You are on page 1of 51

Câu 1

1. Khái niệm cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị
Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là văn bản trình bày tóm tắt mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và
phương pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh chính trị được coi là văn bản có giá trị cao nhất trong hệ
thống các văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có năm cương lĩnh:
- Cương lĩnh chính trí đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930);
- Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930);
- Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (2-1951);
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991);
- Cương lĩnh xây dựng đất nưỡ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930)
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước có ý
nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có bốn văn bản: Chính cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp
thành nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Trong Chính cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản". Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã
hội làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ,
quân đội của nhân dân (công, nông, binh); về kinh tế là xoá bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo,
thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc
làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu
đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.
Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng
nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông; tranh thủ, phân hoá trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc,
đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế
quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.
Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới
cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
3. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930)
Tháng 10-1930, sau 08 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời có ý
nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố
gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị thảo luận và thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết
của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng,
Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Hội nghị thông qua 17 văn bản là Nghị
quyết, Điều lệ của các tổ chức đoàn thể cách mạng ở nước ta, công tác vận động công nhân, nông dân,
1
thanh niên, phụ nữ, binh lính, lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương và bản Thông cáo cho các Xứ uỷ
bổ sung nội dung của Cương lĩnh, Hội nghị Trung ương quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, nên Cương lĩnh thứ hai mà
bản Luận cương chính trị là văn kiện quan trọng, mang tên là Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm cơ bản giống với Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tính chất cách mạng Đông Dương là cách
mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa;
là độc lập hoàn toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương, lập chính phủ, quân đội
nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết với giái cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp bức
trên thế giời và sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực theo phương thức tổng bãi công, bạo động võ
trang khi có thời cơ; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung thành và hy sinh hết thảy vì lợi
ích dân tộc, lợi ích giai cấp và nhân dân lao động...
4. So sánh Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị
4.1. Điểm giống nhau
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả hai văn kiện đều xác định được tính chất của cách
mạng Việt Nạm là Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa
để đi tới xã hội cộng sản.
- Về nhiệm vụ cách mạng: Chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân tộc.
- Về lực lượng cách mạng: chủ yếu là công nhân và nông dân - hai lực lượng nòng cốt và cơ bản đông
đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.
- Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và vũ
trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính
quyền về tay công nông.
- Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khắng khít với cách mạng thế giới đã thể hiện sự
mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Điểm khác nhau:

STT CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ

Luận cương chính trị xây dựng đường lối cách mạng
Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối
Phạm vi cho Việt Nam nói riêng và các nước Đông Dương nói
của cách mạng Việt Nam
chung.

Tính Xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa Xã hội Đông Dương gồm hai mâu thuẫn dân tộc và
chất xã phong kiến, bao gồm hai mâu thuẫn: giai cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp là cơ bản nhất.
hội
- Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
2
Nam với đế quốc Pháp (mâu thuẫn cơ
bản nhất, gay gắt nhất).
- Mâu thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ
yếu là nông dân) với địa chủ phong kiến.

Tính
Cách mạng trải qua hai giai đoạn: Cách Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản
chất
mạng tư sản dân quyền và Cách mạng thổ dân quyền, sau khi thắng lợi tiến lên XHCN không
cách
địa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. qua giai đoạn phát triển TBCN.
mạng

Xác
định kẻ
thù và Cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù,
nhiệm nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Luận cương chính trị xác định kẻ thù là Đế quốc và
vụ, mục Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và phong kiến.
tiêu tay sai phản cách mạng.
cách
mạng

Mục tiêu của cương lĩnh: Làm cho Việt


Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự
do, dân chủ, bình đẳng, tích thu ruộng đất Luận cương chính trị xác định phải tranh đấu để đánh
Nhiệm của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột
vụ cách cày nghèo, thành lập chính phủ công theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách
mạng nông binh và tổ chức cho quân đội công mạng cho triệt để; đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp,
nông, thì hành chính sách tự do dân chủ làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng
công nông hoá.

Vai trò Giai cấp công nhân thông qua đội tiên Giai cấp vô sản với đội tiên phong là Đảng Cộng sản
lãnh đạo phong là Đảng Cộng sản Việt Nam Đông Dương

Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng Luận cương chính trị xác định giai cấp vô sản và
Lực cách mạng là giai cấp công nhân và nông nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản
lượng dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính
cách minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân
mạng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của
địa chủ. cách mạng.

3
Câu 2Tháng 09/1960, trong diễn văn khai mạc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại
Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Anh / chị hãy phân tích nội dung đường lối cách
mạng Việt Nam mà Đảng đề ra tại Đại hội III (tháng 9-1960).
Vận dụng và liên hệ.
a. Bối cảnh lịch sử
Tháng 09/1960, trong diễn văn khai mạc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ
đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Để làm rõ quan điểm trên, chúng ta cùng tìm hiểu
đường lối cách mạng Việt Nam mà Đảng đề ra tại Đại hội III (9-1960). Đầu tiên, chúng ta cùng xem lại
sơ lược bối cảnh lịch sử của Đại hội III này. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản
Việt Nam diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960 tại Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả 525 đại biểu chính
thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 50.000 đảng viên của cả hai miền đất nước, cùng với sự có
mặt của hơn 16 Đảng Cộng sản và các tổ chức quốc tế khác. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III diễn ra
trong bối cảnh miền Bắc Việt Nam vừa hoàn thành khôi phục kinh tế sau Kháng chiến chống Pháp và Cải
cách ruộng đất cùng với Cải tạo công thương nghiệp; trong khi ở miền Nam một phong trào chống chính
quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ đang diễn ra từ cuối năm 1959 và trở thành Phong trào Đồng khởi từ đầu
năm 1960.
b. Nội dung
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua
Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng
Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,…. Sau đây, tôi
xin phân tích nội dung đường lối cách mạng Việt Nam mà Đảng đề ra tại Đại hội III (tháng 9-1960). Có
6 nội dung chính như sau:
Thứ nhất, về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước
ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời
hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà,
hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Thứ hai, về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền
Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu
chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
Thứ ba, về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả
nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống
nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối

4
với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa
bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Thứ tư, về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương (hay phương châm) kiên quyết giữ vững
đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủtrương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân
dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh
giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến
tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn
thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Thứ năm, về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất
nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay
go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi
cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.
Thứ sáu, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất
là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá
trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã
hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa
và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến
lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là
hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có quan hệ mật thiết, tác
động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội. Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và
văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế
độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước,
lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố
miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Thành công cơ bản, to lớn
nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình
thống nhất Tổ quốc. Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa
phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam vừa phù hợp với
tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả
nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả

5
Liên Xô và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế,
đường lối chung của Đảng còn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải
quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp với lợi ích
của nhân loại và xu thế thời đại.
c. Ý nghĩa lịch sử
- Đánh dấu bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hộichủ nghĩa ở miền Bắc và
đường lối đấu tranh thống nhất đất nước.
- Là cơ sở cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
- Là “nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta xây dựngthắng lợi chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.”
- Thắng lợi của đại hội còn được nhận xét là đưa "miền Bắc nước ta tiến nhữngbước dài chưa từng thấy
(…) đất nước xã hội con người đều đổi mới".
2. VẬN DỤNG, LIÊN HỆ
- Trong đợt dịch bùng phát lần 4, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kêu gọi: “… bảovệ sức khỏe, tính mạng
của nhân dân là trên hết, trước hết, thay mặt lãnh đạo Đảngvà Nhà nước, tôi tha thiết kêu gọi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ởnước ngoài. Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn nữa; đã đoàn kết
càng đoàn kếthơn nữa; đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa; toàn dân tộc muôn người nhưmột, đồng
lòng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành tìm mọi cách quyếtngăn chặn, đẩy lùi bằng được, không
để dịch lan rộng, bùng phát trong cộngđồng”.
- Đảng ta kêu gọi tinh thần đoàn kết của tất cả công dân với câu nói “chống dịchnhư chống giặc”.
- Nhân dân hỗ trợ Đảng và Nhà nước bằng cách phát cơm, khẩu trang miễn phí, tựgiữ gìn sức khỏe bản
thân và giãn cách xã hội theo Chỉ thị Chính phủ.
- Đăng ký làm tình nguyện viên hỗ trợ địa phương chống dịch.
- Địa phương điều đội ngũ cán bộ xuống vùng có dịch hoặc các khu vực phong tỏađể làm nhiệm vụ chắn
chốt
- Đảng và Nhà nước kết hợp với đội ngũ y tế để điều trị cho các bệnh nhân là F0 vàthử nghiệm Covid –
19 đối với bệnh nhân là F1, F2, F3,

6
câu 4
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN GIÀNH NHỮNG
THẮNG LỢI VĨ ĐẠI
Chuyên đề 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NGƯỜI TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO VÀ LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
------------
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, xóa bỏ hoàn toàn chế
độ thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền
độc lập dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt
Nam là người tổ chức, lãnh đạo và là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
I- SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước
Phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc bắt đầu từ ngay từ
năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra hàng
trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến
đấu anh dũng của quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi nghĩa của
Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực… Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi “Cần
Vương” của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám…; các phong trào Đông Du,
Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân… Là cuộc khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam quốc dân
đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo… Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt của nhân dân ta chống
thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân cơ bản là do đường lối cứu nước chưa
đúng, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Thực tiễn của phong trào yêu nước
Việt nam đã đặt ra yêu cầu tìm con đường cứu nước mới.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp
đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời là giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội
Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược
và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai. Vì vậy,
nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai gắn bó với nhau,
không thể tách rời nhau.

7
Sự ra đời và ngày càng trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam mang trong mình chủ nghĩa yêu
nước truyền thống cùng với ý thức giai cấp là cơ sở để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là
sự kết hợp giữa dân tộc và thời đại. Ra nước ngoài, tìm con đường cứu nước mới, Nguyễn Ái Quốc đã từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, trở thành chiến sĩ giải phóng dân tộc và chiến sĩ cộng sản
quốc tế. Người đã hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản, phong
trào công nhân quốc tế, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin qua các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam trong nước đón nhân. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con
đường cách mạng vô sản, làm dấy lên các phong trào đấu tranh sôi nổi khắp cả nước, trong đó có giai cấp
công nhân. Sự phát triển của phong trào công nhân và của các tầng lớp nhân dân đòi hỏi phải có đảng
chính trị lãnh đạo. Vì vậy, đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được
thành lập.
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Việc Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
trong nước và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam phản ánh xu thế tất yếu và bước phát triển
nhảy vọt của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
2. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ
trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống
nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Thay mặt cho Quốc tế Cộng sản, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu
tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chỉ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một
đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách
lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở
nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
8
II- SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
1. Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập dân tộc
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền
- Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh
mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nền lực lượng cách mạng to lớn và
rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh, với ba cao trào cách mạng
lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945); khi thời cơ đến, Đảng đã phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã giành lại nền độc lập của dân tộc sau hơn
80 năm bị đô hộ. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn
Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
b) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đối mặt với ba thứ giặc: giặc đói,
giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nước trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên
tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Đối với các thế lực thù địch, Đảng
đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời gian để củng cố lực
lượng. Với đường lối chính trị sáng suốt, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, củng
cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
c) Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hòa bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân
nhượng, thực dân Pháp vẫn ngày càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Dân tộc ta
buộc phải chiến đấu để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời
kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với tinh thần “thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” . Với đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đảng
đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược bằng chiến thắng tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (7-5-1954).
Chiến thắng Điện Biên Phủ được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một
Đống Đa của thế kỷ XX; góp phần phá vỡ hệ thống thuộc đại của chủ nghĩa thực dân cũ, dẫn tới sự sụp
đổ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân.
d) Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954-1975)

9
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, thực hiện quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ hòng chia
cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập
nhau. Đảng xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững
mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong
đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách
mạng Việt Nam; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng; cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả nước ta tiến hành cuộc kháng
chiên chống Mỹ cứu nước. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, “hễ còn một tên xâm
lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh thắng
các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải
quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và thắng lợi của Chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm sáng
tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ bé, dưới sự lãnh đạo của chính
đảng Mác - Lênin, đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh để giành độc lập và dân chủ, có thể chiến
thắng một kẻ thù xâm lược.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội mới (từ năm 1975 đến nay)
- Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi cơ bản,
nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động
thấp, hậu quả nặng nền do chiến tranh để lại. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
bên ngoài bao vây, cấm vận…, luôn tìm mọi cách phá hoại cách mạng nước ta. Bắt đầu từ cuối những
năm 70 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp, đặc
biệt là sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh
hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được
những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt,
10
đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa - xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được còn thấp so với yêu cầu,
kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân bằng nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức,
đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phản ánh
tích cực những mặt sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh
tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
- Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991 -1996), Đại hội VIII (1996 - 2001), Đại hội IX (2002 - 2006);
Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân
ta phát huy tinh thần sáng tạo, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng (tháng 4 - 2006) đã khẳng định: Sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Điều đó được thực hiện trên cả hai mặt: những thành tựu trong thực tiễn và trong nhận thức.
Về mặt thực tiễn, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an
ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Về mặt lý luận, Đảng đã nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng cũng có mặt, lĩnh vực còn yếu kém, có lúc phạm sai
lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của
mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công kahi tự phê bình, nhận khuyết điểm
trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa
nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam.
III- SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT
NAM
1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc

11
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc
và thiết lập chính quyền của nhân dân. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột
giai cấp công nhân ở chính quốc, vừa bóc lột nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” . Đảng của
giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn phong trào
giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì Đảng tập hợp được
đông đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh trước hết
phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” .
Vì vậy, có thể nói cách mạng giải phóng dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự
lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi của
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước
- V.I. Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Sau thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất có thể tập hợp được đông đảo quần chúng
nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng. Có được khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến
nhất của giai cấp và dân tộc trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì
nền độc lập dân tộc nên được nhân dân tin và đi theo.
- Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt nam có khả năng to lớn để lãnh
đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo phù hợp với thời đại, quy
luật phát triển của xã hội. Đảng không có mục đích tự thân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng
không có lợi ích nào khác.
- Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có thể thay
thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế trong quá trình đấu tranh giai cấp và giữ
chính quyền, có những lực lượng chính trị tham gia cùng với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn,
họ đều chùn bước. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân
tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng của Đảng đã suốt đời
phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
IV- NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH
MẠNG VIỆT NAM
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6-1991) đã tổng kết thực tiễn
hơn 60 năm cách mạng nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra,
12
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu ra
năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam.
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề
này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh
to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định một chân lý: Nhân dân là người làm
nên thắng lợi lịch sử. Để phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đại biểu trung thành cho lợi ích
của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân là nguy
cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và làm cho sự nghiệp cách mạng bị tổn
thất.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử to lớn, lâu dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi. Phát huy
sức mạnh toàn dân tộc là độc lực chủ yếu để đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hóa, quan hệ
quốc tế ngày càng được mở rộng, các yếu tố bên trong và bên ngoài có quan hệ biện chứng, tác động lẫn
nhau. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó đoàn
kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu
vừa là động lực để phát triển đất nước. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của
quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại; là sức mạnh của cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, của các thế lực cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh dân tộc, nguồn lực bên trong là yếu tố quyết định,
đồng thời được bổ sung và nhân lên khi kết hợp được với sức mạnh thời đại và nguồn lực bên ngoài.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước
ta. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình

13
thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Muốn vậy, Đảng cần quán triệt những
nội dung cơ bản sau:
- Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng.
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng
yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Phòng, chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội X của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng”, để “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”; phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiệ đại, “thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại”
./.
Câu 5
Tầm quan trọng của biển đảo Việt Nam
* Về phát triển kinh tế
Biển Đông là vùng biển có 1 trong số 10 tuyến đường hàng hải lớn nhất trên thế giới đi qua. Giao thông
nhộn nhịp đứng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải). Hàng ngày có khoảng 200 - 300 tàu từ 5.000 tấn trở
lên qua lại (không kể tàu dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu lượng tàu hoạt động trên biển của thế giới. Khu
vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, trong đó eo biển Malacca là eo biển
nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz). Biển Đông rất quan trọng đối với nhiều nước trong
khu vực xét về vị trí địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế. Với Mỹ là tuyến hoạt động
chính của Hạm đội 7, có 90% hàng hóa của Mỹ và hàng hóa đồng minh chuyên chở qua Biển Đông. Với
Trung Quốc hàng năm nhập 160 triệu tấn dầu thì 50% dầu nhập và 70% hàng hóa qua Biển Đông. Với
Nhật Bản 70% lượng dầu nhập khẩu và 42% lượng hàng hóa xuất khẩu chuyên chở qua Biển Đông.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát
triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thủy sản), phi sinh vật (dầu
khí, khoáng sản). Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu
vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani, Nam
Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa Sông Châu Giang… Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa
khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài của vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư
Chính. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dầu dự trữ được kiểm chứng ở Biển Đông là 7 tỷ
thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở
Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng.
Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không
huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với
14
Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Điều kiện tự nhiên của bờ biển Việt Nam là tiềm năng
to lớn cho ngành giao thông hàng hải Việt Nam. Dọc bờ biển Việt Nam xác định nhiều khu vực xây dựng
cảng, trong đó có một số nơi có thể xây dựng cảng biển nước sâu như: Cái Lân và một số điểm ở khu vực
Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn, Nghi Sơn, Cửa Lò, Hòn La,
Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quốc, Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải… Phía Nam,
cảng quy mô vừa như Hòn Chông, Phú Quốc… Ngoài sự hình thành mạng lưới cảng biển, các tuyến
đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường
xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi
miền của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ khí đốt. Trữ lượng dự báo tại vùng
biển và thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác từ 4 đến 5 tỷ tấn. Trữ
lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3. Hiện nay, chúng ta đã phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ
lượng khai thác công nghiệp, trong đó đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm cung cấp hàng
triệu tấn dầu và hàng tỷ m3 khí phục vụ cho phát triển kinh tế và dân sinh. Ngoài ra, còn có các khoáng
sản quan trọng và có tiềm năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát thủy tinh, muối và các loại vật liệu
xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Theo các điều tra về nguồn
lợi hải sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật
cư trú, trong đó có 6.000 loài động vật đáy, 2.400 loài cá (trong đó có 130 loài cá có giá trị kinh tế), 653
loài rong biển, 657 loài động vật phù sa, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển… Trữ lượng cá biển
ước tính trong khoảng từ 3,1 đến 4,1 triệu tấn, khả năng khai thác từ 1,4 đến 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải
sản phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, mang
lại giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong các ngành kinh tế của đất nước.
Biển Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch - ngành công nghiệp không khói, hiện đang đóng
góp không nhỏ vào nền kinh tế của đất nước. Do đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra
sát bờ biển đã tạo thành nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vịnh, bãi cát trắng, hang
động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới
như di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như
Phong Nha, Bích Động, Non nước…, các di tích lịch sử và văn hóa như: Cố đô Huế, phố cổ Hội An,
Tháp Chàm, Nhà thờ đá Phát Diệm… phân bố tại vùng ven biển. Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp
để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đại như nghỉ ngơi; dưỡng bệnh; tắm biển; du
lịch sinh thái nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu,
lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền…
* Về quốc phòng - an ninh
Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa ngõ quốc gia; biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình
thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử dân tộc đã ghi nhận có tới 2/3 cuộc chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng đường biển để tấn công xâm
lược nước ta. Những chiến công hiển hách trên chiến trường sông biển đã minh chứng: Ba lần đại thắng
quân thù trên sông Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288); chiến thắng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt
1077; chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 và những chiến công vang dội của quân và dân ta trên
15
chiến trường sông biển trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là những minh
chứng ghi đậm dấu ấn không bao giờ mờ phai trong lịch sử dân tộc.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo Việt Nam có vai trò quan trọng, làm
tăng chiều sâu phòng thủ đất nước ra hướng biển. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có hình chữ S,
trải dài ven biển từ Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600 km, nơi hẹp nhất khoảng
50 km), nên chiều sâu đất nước bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm
trong phạm vi cách bờ biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu chiến tranh xảy ra
thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị công nghệ cao
xuất phát từ hướng biển. Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ được củng cố xây dựng căn cứ, vị trí trú đậu,
triển khai của lực lượng Hải quân Việt Nam và sự tham gia của các lực lượng khác thì biển đảo có vai trò
quan trọng làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu quả cho đất nước.
Từ nhiều năm nay, nhất là những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay trên Biển Đông đang
tồn tại những tranh chấp biển đảo rất quyết liệt và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động
đến quốc phòng và an ninh nước ta. Trên Biển Đông vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển 7 nước
trong khu vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (Tây Nam), Philippin, Malaixia,
Inđônêxia, Brunây (phía Đông, Đông Nam và Nam). Nơi đây đang diễn ra những tranh chấp phức tạp và
quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, đẩy tới xu hướng tăng cường lực lượng quân sự, đặc biệt là hải
quân của các nước trong khu vực, nhất là những nước có tiềm lực lớn về kinh tế, quân sự. Họ tận dụng ưu
thế của mình trên biển để đe dọa chủ quyền vùng biển đảo, thềm lục địa của nước ta, gây ra những nhân
tố khó lường về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh đất nước.
Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn phù hợp trong điều kiện hiện nay. Việt Nam là
một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế giới luôn xem như một yếu tố đặc lợi. Chúng ta cần tăng cường
hơn nữa những khả năng quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực thúc đẩy các vùng khác trong đất
liền phát triển. Chúng ta phải có quyết tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và lợi thế của biển, kết
hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh trên biển để tạo ra môi trường hòa
bình, ổn định, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và ngư dân các địa phương yên
tâm làm ăn trên các vùng biển đảo, nhất là ở vùng biển xa. Phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam
và các lực lượng vững mạnh, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, ngang tầm với yêu
cầu nhiệm vụ để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
* Về tư tưởng, văn hóa, giáo dục
Nhận thức được tầm quan trọng của biển và đại dương đối với cuộc sống nhân loại, chủ quyền và vị trí
chiến lược về quốc phòng - kinh tế - xã hội của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đối với đất nước,
việc tổ chức giáo dục truyền thống trong các tầng lớp nhân dân về chủ quyền đã được chú trọng cả về nội
dung và hình thức.
Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi chuẩn bị trình Chính phủ dự án xây dựng nhà bảo tàng trưng bày
các hiện vật về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa qua các thời kỳ lịch sử, phục chế di tích lịch sử, bảo
tồn và sưu tầm văn hóa phi vật thể trên huyện đảo Lý Sơn.
Từ năm 2002, tài liệu tuyên truyền biển đảo Việt Nam được đưa vào nội dung giảng dạy cho học sinh,
sinh viên các trường đại học và cao đẳng. Đây là những nội dung cơ bản nhất về địa lý, tiềm năng kinh tế,
16
định hướng chiến lược phát triển kinh tế và pháp luật liên quan đến biển đảo Việt Nam cũng như quá
trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.
Song song với phổ biến, tuyên truyền kiến thức biển đảo, các loại hình văn hóa có nội dung liên quan trực
tiếp đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như phim tài liệu, bài viết, các bộ tem về biển đảo Việt
Nam cũng được triển khai. Năm 1998, trong khuôn khổ chương trình năm Quốc tế đại dương do Liên hợp
quốc đề xướng, hãng phim Tư liệu và khoa học Trung ương đã sản xuất bộ phim “Lãnh thổ trên biển
Đông” giới thiệu về các hoạt động bảo vệ chủ quyền và quản lý nhà nước trên quần đảo Trường Sa và
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa với những bằng chứng lịch sử và tư liệu thực tế
phong phú và sinh động.
Tiếp theo cuộc thi “Em yêu biển đảo Việt Nam” được tổ chức năm 1998, năm 2003, Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Tổng cục Du lịch và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục tổ chức
chương trình “Vì biển xanh quê hương” phát động phong trào thi viết, thi ảnh về chủ đề bảo vệ môi
trường biển; thanh niên các tỉnh, thành ven biển tiến hành nhiều đợt ra quân làm sạch bãi biển, trồng cây
chắn sóng và đặc biệt tham gia cuộc thi tìm hiểu về biển đảo Việt Nam với những nội dung thiết thực, hun
đúc thêm ý chí bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trên biển của thanh thiếu niên trong cả nước.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hàng loạt công trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng thiết
thực đã được tiến hành và bước đầu cho kết quả như chương trình khai thác điện năng từ ánh sáng mặt
trời, chương trình nghiên cứu và cải tạo các giống cây thích hợp trên đảo… cũng như hàng loạt đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước đã và đang được triển khai về đánh giá tài nguyên, môi trường Biển
Đông và khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trách nghiệm
Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn biển đảo của tổ quốc
Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền
lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm
xưa đã dặn “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn biển đảo của tổ quốc mẫu 1
Trước tình hình an nguy tới vận mệnh quốc gia, chủ quyền dân tộc; đồng hành với dân tộc Việt Nam; thế
hệ trẻ chúng ta cần nâng cao ý thức trách nhiệm đối với đất nước bằng những việc làm thiết thực. Để bảo
vệ chủ quyền biển đảo, trước hết thanh niên và thanh niên học sinh nói riêng phải xác định phải giữ biển
đảo bằng tri thức về chủ quyền biển đảo.
Chúng ta cần nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng chủ quyền biển đảo và giá trị to lớn
chủ quyền mà ông cha ta đã đổ xương máu để xây dựng; về lịch sử Việt Nam đặc biệt là lịch sử địa lý liên
quan đến chủ quyền biển đảo, về lịch sử hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… tìm hiểu rõ chính sách
ngoại giao nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề biển đông. Thanh niên cần hưởng hứng và tích
cực tham gia các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet, khẳng định
chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn
chặn các hành vi xâm phạm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam. Thanh niên là hậu phương chỗ dựa tình
cảm vững chắc đối với các lính biển đảo, bằng những việc làm thiết thực như gửi thư đến các lính Hải đảo
17
để chia sẻ động viên và tiếp sức cho các anh thêm nghị lực để trông giữ biển đảo. Điều quan trọng , thanh
niên cần không ngừng tu dưỡng phẩm chất người Việt Nam mới, tích cực tham gia xây dựng đất nước
giàu mạnh, có định hướng lý tưởng yêu nước và đoàn kết để tạo nên sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển
đảo. Bên cạnh đó, mỗi người chúng ta cần sẵn sàng chuẩn bị tinh thần tham gia trực tiếp vào công cuộc
giữ gìn biển đảo quê hương bằng tất cả những gì mình có thể. Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ
thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là
ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm xưa đã dặn “Các Vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn biển đảo của tổ quốc mẫu 2
Biển đảo Việt Nam là phần lãnh thổ đất nước Việt Nam, qua nghìn đời nó luôn gắn chặt với đời sống của
cư dân nước Việt cả về vật chất và tinh thần. Bởi vậy, biển đảo trong tâm thức người Việt là đất nước, là
cuộc sống; và thực tế hàng ngàn năm lịch sử người Việt đã ra sức khai phá dựng xây sẵn sàng đổ cả máu
xương cho chủ quyền biển đảo.
Thế nhưng tình hình biển đảo Việt Nam hiện nay đang có những diễn biến phức tạp đe dọa trực tiếp đến
chủ quyền lãnh thổ của dân tộc Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
của người Việt Nam. Điều này đã được chứng minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học. Các tư liệu
khoa học và pháp lý được công bố hiện nay, đều thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ
quyền liên tục, của Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên những năm gần đây, Trung Quốc đã có
nhiều hành động xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam: bắt ngư dân Việt làm ăn, tấn công các
tàu Việt trên vùng biển của chính Việt Nam, ngang ngược xây dựng thành phố Tam Sa trên quần đảo
Hoàng Sa… Vậy để bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước Việt Nam thân yêu. Mỗi người công dân việt
nam ta cần phải có trách nhiệm như thế nào? Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bảo vệ chủ quyền là
nghĩa vụ của mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chúng ta tiến hành việc này bằng sức mạnh tổng hợp.
Hiện nay chúng ta bảo vệ chủ quyền trong thời kỳ hòa bình, cần phải giữ ổn định môi trường cho sự phát
triển, cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cái này là bản lĩnh của chúng ta và cũng
chính là bản lĩnh của thế hệ trẻ. Nhiệm vụ của chúng ta là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiềm lực, khả
năng của chúng ta. Thanh niên bảo vệ Tổ quốc là tham gia phát triển kinh tế, khai thác khoáng sản, du
lịch, dầu khí… Không chỉ có hải quân mới bảo vệ biển, mà còn là dân quân tự vệ biển, trí thức trẻ của các
trường ĐH thuộc các ngành nghề phát triển nguồn lực biển, khí tượng thủy văn… Đó cũng là một cách để
thể hiện tinh thần yêu nước của mình. Bên cạnh đó, thanh niên cần hưởng hứng và tích cực các diễn đàn
hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt
Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm
phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam. Thanh niên là hậu phương chỗ dựa tình cảm vững chắc đối với các
lính biển đảo, bằng những việc làm thiết thực như gửi thư đến các lính Hải đảo để chia sẻ động viên và
tiếp sức cho các anh thêm nghị lực để trông giữ biển đảo. Điều quan trọng nữa là không ngừng tu dưỡng
phẩm chất người Việt Nam mới, tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh, có định hướng lý tưởng
yêu nước và đoàn kết thì chúng ta sẽ kết nối khối sức mạnh lớn đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên
cạnh đó sẵn sàng chuẩn bị tinh thần tham gia trực tiếp vào công cuộc giữ gìn biển đảo quê hương bằng tất
cả những gì mình có thể.

18
Nói túm lại, biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được
cha ông truyền lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời
Bác Hồ năm xưa đã dặn “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn biển đảo của tổ quốc mẫu 3
Tình hình biển đảo Việt Nam hiện nay đang có những diễn biến phức tạp đe dọa trực tiếp đến chủ quyền
lãnh thổ của dân tộc. Trước tình hình căng thẳng của biển Đông, “Thanh niên cần làm gì để bảo vệ Tố
quốc?”, là câu hỏi nhận được sự quan tâm đặc biệt của các bạn trẻ khi đề cập đến thời sự biển Đông.
Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của người Việt Nam. Điều này đã
được chứng minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học. Các tư liệu khoa học và pháp lý được công bố
hiện nay, đều thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam suốt
chiều dài lịch sử. Tuy nhiên những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm hại đến chủ
quyền biển đảo của Việt Nam: bắt ngư dân Việt làm ăn, tấn công các tàu Việt trên vùng biển của chính
Việt Nam, ngang ngược xây dựng thành phố Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa…
Những hành động nói trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối
với các vùng biển của Việt Nam; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề
trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; trái với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các
bên ở Biển Đông và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10 năm, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp.
Đê bảo vệ chủ quyền biển đảo, thanh niên, học sinh cần nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về ý nghĩa
thiêng liêng chủ quyền biển đảo và giá trị to lớn chủ quyền mà ông cha ta đã đổ xương máu để xây dựng;
về lịch sử Việt Nam đặc biệt là lịch sử địa lý liên quan đến chủ quyền biển đảo, về lịch sử hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa… tìm hiểu rõ chính sách ngoại giao nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề biển Đông cũng như nội dung của luật pháp, chế độ pháp lý của các vùng biển
theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
Thanh niên cần hưởng ứng tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên
internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu
tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Thanh niên phải là hậu thuẫn, là chỗ dựa tình cảm vững chắc của những người lính biển đảo, bằng những
việc làm thiết thực như gửi thư đến các lính Hải đảo để chia sẻ động viên và tiếp sức cho các anh thêm
nghị lực để trông giữ biển đảo.
Điều quan trọng nữa là không ngừng tu dưỡng phẩm chất người Việt Nam mới, tích cực tham gia xây
dựng đất nước giàu mạnh, có định hướng lý tưởng yêu nước và đoàn kết thì chúng ta sẽ kết nối khối sức
mạnh lớn đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh đó sẵn sàng chuẩn bị tinh thần tham gia trực tiếp
vào công cuộc giữ gìn biển đảo quê hương bằng tất cả những gì mình có thể.
Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền
lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm
xưa đã dặn “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.

19
Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn biển đảo của tổ quốc mẫu 4
Trước tình hình an nguy tới vận mệnh quốc gia, chủ quyền dân tộc; đồng hành với dân tộc Việt Nam; thế
hệ trẻ chúng ta cần nâng cao ý thức trách nhiệm đối với đất nước bằng những việc làm thiết thực.
Để bảo vệ chủ quyền biển đảo, trước hết thanh niên và thanh niên học sinh nói riêng phải xác định phải
giữ biển đảo bằng tri thức về chủ quyền biển đảo. Chúng ta cần nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về ý
nghĩa thiêng liêng chủ quyền biển đảo và giá trị to lớn chủ quyền mà ông cha ta đã đổ xương máu để xây
dựng; về lịch sử Việt Nam đặc biệt là lịch sử địa lý liên quan đến chủ quyền biển đảo, về lịch sử hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa… tìm hiểu rõ chính sách ngoại giao nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn
đề biển Đông. Thanh niên cần hưởng ứng và tích cực tham gia các diễn đàn hợp pháp trên các phương
tiện thông tin đại chúng, trên internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn,
đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm phạm chủ quyền biển
đảo Việt Nam. Thanh niên là hậu phương chỗ dựa tình cảm vững chắc đối với các lính biển đảo, bằng
những việc làm thiết thực như gửi thư đến các lính hải đảo để chia sẻ động viên và tiếp sức cho các anh
thêm nghị lực để trông giữ biển đảo. Điều quan trọng, thanh niên cần không ngừng tu dưỡng phẩm chất
người Việt Nam mới, tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh, có định hướng lý tưởng yêu nước
và đoàn kết để tạo nên sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh đó, mỗi người chúng ta cần sẵn
sàng chuẩn bị tinh thần tham gia trực tiếp vào công cuộc giữ gìn biển đảo quê hương bằng tất cả những gì
mình có thể.
Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền
lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm
xưa đã dặn “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn biển đảo của tổ quốc mẫu 5
Hoàng Sa và Trường Sa – hai quần đảo oai hùng – một phần lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam đã là
chứng nhân của bao thời kỳ lịch sử dân tộc. Đường bờ biển nước ta dài trên 3260km, kéo dài từ Móng
Cái đến Hà Tiên, có trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ. Từ thuở đội hùng binh Lý Sơn mang gươm vẽ biển ta có
Hoàng Sa, Trường Sa với bao đảo nổi đảo chìm. Biển như lòng mẹ bao la mang đến cho ta bao nguồn lợi
hải sản, nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Biển chứa chan tình yêu thương vẫn ngày đêm vỗ sóng vào
bờ. Đã từng có trận chiến ở Đảo Gạc Ma năm 1988, trận hải chiến mà ông cha ta đã dốc hết sức lực, dùng
tất cả sức mạnh để đấu tranh chống kẻ thù. Ở nơi hải đảo xa xôi ấy các anh đã dâng hiến tuổi xuân xanh
của mình vì độc lập chủ quyền của dân tộc. Các anh đã hy sinh nhưng trên tay vẫn ôm trọn lá cờ Tổ quốc,
lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay.
Ngày nay, đất nước đã hòa bình và phát triển nhưng biển đảo vẫn canh cánh mối lo xâm lấn của các thế
lực thù địch. Nên nhiệm vụ của tuổi trẻ, nhiệm vụ của mỗi thanh niên với tình yêu Tổ quốc, tình yêu biển
đảo lại được đặt lên trên hết. Nơi hải đảo xa xôi những chàng trai lính đảo, những ngư dân Việt Nam cùng
lực lượng kiểm ngư đang ngày đêm bám biển, với lòng nhiệt huyết và trái tim yêu nước nhiệt thành, đang
kiên cường bảo vệ biển đảo quê hương. Trước những cơn giông tố, mỗi người con đất Việt dù trong nước
hay ở nước ngoài đã thể hiện tình yêu nước bằng những việc làm cụ thể hướng về biển đảo. Tất cả đều có
một mẫu chung đó là trái tim nồng nàn, mãnh liệt, thiết tha. Đó là vẻ đẹp muôn đời của dân tộc Việt Nam:

20
“Đứng vững chãi 4000 năm sừng sững/Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa/ Trong và thực sáng hai bờ
suy tưởng/ Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Với lòng biết ơn và ngưỡng mộ tiền nhân, thanh niên Việt Nam hôm nay đứng dưới ngọn cờ hòa bình cần
ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Trước hết mỗi thanh niên cần trang bị cho mình đầy đủ nhận
thức và hiểu biết về tình hình biển Đông theo chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta: cần phải lên
tiếng đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, nhận thức đúng đắn về vai trò của mỗi cá nhân đối với vận
mệnh của đất nước.
Chung tay bảo vệ Trường Sa, Đoàn viên thanh niên cần nêu cao tinh thần tổ chức, kỷ luật, phát động các
phong trào hướng về Trường Sa quyên góp ủng hộ đóng góp công sức nhỏ bé của mình với biển đảo quê
hương.
Câu 1. Vai trò của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSVN?
Hoàn cảnh lịch sử: Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp từng bước
thiết lập bộ máy thống trị với nhiều chính sách dã man tàn bạo, đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng. Trong
bối cảnh đó, nhiều phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều thất bại. Việt Nam rơi vào tình
trạng khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước “tưởng chừng như không có lối ra”.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến Nhà Rồng sang các nước phương Tây tìm đường cứu nước. Đến
tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin,
Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến phát khóc” vì tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Tháng 12/1920,
Người gia nhập Quốc tế cộng sản, tham gia xã hội Đảng Cộng Sản Pháp. Từ một người yêu nước Nguyễn
Ái Quốc trở thành một chiến sĩ cộng sản và hoạt động xuất sắc cách mạng cộng sản Quốc tế. Từ đây, cách
mạng Việt Nam đã chính thức tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn để đi.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động chuẩn bị về tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
1, Sự chuẩn bị về tư tưởng-chính trị: Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác Lê-nin, từ nước ngoài, Nguyễn Ái
Quốc đã viết và gửi sách báo, tài liệu về Việt Nam như: báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn, tác phẩm
Bảnán chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh,… để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin và chỉ rõ con
đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi theo. Các tác phẩm, bài viết của Người từ năm 1921 đến năm
1927 toát lên những quan điểm sau:
Một là, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng
vô sản.
Hai là, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới,
là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại-cách mạng vô sản. Chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộcở các nước thuộc địa có mối liên hệ khăng khít với cách mạng vô
sản ở chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng chính quốc
mà còn có tính chủ động, sáng tạo, có thể giành thắng lợi trước và góp phần thúc đẩy làm cho cách
mạngở chính quốc tiến lên.
21
Năm là, tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạngở thuộc địa là tiến hành giải phóng dân tộc, mở
đường tiến lên giải phóng hoàn toàn những người lao động, giải phóng con người.
Sáu là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nên quần chúng phải được tổ chức thành đội ngũ, được
biết về tính thế cách mạng.
Bảy là, lực lượng cách mạng là toàn thể dân chúng, những người thiết tha với độc lập dân tộc, trong đó
công nông là lực lượng chính, song giai cấp công nhân phải đóng vài trò lãnh đạo.
Tám là, cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng, không thỏa hiệp.
Chín là, cách mạng phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở cho đường lối
cách mạng, phải vững bền về tổ chức. Đảng phải gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
Mười là, cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng quốc tế, nên Cách mạng Việt Nam phải liên hệ,
tranh thủ sự giúp đỡ từ cách mạng thế giới nhưng đồng thời phải đề cao tính tự lực tự cường….
Những quan điểm này được truyền vào Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XX, nhanh chóng trở
thành ngọn cờ hướng đạo dẫn dắt phong trào yêu nướcở Việt Nam phát triển theo con đường cách mạng
vô sản.
2, Sự chuẩn bị về mặt tổ chức: Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên với lực lượng nòng cốt là Cộng sản Đoàn và cơ quan ngôn luận của tổ chức là tờ Tuần báo Thanh
niên. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã truyền bá lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào phong trào
công nhân, phong trào yêu nước và gây dựng cơ sở cách mạng trong nước. Bên cạnh đó, Hội đã mở các
lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ và gửi các thanh niênưu tú đi học tại nước ngoài nhằm đào tạo cán bộ
cách mạng.
Đồng thời, Hội thực hiện chủ trường “vô sản hóa”, đưa các cán bộ hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền để rèn luyện lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, giác ngộ họ, dấn dắt họ đến con đường
đấu tranh; để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê-nin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển
của phong trào cách mạng Việt Nam.
Kết quả của sự chuẩn bị: Với những kết quảấy, các tổ chức cộng sảnở Việt Nam được ra đời, đó là: Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đản, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Song sự tồn tại của ba
tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết
của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Do đó, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
được triệu tập vào 6-1 đến 7-2/1930.
Với việc hội nghị được triệu tập và sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
năm 1930.
3. Ý nghĩa:
Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam:
+, Chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối, chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng
+, Cách mạng Việt Nam có một Đảng duy nhất lãnh đạo với đường lối đúng đắn và thống nhất trên cả
nước
Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử:
22
+, Là kết quả của phong trào đấu tranh dân tộc và giai cấp trong thời đại mới
+, Là kết quả của sự chuẩn bị công phu, chu đáo, tích cực của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng
chính trị và tổ chức
+, Là sự kết hợp biện chứng giữa 3 nhân tố: Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Phong trào công nhân, Phong trào
yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Câu 3: Tình hình VN khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Nội dung,ý nghĩa sự chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược CM của Đảng qua 3 hội nghị Trungương ( HNTW6 -1939, 7-1940, 8-1941)?
a, Hoàn cảnh lịch sử:
Tháng 9/1939 chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Ở nước Pháp, các thế lực phát xít lên nắm chính quyền,
đưa nước Pháp và các nước thuộc địa của Pháp lao vào chiến tranh.
VN là thuộc địa của Pháp , phải gánh chịu hậu quả của chiến tranh. Cụ thể:
+ Kinh tế: thực dân Pháp thi hành chính sách kinh tế thời chiến nhằm vơ vét nguồn nhân lực, vật lực, tài
lực để ném vào chiến tranh.
+ Chính trị: Pháp tiến hành chinh sách khủng bố trắng nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng và Đảng
cộng sản Đông Dương.
+ Quân sự: chúng ra lệnh, tổng động viên, bắt thanh niên Đông Dương đi lính, chết thay cho lính Pháp.
+ Văn hóa -xã hội: Pháp đẩy mạnh tuyên truyền, bảo vệ hi sinh cho Pháp.
Những chính sách trên của Pháp đã làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp hết
sức gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết. Đặt ra yêu cầu Đảng phải điều chỉnh lại đường lối CM cho phù
hợp với bối cảnh lúc này.
Trước yêu cầu trên, nội dung của sự chuyển hướng chỉ đạo của chiến lược cách mạng của Đảng được thể
hiện qua 3 hội nghị trungương: HNTW6 (11-1939), HNTW7 (11-1940) và HNTW8 (5-1941).
b, Nội dung: - HNTW 6:
+ Khẳng định 2 nhiệm vụ chiến lược của CM là chống đế quốc, chống phong kiến không thay đổi nhưng
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc lên hàng đầu. Nhiệm vụ chống phong kiến thực hiện từng
bước. Do đó, tạm gác khẩu hiệu “đanh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày nghèo”, thay bằng khẩu
hiệu “tịch thu ruộng đất cuả bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo”.
+ Thành lập mặt trận phản đế Đông Dương thay cho mặt trận dân chủ nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn
kết dân tộc.
+ Xúc tiến xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức đấu tranh vũ trang chuẩn bị khởi nghĩa. + Chuyển mạnh
phong trào CM từ thành thị về nông thôn, rừng núi giúp Đảng viên và Đảng hoạt động bí mật.
- HNTW 7: + Hội nghị khẳng định chủ trương điều chỉnh chiến lược của hội nghị 6 là đúng đắn, tiếp tục
thực hiện.
+ Hội nghị bàn về phương pháp đấu tranh vũ trang, bầu bổ sung nhân sự cho trungương Đảng.
- HNTW 8: + Hội nghị xác định chống đế quốc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cao cả duy nhất của nhân
dân và Đảng ngay lúc này.
23
+ Thành lập mặt trận Việt Minh thay cho mặt trận dân tộc giải phóng, mặt trận phản đế Đông Dương
nhằm tập trung mội tầng lớp nhân dân không phân biệt giàu nghèo giai cấp, tầng lớp trong 1 mặt trận
thống nhất rộng rãi.
+ Thúc tiến xây dựng mở rộng căn cứ địa CM và đặc biệt quan tâm ct xây dựng đó, đào tạo cán bộ.
+ Xúc tiến khởi nghĩa, coi khởi nghĩa gianh chính quyền là nhiệm vụ cần thiết của cả dân tộc trong giai
đoạn hiện tại.
c, Ý nghĩa: - HNTW6 mở đầu cho chủ trương chuyển hướng chủ đạo chiến lược cách mạng của Đảng.
- HNTW7 phát triển và đến HNTW8 thì chủ trương này được kiện toàn với chủ trương thành lập mặt trận
Việt Minh đấu tranh cho độc lập dân tộc là ngọn cờ để nhân dân ta đanh đuổi Pháp và Nhật.
- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, thể hiện tinh thần độc lập tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta nhằm vào mục tiêu số 1 của cách mạng nước ta. Đồng thời, nó là cơ sở để Đảng ta
đề ra nhiều chủ trương cụ thể nhằm đạt mục tiêu đó.
- Chủ trương chuyển hướng chủ đạo cách mạng của Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
đã tập hợp rộng rãi mọi lực lượng, mọi người VN yêu nước trong mặt trận Việt Minh để có lực lượng làm
tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 thắng lợi.
- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến len giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật,
giành độc lập dân tộc và tự do cho nhan dan
Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử,nội dung vàý nghĩa chủ trương "Kháng chiến ‒ Kiến quốc” ngày 25/11/1945
của Trungương Đảng cộng sản Đông Dương?
a, Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau CM T8/1945
- Thuận lợi:
+ Chính quyền giành được trong toàn quốc, nhân dân phấn khởi xây dựng cuộc sống mới
+ Uy tín của Đảng và Chủ tịch HCM được khẳng định với nhân dân Việt Nam
+ Toàn Đảng, toàn dân quyết tâm xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Khó khăn:
+ Miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa đồng minh tước vũ khí của Nhật thực chất
muốn lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ.
+ Miền Nam: Quân Anh vào tước vũ khí của Nhật nhưng thực chất giúp Pháp xâm lược nam bộ
23/9/1945: Pháp xâm lược Nam Bộ
+ Tàn quân Nhật còn chiếm đóngở nhiều nơi chờ quân đồng minh vào tước vũ khí
+ Nhiều tổ chức đảng phái phản động ra sức chống phá Cách mạng.
+ Nạn đói làm hơn 2 triệu người chết, thiên tai khắc nghiệt dẫn đến nguy cơ 1 nạn đói mới đến gần. Tài
chính kiệt quệ, ngân sách trống rỗng.
+ Văn hóa: Hơn 90% người dân mù chữ

24
+ Quân sự: Lực lượng mỏng, trang thiết bị, vũ khí còn thô sơ
+ Ngoại giao: Chưa có nước nào công nhận sự độc lập và thiết đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Ø Nhận xét:
+ Sau CMT8 chính quyền non trẻ đứng trước nhiều khó khăn to lớn và thử thách vô cùng lớn, khó khăn
chồng chất khó khăn, vận mệnh của dân tộc trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
+ Hai khả năng đặt ra: mất chính quyền phải quay trở lại kiếp người nô lệ hoặc có thế xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng.
+ Thuận lợi hết sức cơ bản, khó khăn to lớn, chồng chất nhưng có thể khắc phục được vì vậy trungương
Đảng quyết định lựa chọn con đường xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đảng đề ra những chủ
trương và biện pháp cụ thể thông qua chỉ thị “Kháng chiến – Kiến quốc” ngày 25/11/1945.
b) Nội dung chủ trương “kháng chiến ‒ kiến quốc”
‒ Tínhchất của cách mạng Đông Dương: là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp tục sự nghiệp cách
mạng Tháng 8/1945
‒ Về chỉ đạo chiến lược:
+ Xác định mục tiêu phải nêu cao của CM VN vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, nhưng không
phải là giảnh độc lập mà là giữ vững độc lập.
‒ Về xác định kẻ thù:
+ Kẻ thù chính là Pháp cần tập trung mũi nhọn vào chúng vì: Pháp đã thống trị VN gần 90 năm; Pháp
được quân Anh giúp sức; Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược VN.
+ Đối với các tổ chức Đảng phái phản động TW Đảng đánh giá thái độ và đề ra đối sách phù hợp
+ Mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất mặt trận Việt ‒ Miên ‒
Lào.
‒ Về phương hướng, nhiệm vụ:
+ Nêu lên 4 nhiệm vụ cơ bản trước mắt là: Xây dựng, bảo vệ chính quyền; chống thực dân Phápở Nam
Bộ, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
+ Kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, với Tưởng thực hiện khẩu hiệu “Hoa‒ Việt thân thiện”, với Pháp
thực hiên “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.
‒ Chỉ thị đề ra các biện pháp cụ thể:
+ Chính trị: Củng cố chính quyền cách mạng; xúc tiến cho tổng tuyển cử 6/1/1946 bầu Quốc hội, lập
chính phủ tri thức; đề ra hiến pháp năm 1946
+ Kinh tế: Diệt giặc đói bằng cách tăng gia sản xuất, nhường cơm sẻáo, lá lành đùm lá rách; Phát động
“tuần lễ vàng”,ủng hộ “quỹ độc lập” -> thu được 370 kg vàng 20tr cho “quỹ độc lập”
+ Văn hóa: Diệt giặc dốt, bài trừ văn hóa ngu dân, xóa nạn mù chữ, xây dựng nền văn hóa mới
+ Quân sự: Động viên toàn dân tham gia kháng chiến

25
+ Ngoại giao: Cứng rắn về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về chính sách, nhân nhượng bên trên, dồnáp lực
của quần chúng bên dưới để chống lại chúng; nhân nhượng với Tưởng và hòa hoãn với Pháp ( ký hiệp
định sơ bộ, ký tạmước);...
c, Ý nghĩa của chủ trương
‒ Chỉ đúng kẻ thù chính để tập trung đấu tranh.
‒ Xác định đúng những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng.
‒ Soi sáng con đường xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
‒ Thể hiện 1 quy luật của VN sau CM T8/1945 là xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới
đó cũng chính là quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Câu 5: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1946-1954?
- Hoàn cảnh lịch sử:
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, Pháp đã có những hành động trắng trợn, vi phạm các điều đã
kí kết với chính phủ ta như: hiệp định Sơ bộ (6-3), tạm ước (14- 9). Sau khi được đưa quân ra miền Bắc ,
Pháp đã có những hành động như: đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, tước vũ khíở Hà Nội.
Mặc dù chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, Pháp càng lấn tới, đến lúc
chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm kháng chiến quốc bùng nổ
để bảo vệ nền độc lập dân tộc của mình. Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong 3 văn kiện: Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh; Chỉ thị toàn dân kháng chiến của trungương Đảng; Tác
phẩm: “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh.
- Nội dung đường lối kháng chiến:
+ Tính chất của đường lối kháng chiến: Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình,
cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới, là cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân
dân VN.
+ Phương châm của đường lối kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
* K/c toàn dân: thể hiện qua lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch HCM “bất ký đànông đàn bà
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tốc, bất kỳ người già người trẻ, hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân thành chiến sĩ đánh giặc, mỗi đường phố làng mạc trở
thành pháo đài.
* K/c Toàn diện: tức là đánh giặc trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao.
+ Kinh tế: thực hiện xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương mại, công nghiệp quốc phòng.
+ Chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết với nhân dân yêu chuộng tự do hòa bình trên thế giới.
+ Quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng
nhân dân và đất đai. Thực hiện du kích chiến, tiến lên vận động chiến, đánh chính quy.

26
+ Văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc:
dân tộc, khoa học và đại chúng.
+ Ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận
Việt Nam độc lập.
* Kháng chiến lâu dài: chốngâm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp để có thời gian phát huyưu thế
mạnh của ta như: thiên thời địa lợi nhân hòa, lâu dài để chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu
hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
* Dựa vào sức mình là chính: tự cấp, tự túc về mọi mặt vì ta bị bao vây tứ phía, chưa được nước nào giúp
đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, xong lúc đó cũng
không đượcỷ lại.
* Triển vọng k/c: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
- Ý nghĩa: Đường lối k/c công bố sớm cho thấy sự chủ động, không bất ngờ trước tình hình đã có tác
dụng đưa cuộc k/c nhaanh chóng đi vàoổn định, phát triển đúng hướng, từng buowcs đi tới thắng lợi cho
dân tộc Việt Nam.
Câu 6: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung vàý nghĩa đường lối cách mạng Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng tháng 9/1960 đề ra?
Bài làm:
a. Hoàn cảnh lịch sử
Về tình hình thế giới:
- Thuận lợi:
+ Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học – kĩ thuật, nhất là của Liên Xô.
+ PT giải phóng dân tộc tiếp tục phát triểnở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
+ PT hòa bình, dân chủ lên caoở các nước tư bản CN.
- Khó khăn:
+ Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu bá chủ thế giới với các chiến lược toàn
cầu phản CM.
+ TG bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe XHCN và tư bản CN, xuất hiện
sự bất đồng trong hệ thống XHCN, nhất là giữa Liên Xô và TQ.
Tình hình VN sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (1954):
- Thuận lợi:
+ Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa vững chắc cho cả nước.
+ Thế và lực đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến.
+ Cóý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.
- Khó khăn:

27
+ Đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhảy vào miền Nam nước ta nhằm
chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước ta bị chia làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau.
- Miền Bắc làm CM CNXH, nền KT nghèo nàn, lạc hậu.
- Miền Nam tiếp tục công cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân, trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Trong hoàn cảnh đó, Trungương Đảng đã họp nhiều hội nghị chuyên đề bàn về đường lối cách mạng của
Việt Nam, của cách mạng mỗi miền. Đến tháng 9/1930 Đảng triệu tập Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3
tại Hà Nội nhằm đưa ra những quyết định mới về chiến lược cách mạng nhằm thống nhất đất nước.
b. Nội dung
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã xác định:
* Nhiệm vụ chung:
“Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh CMXHCNở miền
Bắc, đồng thời đẩy mạnh CM dân tộc dân chủ nhân dânở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, trên
cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hòa bìnhở Đông Nam Á và TG”.
* Nhiệm vụ của mỗi miền:
+ CM XHCNở miền Bắc: có nhiệm vụ xây dựng miền Bắc trở thành căn cứ địa vững mạnh, hậu phương
lớn để cung cấp sức người sức của cho tiền tuyến miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ.
+ CM dân tộc dân chủ nhân dânở miền Nam: có nhiệm vụ đánh thắng đế quốc Mỹở miền Nam, hoàn
thành nốt công cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân, bảo vệ miền Bắc XHCN.
* Vị trí và vai trò của mỗi miền:
+ CM XHCNở miền Bắc: có vai trò quyết định nhất (do có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ
địa của cả nước, hậu thuẫn cho CM miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau) đối với công
cuộc chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
+ CM dân tộc dân chủ nhân dânở miền Nam: có vai trò quyết định trực tiếp trong công cuộc chống Mỹ
cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
* Mối liên hệ của CM 2 miền:
+ Mỗi miền đều có nhiệm vụ khác nhau, vai trò, vị trí khác nhau nhưng cả hai miền có mối liên hệ mật
thiết với nhau bởi vì cả hai miền đều có chung 1 mục tiêu: hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
cùng đi lên xây dựng CNXH.
+ Cả 2 miền đều do 1 Đảng duy nhất lãnh đạo, 1 quân đội thống nhất tiến hành.
* Con đường thống nhất đất nước: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con
đường hòa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng
tuyển cử hòa bình thống nhất VN.
* Triển vọng của CMVN: Là cuộc đấu tranh gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài nhưng nhất định thắng
lợi, đất nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
c. Ý nghĩa
28
- Việc tiến hành đồng thời 2 cuộc cách mạng là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-
Lênin trong điều kiện cụ thểở Việt Nam.
- Nhờ vào việc nắm vững đường lối này mà Đảng đã phát huy được sức mạnh cả nước trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ.
- Đây là 1 hình thái đặc biệt của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình
lãnh đạo cách mạng của Đảng. Thể hiện sự độc lập, tự chủ, sáng tạo của của Đảng trong việc xử lý những
vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn, vừa hợp với lợiích của nhân loại và xu thế của
thời đại.
Câu 7: Quan điểm của Đảng CSVN về CNH-HĐHở Việt Nam hiện nay? Phân tích quan điểm 1 “CNH
gắn với HĐH và CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường ( hoặc quan
điểm 2 ” CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” ) ?
a. Khái niệm: CNH-HĐH là Quá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức
lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp
và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
b. Mục tiêu
*Mục tiêu cơ bản lâu dài của CNH, HĐH là cải biến nước ta thành một nước CN có cơ sở vật chất – kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh.
*Mục tiêu đến năm 2020: Đại hội X (4-2006) của Đảng xác định: Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước
CN theo hướng hiện đại.
c. Quan điểm CNH - HĐH
1.CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
2. CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
4. Phát triển Khoa học và công nghệ là nền tảng, động lực của CNH, HĐH.
5. Phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển VH, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
d. Phân tích quan điểm:
1,“CNH gắn với HĐH,CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”
-CNH gắn với HĐH:
+ Khoa học và công nghệ có bước phát triển nhảy vọt, tác dộng đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã
hội. Vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa.

29
+ Để làm được những điều này thì ta phải tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật trên thế giới, sáng
tạo ra những sản phẩm khoa học và công nghệ mới, đồng thời vận dụng thành quả vào Việt Nam cho phù
hợp để phát huy triệt để nhữngứng dụng của khoa học.
-CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường:
+ Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định
đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lược cuộc sống. Trong nền kinh tế đó, những
ngành kinh tế có tác động lớn đến sực phát triển dựa nhiều vào tri thức, dựa nhiều vào thành tựu của khoa
học, công nghệ.
+Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại đang nổ ra như vũ bão, kinh tế tri
thức ngày càng có vai trò nồi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, hơn nữa xu thế hội nhập và
tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong
bối cảnh đó, chúng ta cần gắn CNH-HĐH với việc phát triển nền kinh tế tri thức.
+ Để làm được điều này thì chúng ta cần phải tiếp thu những thành tựu mới của khoa học công nghệ, vận
dụng vào quá trình sản xuất, quan tâm các ngành kĩ thuật dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học… , Vì vậy chúng ta không cần phải phát triển một cách tuần tự từ kinh tế nông
nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức mà chúng ta có thể tận dụng lợi thế của
nước đi sau để đồng thời thiến hành CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
+ Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên:
•Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia. Quan tâm đầu tư vào lĩnh vực môi trường, khắc phục tình trạng
xưống cấp môi trường. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gâyô nhiễm môi trường; thực hiện nguyên tắc
người gâyô nhiễm phải xử lýô nhiễm hoặc chi trả cho việc xử lýô nhiễm.
• Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng – thủy văn, chủ động phòng chống thiên
tai, tìm kiếm, cứu nạn.
• Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm
phát triển bền vững.
• Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú trọng lĩnh vực
quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
2, “CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc.”
Khác với CNH thời kỳ trước đổi mới được tiến hành trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lực lượng
làm CNH chỉ có nhà nước, trong thời kỳ đổi mới, CNH được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo.
Phương thức phân bố các nguồn lực để công nghiệp hóa cũng được thực hiện bằng cơ chế thị trường. Cơ
chế này giúp khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để
đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
CNH-HĐH ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Điều này nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ
hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển. Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ sản phẩm mà nước ta có
30
nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Qua đó giúp nước ta phát triển kinh tế nói chung và CNH, HĐH nói
riêng nhanh hơn, hiệu quaqr hơn.
Câu 8: Nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghiã trong phát triểu kinh tế thị trườngở Việt Nam
do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X(2006) của Đảng CSVN đề ra?
Đại hội IX của Đảng tháng 4 -2001 xác định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội , đó là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
Kế thừa tư duy của đại hội IX, đại hội X và XI của Đảng đã làm rõ hơn về nội dung cơ bản của định
hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trườngở nước ta, thể hiệnở 4 tiêu chí:
- Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩaở nước ta nhằm
thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản
xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Mục tiêu
này được thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì mọi người, mọi người đều được hưởng những thành
quả phát triển , đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận, phục vụ lợiích của nhà nước tư
bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản
- Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
nhằm giải phóng mọi tiềm năng, mọi thành phần kinh tế trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền, phát huy
tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điểu tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển, tăng cường kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa,
giáo dục và đào tạo giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người hạn chế tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực phân phối định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế
độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội, đồng thời để huy động mọi
nguồn lực kinh tế cho sự phát triển, chúng ta còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn
lực khác.
- Về quản lý: Phát huy vai trò quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự
khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo đảm quyền lợi chính
đáng của con người.
Tóm lại, những tiêu chí trên vừa thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Câu 9: Chủ trương của Đảng CSVN về xây dựng nhà nước Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩaở Việt
Nam hiện nay
Chủ trường Xây dựng NNPQXHCN là sự khẳng định và thừa nhận NNPQ là 1 tất yếu lịch sử.

31
NNPQ không phải là 1 sản phẩm riêng của XHTBCN mà là tinh hoa sản phẩm trí tuệ của xã hội loài
người, của nền văn minh nhân loại mà Việt Nam cần tiếp thu và học tập.
Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu hay một chế độ Nhà nước, mà đó là một cách thức tổ chức
và phân công quyền lực Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị thì nhà nước đóng vai trò trụ cột, xây dựng NNPQXHCN vững mạnh mới đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước và xã hội.
- Đặc điểm cơ bản của NNPQVN:
+ Một là, Nhà nước pháp quyền VN XHCN là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Hai là, trong nhà nước pháp quyền VNXHCN, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành
mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
+ Ba là, nhà nước pháp quyền VNXHCN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và
đảm bảo các hiến pháp, các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Bốn là, nhà nước pháp quyền VNXHCN luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,
nâng cao trách nhiệm pháp lí giữa nhà nước với công dân, tiến hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ
cương, kỷ luật.
+ Năm là, nhà nước pháp quyền VNXHCN là nhà nước do Đảng CSVN duy nhất lãnh đạo, đồng thời bảo
đảm sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của MTTQVN và các tổ chức thành viên của mặt
trận.
- Biện pháp xây dựng NNPQXHCN:
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật, xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến hợp pháp trong các hoạt động và quyết định
của các cơ quan công quyền
+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của quốc hội, hoàn thiện cơ chế bầu cử, nhằm nâng cao chất
lượng đại biểu quốc hội, đổi mới quá trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh, thực hiện
tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng cơ
quan hành pháp thống nhất, thông suốt hiện đại.
+ Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lí,
quyền con người, tăng cường cơ chế giám sát, đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp.
+ Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân,ủy ban nhân dân các cấp, đảm bảo quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm trong quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân
cấp.
Câu 10: quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa giai đoạn hiện nay?

32
Theo nghĩa rộng: VHVN là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc VN sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Theo nghĩa hẹp: văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, là hệ các giá trị truyền thống, lối sóng, là nằn
lực sáng tạo của 1 dân tộc, là bản sắc của 1 dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
- Quan điểm chỉ đạo:
+ Một là: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.
+ Hai là: Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Ba là: nền văn hóa VN là nên văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc VN.
+ Bốn là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng:
+ Năm là: giáo dục và dào tạo cùng với khoa học công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
+ Sáu là: văn hóa là 1 mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài đòi hỏi
phải cóý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
- Phân tích quan điểm 1:
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và cnxh theo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư
tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa, truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Bản sắc dân tộc được
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị
của dân tộc, đó là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng bất khả xâm
phạm. Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của dân tộc, vì vậy cần xây dựng và hoàn thiện các giá
trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với với loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời , phong tục tập quán và lề
thói cũ, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Phân tích quan điểm 4:
Mọi người VN phấn đấu vì dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh đều tham gia sự nghiệp
xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà.
Công nhân, nông dân, tri thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh của Đảng, quản lí của nhà nước,
Đội ngũ tri thức gắn bó với nhân dân, giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này, sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa do đảng lãnh đạo và nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ.
Câu 11: Chủ trương, chính sách lớn của Đảng CSVN về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tếở
Việt Nam hiện nay?

33
§ Công tác đối ngoại là một mặt trận quan trọng ngang hàng với các mặt trận kinh tế, chính trị, quân sự,
văn hóa. Ngay từ trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã khẳng định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới
§ Quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ ngoại lực, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại
trong thời kì mới để phát triển đất nước
§ Đoàn kết quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi, đoàn kết quốc
tế là một trong những bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế
§ Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu,ổn định bền vững.
§ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp
§ Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế cho phù hợp
§ Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hiệu lực của bộ máy nhà nước
§ Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế
§ Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập
§ Giữ vững và tăng cường quốc phòng an ninh trong quá trình hội nhập
§ Phối hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính trị đối ngoại

§ Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị
Câu hỏi 1 : Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ
chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Chuẩn bị về mặt tư tưởng chính trị:
+ Tố cáo tội ác của thực dân pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa.
Người viết nhiều bài đăng trên các báo : “Người cùng khổ”,”đời sống công nhân”,”Nhân đạo”,tạp
chí”Cộng sản”,”thư tín Quốc tế”, đặc biệt là năm 1925 Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp ”đã gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn đến các phong trào yêu nước trong nước và các nước thuộc
địa….
Trong nội dung của các bài báo ,các tác phẩm người đều lên án chủ nghĩa thực dân , vạch trần bản
chất xâm lược phản động , bóc lột ,đàn áp tàn bạo của chúng. Người tố cáo đanh thép trước thế giới
và nhân dân pháp tội ác tày trời của thực dân pháp với các nước thuộc địa và thức tỉnh lòng yêu nước ,
ý chí phản kháng của các dân tộc thuộc địa.
+ Phác thảo đường lối cứu nước(thể hiện tập trung trong các tác phẩm “Đường cách mệnh”)nội dung
cơ bản của tác phẩm là :

34
– Đi sâu vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩ thực dân.Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của
các dân tộc thuộc địa ,của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, là kẻ thù trực tiếp và
nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa…
– Con đường đi lên của cách mạng việt nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cuộc
cách mạng XHCN đi lên CNXH .Hai giai đoạn cach mạng này có quan hệ mật thiết tác động qua lại
lẫn nhau
– Mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa có mối quan hệ khăng khít với
nhau.Phải thực hieenj sự lien minh chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng ở thuộc địa và chính
quốc.Đặc biệt người chỉ rõ cách mạng thuộc địa có tính chủ động , độc lập có thể giành độc lập trước
cách mạng chính quốc góp phần đẩy mạnh cách mạng chính quốc
– Về lực lượng cách mạng: công nông là chủ ,là gốc của cách mạng còn người học trò nhà buôn nhỏ
điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông.Cách mạng là việc chung của dân chúng chứ không phải là
việc của một hai người
– Mục tiêu cách mạng: Quyền lực thuộc về nhân dân
– Về đoàn kết quốc tế : đặt cách mạng VN là một bộ phận của cách mạng trên thế giới, phải thực hiện
sự liên minh ,đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới
– Về đảng tác phẩm nhấn mạnh các cách mạng muốn thắng lợi trước hết phải có đảng cộng sản lãnh
đạo lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm tư tưởng và vận dụng học thuyết đó vào VN
Đó là những hoạt động chính trị và những tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc truyền bá vào VN
đầu thế kỉ 20, hướng cho phong trào giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản , dẫn đến sự ra đời của
đảng cộng sản VN
2. Chuẩn bị về mặt tổ chức:
+ Năm 1921 NAQ cùng một số nhà cách mạng ở các nước thuộc địa Pháp lập ra hội liên hiệp các dân
tộc thuộc địa , nhằm tập hợp các lực lượng chống CN thực dân
+ Nam 1924 NAQ tới Quảng Châu-Trung Quốc cùng với những nhà lãnh đạo cách mạng các nước
Trung Quốc Triều Tiên,Ấn Độ,Thái Lan,Indonesia…thành lập hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
đông
+ Tháng 6-1925 NAQ thành lập hội VN cách mạng thanh niên để huấn luyện cán bộ trực tiếp truyền
bá chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân , phong trào yêu nước ỏ Việt nam.Đây là tổ chức
tiền thân của đảng .
Hội Vn cách mạng thanh niên và tác phẩm “Đường cách mệnh” đã trực tiếp chuẩn bị về chính trị ,tư
tưởng và tổ chức cho việc thanh lập chính đảng vô sản ở VN dân đến sự ra đời của các tổ chức cộng
sản ở VN :

35
Đông dương CS đảng (6-1929),A Nam CS đảng  (7-1929), Đông Dương CS Liên Đoàn (1-1930).Từ
ngày 3-7/2/1930 hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở Cửu Long –Hương Cảng –Trung
Quốc dưới sự chủ trì của NAQ đã nhất trí thành lập đảng cộng sản VN .Hội nghị thông qua chính
cương vắn tắt ,sách lược vắn tắt , điều lệ vắn tắt của đảng và lời kêu gọi của NAQ nhân dịp thành lập
đảng các văn kiện quan trọng  của đảng được hội nghị thông qua cương lĩnh đầu tiên của đảng ta
3.Ý nghĩa của sự ra đời của đảng
+ Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của  lịch sử cách mạng nước ta chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng về đường lối cứu nước trong những năm đầu thế kỷ 20 đồng khẳng định vị trí lãnh đạo của giai
cấp công nhân VN
+ Đảng ra đời là kết quả tất yếu khách quan phù hợp với xu thế thời đại
+ Đảng ra đời là sự kiện có ý nghĩa quyết định với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng VN.
Đây chính là điều kiện cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng VN .
+ Đảng ra đời mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của dân tộc –thời kỳ độc lập dân tộc dân chủ gắn
liền với CNXH .Đảng ra đời trở thành  ngọn cờ đoàn kết các yếu tố giai cấp dân tộc quốc tế tạo ra sức
mạnh tổng hợp của cách mạng giành thắng lợi.
Câu 2: Trình bày nội dung cơ bản của chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và đc hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-
1930 thông qua
1. Hoàn cảnh lịch sử
hội nghị thành lập Đảng (từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930) họp ở bán đảo Cửu Long (Hương Cảng-
Trung Quốc ). Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một Đảng Cộng sản duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện
quan trọng, trong đó có Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do nguyễn ái quốc khởi
thảo.
2. Nội dung cơ bản của Chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt đã vạch ra những nội dung cơ bản của đường lối cách mạng
Việt Nam
Đó là:
– Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để di tới xã hội cộng sản. đây là
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản bao gồm ba nội dung gắn bó với
nhau: dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
– Trong giai đoạn thực hiện chiến lược cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa, nhiệm vụ
của cách mạng về các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội là:

36
+ Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước việt nam hoàn toàn
độc lập; dựng ra Chính phủ công, nông, binh; tổ chức ra quân đội công-nông.
+ Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân
hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công, nông, binh. Thu hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo. Miễn thuế cho dân nghèo; mở
mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật: ngày làm 8 giờ.
+ Về phương diện xã hội: dân chúng được tự do, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng
công nông hóa.
– Về giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng:
3. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giao cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
– Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng đánh gục bọn đại địa chủ và phong kiến.
– Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực
và ảnh hưởng của bọn tư sản quốc gia.
– Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức trung nông, Thanh niên, Tân việt… để kéo họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (đảng lập hiến…) thì phải đánh đổ.
– Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ chút lợi ích gì của
công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp
Như vậy, lực lượng cách mạng bao gồm các giai cấp và tầng lớp như công nhân, nông dân, tiểu tư
sản, trí thức, tư sản dân tộc và các các nhân yêu nước thuộc tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ, trong đó giai
cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Về đoàn kết quốc tế:
Đoàn kết chặt chẽ với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã phát triển thêm một số luận điểm quan trọng trong tác
phẩm Đường cách mệnh như tính chất Đảng chia ruộng đất của đế quốc và địa chủ, phản cách mạng
cho nông dân nghèo, lợi dụng mâu thuẫn có nguyên tắc… Cương lĩnh chính trị của Đảng ra đời sau.
Nghị quyết Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ XI khoảng một năm rưỡi, đồng thời đã không chịu ảnh
hưởng một số quan điểm “tả” của quốc tế cộng sản.
4. ý nghĩa lịch sử
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do nguyễn ái quốc khởi thảo là cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của Đảng cộng sản Việt Nam, đó là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng

37
tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới. Độc lập, tự do gắn liền với định hướng tiến lên
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
Câu 3: Phân tích ND chủ trương điều chỉnh chiến lược Cách mạng của ĐCS Đông Dương khi
chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ.
Hoàn cảnh lịch sử :
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1923 đã đẩy mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa TB lên
cao và sâu sắc .Chủ nghĩa phát xít ra đời và thống trị ở Đức Ý Nhật, nó xóa bỏ mọi quyền tự do dân
chủ, tiến hành khủng bố khơi ngòi chiến tranh thế giới. Chủ nghĩa phát xít trở thành thảm họa cho
nhân loại .
Yêu cầu bức thiết của nhân loại là chống phát xít, chống chiến tranh bảo vệ hòa bình.
Tháng 7-1935 quốc tế cộng sản tiến hành đại hội lần thứ 7 tại Matxcơva,đại hội phân tích âm mưu thủ
đoạn của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ phát xít đối với cách mạng thế giới vạch rõ kẻ thù của nhân
dân thế giới lúc này không phải chủ nghĩa đế quốc hay chủ nghĩa tư bản nói chung mà là chủ nghĩa
phát xít
Nhiệm vụ trước mắt của công nhân quốc tế là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đế
quốc giành dân chủ hòa bình, bảo vệ Liên Xô để thực hiện nhiệm vụ trên giai cấp công nhân quốc tế
phải thống nhất hành động phải thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít, đối với
các nước nửa thuộc địa vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
*Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng CS Đông Dương
Những biến đổi của tình hình trong nước đặt đảng cộng sản đông dương trước yêu cầu mới tháng 7
năm 1936 hội nghị ban chấp hành trung ương đảng họp tại Thượng Hải, Trung Quốc do đồng chí Lê
Hồng Phong chủ trì.
Căn cứ vào tình hình thế giới, trong nước, nắm vững tư tưởng chỉ đạo của quốc tế Cộng Sản, hội nghị
đã kịp thời chuyển hướng  chỉ đạo chiến lược .
Hội nghị khẳng định : Chống đế quốc , chống phong kiến , giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân
cày là mục tiêu không thay đổi. Song mục tiêu, nhiệm vụ trực tiếp trước mắt là đấu tranh chống bọn
phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ cơm áo hòa bình .
Hội nghị quyết định thành lập mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương bao gồm các giai cấp, các lực
lượng cách mạng, các đảng phái, các xu hướng chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đấu tranh
đòi những điều dân chủ đơn sơ.
Trong khi nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng: Đề cao hoạt động bí mật của Đảng; thu nạp Đảng viên
và củng cố hàng ngũ của đảng.
Hội nghị chủ trương thay đổi hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh, tận dụng điều kiện hợp
pháp công khai, nửa hợp pháp nửa công khai để tổ chức và hoạt động.

38
Hội nghị đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng ta giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục
tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể, trước mắt, mối quan hệ giữa củng cố khối liên minh công nông và
mở rộng mặt trận giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới.
Thực hiện chủ trương, chính sách mới, Đảng đã nhanh chóng phát động được một phong trào cách
mạng sôi nổi, thu nhiều thắng lợi có ý nghĩa to lớn. Thành quả nổi bật nhất là đã xây dựng được đội
quân chính trị của hàng triệu quần chúng trong cao trào cách mạng 1936-1939, tạo nền tảng cho thắng
lợi tiếp theo .
Câu 4: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng
Tám 1945.
1. nguyên nhân thắng lợi.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám là kết quả tổng hợp của những nhân tố bên trong và nhân tố bên
ngoài, là kết quả sự lãnh đạo đúng đắn của đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh kết hợp với trí sáng tạo,
tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, là kết quả của ba cao trào cách mạng
1930-1931, 1936-1939, 1939-1945; sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng tháng 8.
– thắng lợi của cách mạng t8 là thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ
chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc,
phải thực hiện từng bước với khẩu hiệu thích hợp, sự chỉ đạo chiến lược tài tình của đảng đánh dấu
bước trưởng thành của đảng ta.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám chủ yếu và trước hết là thắng lợi của đạo quân chủ lực cách
mạng là công nhân và nông dân- thành phần chiếm số đông nhất của dân tộc, lực lượng hăng hái và
triệt để nhất có tác dụng quyết định, thành công của Cách mạng tháng Tám. Cách mạng tháng Tám là
sự nổi dậy đồng loạt của nhân dân trong cả nước.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám còn là thắng lợi của chủ trương lợi dụng những mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ thù, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn
trong hàng ngũ ngụy quyền, các hạng tay sai của Pháp và của Nhật.
– Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cm một cách thích hợp để đập tan bộ
máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng
thời cơ.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của việc xây dựng một đảng Mác-Lênin có đường
lối đúng đắn, bảo đảm thông suốt và quán triệt đường lối đó trong thực tiễn chuẩn bị khởi nghĩa và
khởi nghĩa, làm cho tổ chức đảng có chất lượng cao, tinh gọn, trong sạch, vững mạnh và ăn sâu bám
rễ trong quần chúng.

39
2. Ý nghĩa lịch sử
– Cách mạng tháng Tám là bước nhảy vọt vĩ đại  đánh dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch
sử tiến hóa của dân tộc ta. Nó đập tan sự thống trị của thực dân trong 87 năm, kể từ khi thực dân Pháp
nổ súng xâm lược nước ta.
– Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử
dân tộc. Dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người` chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ
một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông Nam Á.
– Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã sáng tạo ra những kinh nghiệm lịch sử góp phần xây dựng kho
tàng lý luận về Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đồng thời
để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cuộc kháng chiến lâu dài chống Pháp, chống Mỹ.
– Cách mạng tháng Tám đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.
+  Nói về ý nghĩa lịch sử vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo CM thành công, đã nắm
chính quyền toàn quốc”.
2. Bài học kinh nghiệm
Kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám rất phong phú, dưới đây là một số bài học chủ yêu:
– Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm
vụ chống đế quốc, phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu thích hợp.
– Xây dựng khối liên minh công-nông-trí thức vững chắc làm cơ sở để xây dựng và mở rộng mặt trận
dân tộc thống nhất, đã tạo ra sức mạnh áp đảo, toàn dân nổi dậy trong  Cách mạng tháng Tám, làm tê
liệt sức đề kháng của kẻ thù
– Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc
phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ
ngụy quyền và các hàng ngũ tay sai của Pháp và của Nhật. Kết quả của việc lợi dụng đó đã làm cô lập
cao độ được bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động, tranh thủ hoặc trung lập những phần tử
lừng chừng, làm cho cách mạng có thêm lực lượng dự bị hùng hậu đông đảo, làm cho Cách mạng
tháng Tám giành thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu, giảm bớt được những trở ngại hy sinh ko cần thiết.
– Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập
tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của dân, do dân và vì dân.

40
Ngay từ khi ra đời , Đảng đã khẳng định con đường duy nhất để đánh đổ chính quyền của đế quốc và
phong kiến là con đường bạo lực cách mạng. Bạo lực của Cách mạng tháng Tám được sử dụng một
cách thích hợp ở chỗ: kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, kết hợp nổi dậy của
quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn lẫn thành thị, trong đó
đòn quyết định là các cuộc nổi dậy ở Hà Nội, Huế, và Sài Gòn: kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị
với đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ
thấp đến cao, từ một vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa,
dần dần làm biến đổi lực lượng so sánh giữa ta và địch, tạo ra ưu thế áp đảo, đập tan bộ máy nhà nước
của giai cấp thống trị.
– Nắm thời cơ, chớp đúng thời cơ được coi là nghệ thuật lãnh đạo Cách mạng tháng Tám, dự đoán
thời cơ đúng, xây dựng lực lượng có hiệu quả, hành động mau lẹ kịp thời, kiên quyết và khôn khéo
khi thời cơ xuất hiện
xây dựng đảng Mác Lênin vững mạnh, thống nhất ý chí hành động, trung thành vô hạn với dân tộc và
giai cấp.
Câu 5: Trình bày nội dung cơ bản của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân do Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2-1951) của Đảng Lao Động Việt Nam đã xác định.
1. Hoàn cảnh lịch sử: 
a) Hoàn cảnh thế giới:
Sự ra đời của các nước xã hội chủ nghĩa chiếm 1/3 dân số và 1/4 đất đai trên thế giới đã tạo ra một thế
rất vững chắc, một lực lượng hùng hậu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của cách mạng nước ta.
b) Tình hình trong nước:
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời, Đảng lãnh đạo nhân dân
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ giành những thắng lợi vang dội…
Yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra cho Đảng ta nhiều nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi Đảng trở lại
hoạt động công khai để đẩy cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng Sản Đông Dương
được triệu tập. Đại hội được tổ chức tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang từ ngày
11 đến 19-2-1951. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho
766.349 đảng viên.
Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam:
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã quyết định tách ba đảng bộ Đảng Cộng sản ở ba
nước Việt Nam, Lào và Campuchia để lập ra ở mỗi nước một đảng cách mạng riêng, có cương lĩnh 
đường lối cách mạng riêng thích hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc.

41
– Xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế
quốc Pháp và bọ can thiệp Mỹ, bọn phong kiến phản động. Kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc xâm
lược.
– Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và
thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người
cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
– Ba nhiệm vụ trên có quan hệ khăng khít với nhau, song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải
phóng dân tộc. Lúc này phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc.
-Động lực của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam là giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tiểu tư sản dân tộc, nhân sĩ yêu nước tiến bộ.
Nền tảng là khối liên minh công nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp
nông dân.
– Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản và sắp xếp lực lượng cách mạng như trên, cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn này là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,  thông qua Đảng Lao động Việt
Nam, nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
– Cùng với các văn kiện đã thông qua tại Đại hội, “Chính cương Đảng Lao động Việt Nam” thể hiện
sự hoàn chỉnh thêm một bước đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được vạch ra trong
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, đường lối đó soi đường dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Câu 6: Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm của kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1946-1954).
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1944-1954) là cuộc chiến tranh
cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đó vừa có ý nghĩa dân tộc, vừa có ý
nghĩa quốc tế sâu sắc.
1. Ý nghĩa lịch sử:
– Thắng lợi của cuộc kháng chiến bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám 1945,
chấm dứt ách thống trị của bọn thực dân Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta, giải phóng hoàn
toàn miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên một nửa đất nước. Cách mạng
Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hoàn thành thống nhất nước nhà.
– Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị nô dịch vùng lên chống chủ nghĩa đế quốc, chống
chủ nghĩa thực dân, vì độc lập tự do và dân chủ tiến bộ, báo hiệu một thời kỳ sụp đổ từng mảng của
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, góp phần tích cực vào tiến trình phát triển của cách mạng
thế giới.
42
Nguyên nhân thắng lợi:
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ giành được thắng lợi là do
các nhân tố cơ bản sau:
– Có sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị và quân sự đúng đắn, có khối đoàn kết nhất trí của
toàn dân, có mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng. Các đảng viên của Đảng đã xung phong
gương mẫu, dũng cảm đi đầu trong cuộc kháng chiến.
– Có sự đoàn kết chiến đấu toàn dân được tổ chức, tập hợp trong Mặt trận dân tộc rộng rãi – Mặt trận
Liên – Việt, dựa trên nền tảng của khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
– Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đây chính là lực
lượng trực tiếp đóng vai trò quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường.
– Chúng ta có chính quyền dân chủ nhân dân, một chính quyền của dân, do dân, vì dân. Đây là một
công cụ sắc bén của Đảng để tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
– Có hậu phương ngày càng mở rộng và củng cố về mọi mặt, bảo đảm chi viện ngày càng nhiều sức
người, sức của cho mặt trận.
– Có sự liên minh chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam – Lào – Campuchia chống kẻ thù chung và
được sự đồng tình ủng hộ của các nhà nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc bị áp bức và các lực
lượng hòa bình tiến bộ trên thế giới.
2. Những bài học kinh nghiệm:
– Kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Nhiệm vụ chống phong kiến phải
tiến hành có kế hoạch, từng bước để vừa phát triển lực lượng cách mạng, vừa giữ vững khối đoàn kết
dân tộc.
– Xác định và quán triệt đường lối chiến trang nhân dân: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính. Đây là bí quyết thắng lợi của cuộc kháng chiến.
– Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương vững mạnh để đẩy mạnh kháng
chiến.
– Kiên quyết kháng chiến lâu dài, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Kết hợp chặt
chẽ giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích.
– Xây dựng Đảng vững mạnh và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng với đường lối chiến tranh
nhân dân đúng đắn, có chủ trương và chính sách kháng chiến ngày càng hoàn chỉnh, có ý chí quyết
chiến và quyết thắng kẻ thù. Có đội ngũ đảng viên dũng cảm, kiên cường, là những chiến sĩ tiên
phong trong chiến đấu và trong sản xuất.
Câu 7. Phân tích vị trí và mối quan hệ giữa 2 chiến lược Cách mạng do Đại hội đại biểu toàn
quốc (ĐHĐBTQ) lần thứ III của Đảng Lao động VN đề ra.

43
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960.
Trên cơ sở phân tích tình hình của nước ta, Đại hội xác định hai nhiệm vụ của cách mạng VN trong
giai đoạn mới:
Một là, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc
Hai là, tiến hành CM DTDC nhân dân ở miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân
chủ trong cả nước.
Cách mạng miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song trước mắt đều
hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
Đại hội còn xác định, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền. Cách mạng
XHCN ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
– Trong 2 chiến lược CM đó, mỗi chiến lược có vị trí quyết định của nó và nhằm giải quyết yêu cầu
riêng của từng miền và có liên quan chặt chẽ với nhau.
– Cuộc CM XHCN ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của CM cả nước và sự
nghiệp thống nhất đất nước.
– Cuộc CM ở miền Nam: có vị trí quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng ở miền Nam thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành CM dân tộc dân chủ trong cả nước.
– Vì đều là trong một nước nên 2 nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau, tác động nhau cùng nhau
phát triển và có một mục tiêu chung trước mắt là hòa bình đất nước.
– Đây là cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ nhằm chống đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam. Ta kiên
trì đấu tranh giữ vững đường lối thống nhất hòa bình nước nhà, nhưng đồng thời đề cao cảnh giác sẵn
sàng đối phó nếu đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh xâm lược ở miền Bắc thì nhân dân cả nước quyết tâm
đánh bại chúng để hoàn thành độc lập và thống nhất đất nước.
(Đường lối này được Đại hội lần thứ III của Đảng thông qua). Đường lối đó chính là ngọn cờ dẫn đến
thắng lợi rực rỡ của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Câu 8. Phân tích ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước
a/ Ý nghĩa:
Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng

44
cách mạng và trí tuệ con người đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một
sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”
Với thắng lợi này nhân dân ta đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn
một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta. Cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ
nhân dân đã hoàn thành trên phạm vi cả nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn dân tộc Việt Nam:
Kỷ nguyên cả nước hòa bình độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
b/ Nguyên nhân:
– Do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng Sản Việt Nam người đại diện trung thành với lợi ích sống
còn của dân tộc…
– Thắng lợi đó là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của quân đội và nhân dân cả nước,
đặc biệt là của các bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước
– Miền Nam: Ngày đêm đối mặt với quân thù, chiến đấu sáng tạo, dũng cảm, hy sinh vô điều kiện…
– Thắng lợi đó cũng là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào
và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu  vừa xây dựng, hết lòng, hết sức chi viện cho miền Nam.
– Thắng lợi đó còn là kết quả của tình thân đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam – Lào,
Campuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh
em.
c/ Bài học kinh nghiệm
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm đã để lại nhiều kinh nghiệm có giá trị lịch sử
và thực tiễn sâu sắc.
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh của toàn
dân đánh thắng Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Hai là Đảng đã tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo.
Ba là sự chỉ huy chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng và công tác tổ chức chiến đấu tài giỏi của
Đảng qua các cấp chỉ huy Quân đội.
Bốn là, Đảng ta hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở miền
Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước.
Câu 4:

Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân
tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn thất, hy sinh nhưng cũng hết sức vẻ
vang vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội.
45
Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng
hơn 75 năm qua đã khẳng định vai trò, công lao to lớn của Đảng và để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn
vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta.

NHỮNG THẮNG LỢI CÓ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG

Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945


Từ cuối thế kỷ thứ XIX, nước ta trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Để thực hiện các nguyện vọng cơ bản là độc
lập dân tộc và người cày có ruộng, nhân dân ta đã bao phen vùng dậy đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, song rốt
cuộc đều bị thất bại. Kể từ ngày có sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh vì các mục tiêu đó của nhân dân ta mới từng
bước giành được thắng lợi, trước hết là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, đưa lại độc lập tự do cho đất
nước, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Phong này
đã khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Quốc tế
Cộng sản đánh giá cao đóng góp của phong trào cách mạng Việt Nam đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, công nhận Đảng ta là một phân bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ và tổn thất để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng cách mạng, đến năm 1936, khi
tình hình trong nước và thế giới có sự biến chuyển mới, Đảng đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc và
người cày có ruộng, chuyển hướng đấu tranh sang đòi dân sinh dân chủ, với các hình thức đấu tranh và tổ chức thích
hợp, chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giành chính quyền. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm
cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng. Đảng đã biết kết hợp các hình thức đấu tranh
công khai hợp pháp với các hình thức bán hợp pháp, bí mật trong cuộc đấu tranh ở một nước thuộc địa. Qua phong
trào, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.
Từ năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những nhận định sáng suốt về tình hình thế giới
và xu hướng phát triển của cách mạng Đông Dương, xác định giải phóng dân tộc, đánh đuổi phátxít Pháp, Nhật, giành
độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Đảng chủ trương chuẩn bị các điều kiện để tiến hành
cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo trong cuộc vận động giải
phóng dân tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã đầu hàng
quân Đồng minh, Đảng đã phát động, tổ chức thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân
Pháp và hàng trăm năm chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước ta; đưa nhân dân ta từ
địa vị nô lệ thành người làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á; đưa Đảng ta từ hoạt động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc; khẳng định trong
thực tiễn tư tưởng cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, khởi nghĩa toàn dân của Hồ Chí Minh và đường lối cứu
nước giải phóng dân tộc của Đảng vạch ra là đúng đắn; nâng cao niềm tự hào dân tộc và để lại nhiều kinh nghiệm quý
báu cho Đảng và nhân dân ta; mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn cho cách mạng thế giới; chứng minh học thuyết Mác- Lênin có
thể áp dụng thành công vào cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giành được thắng lợi và nắm chính quyền trong cả nước.

Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1945-1975

46
Vừa giành được chính quyền về tay nhân dân chưa đầy một tháng, dân tộc Việt Nam đã phải bước vào một cuộc chiến
đấu mới chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch trong hơn 30 năm để giải phóng dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc.
Trong những năm 1945-1954, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, với ý chí "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ đi tới thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với nước ta và với thế
giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo
vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc, giữ vững được chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa đất nước
là miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa, hậu phương của cả nước để giải
phóng miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy
tín cho dân tộc và cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
sau đó... Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông D-
ương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam trở
thành người đi tiên phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân các
dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã góp phần
tăng cường lực lượng và địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1954-1975, khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đưa cố vấn quân sự rồi quân viễn chinh
xâm lược miền Nam, đánh phá miền Bắc, Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân dân hai miền Bắc, Nam tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa
bình thống nhất Tổ quốc. Với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân cả nước ta đã vừa xây dựng,
bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ra sức chi viện tiền tuyến, vừa đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ và tay sai đi tới đại thắng mùa Xuân 1975.
Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử có ý
nghĩa dân tộc và thời đại to lớn. Đối với dân tộc ta, thắng lợi này kết thúc hơn 20 năm chống đế quốc Mỹ, 30 năm
chiến tranh cách mạng, hơn một thế kỷ chống xâm lược nước ngoài, đưa lại độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất nước
ta; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước,
đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh to lớn về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam;
nâng cao vị thế quốc tế cho Đảng và dân tộc trên trường quốc tế; để lại nhiều bài học có giá trị cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc;...
Đối với thế giới, thắng lợi này đã góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, tác động sâu
sắc đến nội tình nước Mỹ; cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc dân chủ của nhân dân thế giới; mở rộng địa bàn và tăng
thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã khẳng định
một chân lý lịch sử là một dân tộc đất không rộng, người không đông nếu có Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo biết
đề ra đường lối đúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, có phương thức tiến hành chiến tranh sáng tạo,
được sự ủng hộ của nhân dân thế giới hoàn toàn có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào.

Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới


Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh có
những thuận lợi to lớn, song cũng gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất- kỹ
thuật nhỏ bé, manh mún, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại bị Mỹ phong tỏa cấm vận, tình hình quốc tế có những diễn
biến bất lợi, phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới phía nam, phía bắc, đòi hỏi công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều bước đi cụ thể thích hợp. Trong bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững

47
vàng được tôi luyện qua thử thách đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra đường
lối đổi mới đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, giành được những thành tựu to lớn, toàn diện.
Thắng lợi bước đầu của hai mươi năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng. Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng
đánh giá khái quát 20 năm đổi mới đã ghi nhận: Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc dù còn không ít
khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng
khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước
tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam đã ta từ một nước thuộc địa trở thành một quốc
gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan
trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạchậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những thắng lợi đó là minh chứng sinh động về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, sức mạnh to lớn
của nhân dân ta.
Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trên chặng đường 90 năm vinh quang
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được
nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao
lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
   Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn
thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
 Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
 Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo,
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những
nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên./.

2. Bài  học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

48
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Con
đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cách mạng
nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không
thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó
và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống
phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước để chĩa mũi nhọn của cách mạng vào
đế quốc phát xít và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân
tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Hai là, thực hiện khởi nghĩa toàn dân trên nền tảng khối liên minh công - nông. Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì bị áp bức
mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết” [3],
vì thế “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực
khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [3]. Thực tiễn đã chứng minh chân lý
đó. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả cuộc đấu tranh của hơn 20 triệu người Việt Nam yêu nước là lực lượng
cách mạng, trong đó động lực cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Liên
minh công - nông được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng, đến đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa thì liên minh
công - nông đã lớn mạnh vượt bậc. Dựa trên nền tảng của khối liên minh này, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết
dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. Mặt khác, trên cơ sở nhắm đúng mục tiêu chiến lược hàng đầu
của cách mạng và khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ
nghĩa đế quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong
hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai
phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi
nhanh gọn, ít đổ máu.

Ba là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp. Nắm vững quan
điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin: “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã
hội mới, bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính
trị cứng đờ và chết” [1], Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng, biết cách sử dụng linh hoạt các hình thức
tổ chức, hình thức đấu tranh phù hợp với từng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử, tập dượt đấu tranh từ thấp đến cao.
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ
trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị,
trong đó, vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của
sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến
cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Khi thời cơ đến, Đảng đã
biết sử dụng tối đa sức mạnh cách mạng theo nguyên tắc “tập trung, thống nhất, kịp thời” đập tan bộ máy nhà nước của
giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

49
Bốn là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vừa vận dụng nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở
nước ta để lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm
1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Hồ
Chí Minh và Đảng ta trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ
thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 03/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân
lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi vào đêm 13/8/1945. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ
Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu
hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã
chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách
mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời
gian ngắn.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Cách
mạng Tháng Tám được một đảng tiên phong thật sự cách mạng lãnh đạo. Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, ngay từ đầu Đảng đã xác định đúng đường lối
chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Đảng ta
rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng
cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán
bộ, đảng viên gắn bó với nhân dân. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý
chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng biết phát huy triệt để vai
trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Đảng biết
nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Với những yếu tố như trên, nên tuy chỉ mới
được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh và mặc dù chỉ có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám
thành công, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và mang tầm vóc thời đại. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định
rằng, một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch,
gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch, không thế lực
nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên.

Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn trong quá trình phát triển. Bên cạnh những
thuận lợi, thì đất nước ta cũng đang gặp phải những khó khăn, trong đó có sự xuất hiện của dịch bệnh COVID - 19, đặc
biệt là đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ tư vẫn còn đang diễn biến hết sức phức tạp. Sự tác động của dịch bệnh đã làm
đất nước ta phải chịu thiệt hại lớn. “Từ thành thị tới nông thôn, những con đường vắng người qua lại, những khu chợ
sầm uất, sân bay, bến cảng, sân trường, nhà máy, xí nghiệp... náo nhiệt giờ lặng lẽ; trong khi đó bệnh viện, khu điều trị
ở một số nơi có dịch lại trở nên đông đúc hơn bao giờ hết. Những chung cư, sân vận động, nhà thi đấu, ký túc xá,
doanh trại quân đội bất đắc dĩ trở thành bệnh viện dã chiến, thành khu cách ly. Bao nhiêu cuộc hội ngộ, đoàn tụ vui
buồn trở thành dang dở... Sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng tiêu cực, thu nhập, tích lũy của người dân giảm sút... Đám
mây đen COVID - 19 đã phủ nghịch cảnh lên cuộc sống của chúng ta” [10]. Bên cạnh đó, thế giới đang bị khủng
hoảng lớn về kinh tế và nhiều mặt khác, tình hình an ninh khu vực và thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, khó dự
báo… Trước tình hình ấy, những bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá
50
trị và có ý nghĩa tích cực đối với sự nghiệp đổi mới đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc đối phó
với dịch bệnh. Với phương châm “chống dịch như chống giặc”, chúng ta tin tưởng việc phát huy những bài học kinh
nghiệm đã có được từ Cách mạng Tháng Tám sẽ góp phần giúp Việt Nam “đẩy lùi cho được đại dịch COVID - 19,
“sớm đưa nước ta trở về “trạng thái bình thường mới”” [9] mà nhân dân cả nước đang mong đợi như đã từng mong đợi
thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

51

You might also like