệp cách mạng và kháng chiến đã để lại trong lòng người dân những
tình cảm rất sâu đậm với chế độ, với Hồ Chí Minh. Họ không dễ gì giũ bỏ nó, và
cũng khó ai có thể xui giục họ giũ bỏ nó chỉ vì những khó khăn trong đời sống
hay vì những khiếm khuyết của Nhà nước hay của một số người điều hành.
Thời kỳ đó trên báo chí, trong các cuộc họp Quốc hội và các tổ chức khác chưa
được rộng đường phê phán hay góp ý như bây giờ, thì người ta dùng ca dao,
hò vè, tiếu lâm truyền miệng để thể hiện sự phản ứng. Những năm cuối thập kỷ
70, đầu thập kỷ 80 những chuyện đó nở rộ và được lan truyền rất rộng, chứng
tỏ nó được quần chúng đồng tình hưởng ứng.
Việt Nam tuy đã qua nhiều cuộc cải tạo khá mạnh tay, nhưng kinh tế phụ, thị
trường tự do, sản xuất nhỏ và tiểu thương vẫn tồn tại dai dẳng và “bất trị”. Nói
cách khác, trước khi có những cuộc phá rào thì những hàng rào đó ở Việt Nam
có phần thưa thớt và ít kiên cố hơn ở nhiều nước khác.
Hàng năm miền Nam còn nhận được tiền và hàng do Việt kiều gửi về cho thân
nhân. Khoản này trị giá khoảng vài trăm triệu đôla. Tiền có thể tạo ra vốn kinh
doanh hoặc tạo thêm sức mua trong xã hội. Hàng thì cũng phần lớn được đem
bán lại trên thị trường, như một nguồn tiếp sức cho thị trường tự do.
Lao động xuất khẩu và những thủy thủ tàu viễn dương: khai thác nhiều mặt
hàng trong nước mang đi. Họ gửi về gần như tất cả những thứ gì trong nước
đang thiếu. Chính lực lượng này đã làm cho ngay cả khi nền kinh tế Việt Nam
lâm vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, thì xã hội và dân tình cũng không đến
nỗi gian nan như ở Cuba và Bắc Triều Tiên hay ở Trung Quốc thời trước Đặng
Tiểu Bình.
Kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường ở Việt Nam là những yếu tố đã có sẵn, nên
khi được hợp pháp hoá, nó là những chất men thúc đẩy quá trình bung ra và
phát triển rất nhanh.
Trên lộ trình đột phá kinh tế, sáng tạo mở đường, lại thấy khá thưa thớt những
nhà kinh tế học, mà chủ yếu là những nhà lãnh đạo kỳ cựu ở cơ sở
đột phá ở Việt Nam không phải là sự xung đột giữa những người bảo vệ chủ
nghĩa xã hội và những người chống chủ nghĩa xã hội, giữa người theo Đảng và
phái chống Đảng. Không ai trong số những người tiến hành đột phá lại có ý đồ
thủ tiêu chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp của cách mạng, là cái mà họ đã từng cống
hiến gần trọn đời, vì lo cho dân, lo cho nước nên họ quyết tâm và dũng cảm tìm
cách tháo gỡ. Với tinh thần đó thì tháo gỡ không gây đổ vỡ, năng động không
dẫn tới hỗn loạn, làm trái quy định nhưng không mất tính tổ chức.
Sự đồng thuận có sự chuyển hóa rất linh hoạt về quan điểm và lập trường. Hầu
hết những người phá rào vốn đã từng đồng tình, thậm chí góp phần dựng lên
hàng rào. Những người bảo thủ sớm muộn cũng đồng tình tham gia vào việc gỡ
bỏ hàng rào.
Mỗi bước đột phá là một bước sáng tỏ ra con đường đi tiếp, cuối cùng tới đổi
mới toàn cục. Mục tiêu “công khai” của những mũi đột phá không phải là đi tới
cơ chế thị trường, mà chỉ là tháo gỡ những ách tắc của mô hình kinh tế cũ, điều
chỉnh những bất hợp lý của nó, nhằm hoàn thiện nó hơn.
Lộ trình đột phá luôn luôn được điều chỉnh. Có khi là nhân rộng, đẩy tới, có khi
là tạm dừng, thậm chí lùi lại, tìm những giải pháp khác.
Hiện đại hóa: quá trình ứng dụng, trang bị những thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiện đại đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế xã hội.
Mục tiêu
Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Quan điểm
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học
- công nghệ là nền tảng và động lực
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất. Đó là nền kinh tế mà tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển
kinh tế, trong đó, những ngành kinh tế có tác động lớn tới sự phát triển là những
ngành dựa nhiều vào tri thức, các thành tựu khoa học, công nghệ như: công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học...
Hơn nữa, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế:
Đại hội IX đã xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các
sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Đó là việc kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là trung tâm, động lực phát triển quan trọng
nhất của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là sự nhất quán xuyên suốt trong tiến trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, giữ vững độc lập, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội:
Phải lấy mục tiêu chung của toàn dân tộc là giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân
dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Để thực hiện những điều đó, trước hết phải phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và
bền vững.
Nhận xét
Trước thời kỳ đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những tiền đề
vật chất cần thiết còn hạn chế. Để có thể phát triển đất nước theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn, ở mỗi lĩnh vực khác
nhau, Đảng ta đều đề ra từng nhiệm vụ, thể hiện từng quan điểm riêng biệt để nhằm
hướng đến phát triển cốt lõi giá trị của việc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Kết quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã mang lại những những ý
nghĩa hết sức quan trọng:
Tạo điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động xã
hội.
Tạo ra lực lượng sản xuất mới, tăng cường vai trò của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, tăng cường mối quan hệ liên minh giữa công nhân- nông dân- trí thức.
Tạo tiền đề hình thành và phát triển nền văn hóa mới.
Tạo cơ sở vật chất- kỹ thuật cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Dù vẫn còn tồn đọng một số hạn chế nhất định, song những bất cập này đã được
Đảng và nhà nước không ngừng nỗ lực qua từng thời kì để khắc phục.
Thực tế cũng đã chứng minh, những định hướng ấy là đúng đắn, phù hợp với nhu
cầu phát triển của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa với tầm nhìn chiến lược,
định ra những mục tiêu chiến lược lâu dài khi đất nước kết thúc thời kỳ quá độ xây
Những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế nhằm xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những
người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực
lượng thù địch ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của
nhân dân vẫn còn khó khăn, đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế
xã hội.
Đại hội VII diễn ra trong bối cảnh đất nước sau hơn 4 năm đổi mới cơ bản ổn định
nhưng chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề kinh tế-xã hội nóng bỏng
chưa được giải quyết
Đặc trưng
Do nhân dân lao động làm chủ.
Xác định vai trò làm chủ của xã hội xã hội chủ nghĩa là nhân dân lao động.
Nhân dân lao động không chỉ có vị thế mà còn có năng lực để làm chủ xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân lao động được giải phóng và có
điều kiện phát triển toàn diện.
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện, tiền đề để tăng năng suất lao
động, tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân
Tuy nhiên, để nhân dân lao động được hưởng những thành quả do sức lao
động của mình đòi hỏi phải thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu.
Bởi vì, đó là điều kiện để thực hiện những lợi ích kinh tế cơ bản.
Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là bản chất kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, là cơ sở bảo đảm cho nhân dân lao động làm chủ về kinh tế.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đảng ta đặt con người vào trung tâm của sự phát triển. Nói tới văn hóa là nói tới
con người, do vậy phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển chính là phát
huy những năng lực, bản chất của con người.
Đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Đảng ta coi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc🡪 mới tập trung được con người
với sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường của nhân dân
Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn hạn hẹp, trong khi đó nguồn lực con
người Việt Nam lại vô cùng phong phú nếu biết phát huy nó sẽ trở thành nguồn
lực to lớn cho sự phát triển bền vững.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ diễn biến phức tạp.
Bên cạnh đó, thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu xảy ra nghiêm trọng trên toàn thế giới.
Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt
động “diễn biến hoà bình”
Đặc trưng
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng, cho thấy nước ta hiện nay,
dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong
đời sống xã hội.
Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững.
Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh,
những điều đó mới thể hiện sự văn minh.
Nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân
dân lao động làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc
trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''
Khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so với khái
niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991.
Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức
mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp.
Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương
lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và
đúng đắn.
Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi
hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất
với quan hệ sản xuất.
Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện.
''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của
Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng
thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương
lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi điều này là hợp lý.
Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công.
Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển toàn diện''
(trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ''con người ... được phát triển toàn diện'').
Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội
sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng.
Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''.
Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển''.
Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn toàn đúng đắn
và làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau”
(trong Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.
Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Bổ sung đặc trưng 7 thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi
mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Cương lĩnh 1991 “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh
2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới''.
Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của
Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ
và các tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới.