You are on page 1of 24

Câu hỏi ôn tập Lịch Sử Đảng 2021

1, SỰ ra đời của Đảng

Hướng dẫn

chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành
lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt
Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một
quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là
cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc - cán bộ của Quốc tế
Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy
nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.

Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại
hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX;
là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của
lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một
tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng
đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo
cách mạng.

2, Các cương lĩnh chính trị của Đảng (2/1930; 10/1930; 2/1951; cương lĩnh
1991 và cương lĩnh 2011)

Hướng dẫn

* Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (tháng 2 năm 1930)

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua. Tuy ngắn gọn, chỉ có
282 chữ, nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng nhiều vấn đề cơ bản về chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.

Chánh cương chỉ rõ, về chính trị: Ðánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chế
độ phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công
nông binh, tổ chức ra quân đội công nông.

Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như
công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản Pháp để giao cho chính phủ công
nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để làm của
công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang phát triển
công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.

Về xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông
giáo dục theo công nông hóa.

Cùng với Chánh cương vắn tắt, Bác còn soạn thảo và được Hội nghị thành lập
Ðảng thông qua Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Ðiều lệ vắn tắt và Lời kêu
gọi nhân dịp thành lập Ðảng. Tất cả những tài liệu này đã trở thành những văn kiện
quan trọng có tính kinh điển của Ðảng ta, xác lập đường lối chiến lược, sách lược
cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Ðảng Cộng sản Việt Nam.

* Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10 năm 1930)

Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do
điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng.
Hội nghị (họp từ ngày 14/10 đến 31/10/1930) thông qua bản Luận cương chánh trị,
án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông
Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương
lĩnh thứ hai của Đảng.

 Bút tích trang đầu dự thảo Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương,
tháng 10/1930. (Ảnh tư liệu)
Luận cương chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương (còn được gọi là Luận
cương cách mạng tư sản dân quyền) do đồng chí Trần Phú khởi thảo. Toàn bộ nội
dung Luận cương chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương là những tư tưởng cơ
bản về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh cách mạng của Ðảng Cộng
sản Ðông Dương; tiếp tục khẳng định và bổ sung một số vấn đề cốt lõi về con
đường cách mạng của Việt Nam mà Chánh cương vắn tắt đã nêu.

Luận cương nhận định, nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền ở nước
ta là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ, lập ra chính phủ
công nông, tịch thu ruộng đất của địa chủ trao cho nông dân; bãi bỏ các sưu thuế
hiện thời, ngày làm công 8 giờ, cải thiện sinh hoạt cho thợ thuyền và những người
lao động; xứ Ðông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết; lập quân
đội công nông; ủng hộ Liên Xô, liên kết với giai cấp công nhân thế giới và phong
trào cách mạng thuộc địa, bán thuộc địa...

Phương pháp đấu tranh của quần chúng là bãi công, bãi công thị oai, bãi công võ
trang, tổng bãi công bạo động; kết hợp đòi quyền lợi hằng ngày như tăng tiền
lương, bớt giờ làm, giảm thuế, chống thuế... với mục đích lớn của Ðảng là đánh đổ
đế quốc, địa chủ phong kiến, giành độc lập, lập chính phủ công nông.

 Về vai trò lãnh đạo của Ðảng, Luận cương chỉ rõ: Ðiều kiện cốt yếu cho sự thắng
lợi của cuộc cách mạng ở Ðông Dương là cần phải có một đảng cộng sản có đường
lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng
trải tranh đấu mà trưởng thành. Ðảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp lấy chủ
nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc, đại biểu cho quyền lợi chính và lâu dài cho cả
giai cấp vô sản, lãnh đạo tranh đấu để đạt mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng
sản.

* Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2 năm 1951)

Chính cương Ðảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư
Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo và được Ðại hội II của Ðảng (tháng 2 năm 1951)
thảo luận, thông qua.

Chính cương chỉ rõ: trước khi thuộc Pháp, xã hội Việt Nam căn bản là một xã hội
phong kiến, nông dân là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Từ khi thuộc Pháp, Việt
Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến; giai cấp công nhân Việt Nam hình
thành và trưởng thành nhanh; tư bản Việt Nam ra đời nhưng bị tư bản độc quyền
Pháp đè nén nên không phát triển được. Khi Nhật xâm chiếm Việt Nam, chế độ
thuộc địa của Pháp ở Việt Nam cũng trở nên phát-xít hóa, làm cho nhân dân Việt
Nam càng thống khổ hơn.

Vì vậy, nhiệm vụ căn bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm
lược, giành độc lập thống nhất thật sự cho đất nước, xóa bỏ những di tích phong
kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ðộng lực của cách mạng Việt Nam lúc
này là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân
tộc, những thân sĩ yêu nước và tiến bộ; trong đó nền tảng là công nhân, nông dân,
trí thức; lực lượng lãnh đạo là giai cấp công nhân. Từ đó Chính cương khẳng định:
cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến tới chủ nghĩa xã hội. Ðây là một cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều giai
đoạn, mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt là phải tập trung sức
hoàn thành giải phóng dân tộc.

Về chính sách của Ðảng, Chính cương chỉ rõ: hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xóa bỏ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Chính sách kháng chiến là thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, kháng chiến đến cùng để giành độc lập thống nhất cho Tổ
quốc. Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống
nhất trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công nhân lãnh
đạo.

Chính cương còn nêu những quan điểm cơ bản về xây dựng quân đội, phát triển
kinh tế tài chính, cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa giáo dục, chính sách đối
với tôn giáo, chính sách dân tộc, chính sách đối với vùng tạm chiếm, chính sách
ngoại giao, chính sách đối với Việt kiều... Về ngoại giao, Chính cương khẳng định
nguyên tắc "tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và
cùng nhau bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến"; mở rộng ngoại
giao nhân dân, giao thiệp thân thiện với Chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền
của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình
đẳng và có lợi cho cả hai bên, đấu tranh cho hòa bình thế giới.

* Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (tháng 6 năm
1991)

Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên CNXH, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, một lần nữa, nhân dân ta lại vượt qua thử thách hiểm nghèo.
Mô hình xây dựng CNXH kiểu cũ bị sụp đổ tại trung tâm của hệ thống XHCN.
Chế độ chính trị ở Liên Xô, các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Là một quốc gia
chưa phát triển, lại vừa trải qua 30 năm chiến tranh, bị bao vây cấm vận, Đảng ta
đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
thực hiện công cuộc đổi mới mở đầu từ Đại hội VI, năm 1986. Tại Đại hội VII, lần
đầu tiên, Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong điều kiện hòa bình. Đó
là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” năm 1991 (gọi
tắt là Cương lĩnh năm 1991).

Cương lĩnh chỉ rõ mục tiêu và đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây
dựng, đó là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các
dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Cương lĩnh cũng xác định, quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải
qua nhiều chặng đường. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ
là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc
thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

Thực hiện Cương lĩnh, Đảng và nhân dân ta một mặt kiên trì mục tiêu và các
nguyên tắc của CNXH, mặt khác chuyển đổi mô hình xây dựng đất nước từ mô
hình cũ với Nhà nước “chuyên chính vô sản”, “kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp” sang mô hình mới về CNXH. Về chế độ chính trị, đó là chế độ do
“nhân dân lao động làm chủ”; về kinh tế, đó là nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần”…

* Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011)

Tại Đại hội XI, năm 2011, một lần nữa, Đảng ta điều chỉnh Cương lĩnh 1991.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011) được xây dựng trên cơ sở tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng, trực tiếp là tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 25 năm công
cuộc đổi mới, dự báo xu thế phát triển của thế giới, của đất nước, đề ra mục tiêu,
phương hướng và những định hướng lớn phát triển đất nước trong thập niên thứ hai
của thế kỷ XX với tầm nhìn đến giữa thế kỷ. Thực tiễn 10 năm qua đã chứng minh
tính đúng đắn và giá trị to lớn, toàn diện về tư tưởng, lý luận, thực tiễn của Cương
lĩnh 2011.

Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tiếp tục khẳng định con
đường XHCN, mà đưa vào văn kiện này những nội dung mới phù hợp với những
xu thế lớn của thời đại. Đó là xu thế “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển”, đồng thời, Cương lĩnh cũng chỉ ra những thách thức đang diễn ra gay
gắt trên thế giới và khu vực. Đó là “… chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang…
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và
cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế”.

Theo thời gian và tiến trình lịch sử, mỗi Cương lĩnh của Đảng chứa đựng những
giá trị nội dung và ý nghĩa lớn lao riêng. Các Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến ba
cao trào cách mạng trong những năm 30, 40 thế kỷ trước và thắng lợi huy hoàng
của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời là cơ sở cho Đảng ta đề ra đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh chống thực dân Pháp
xâm lược.

Cương lĩnh năm 1951 định hướng cho quyết tâm đi đến thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, xây dựng miền Bắc XHCN, tạo tiền đề cho Đại hội III
(9/1960) của Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược tập
trung kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam diễn ra suốt từ sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954) đến năm 1975, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH.

Cương lĩnh năm 1991 là bước phát triển, hoàn chỉnh các Cương lĩnh trước đó của
Đảng, mở đầu cho quá trình nhận thức đầy đủ hơn, ngày càng rõ ràng hơn về
CNXH và xây dựng xã hội XHCN Việt Nam.

Cương lĩnh 2011 thể hiện niềm tin vững chắc của Đảng trên cơ sở khoa học, thực
tiễn về mục tiêu, con đường đi lên CNXH. Niềm tin của Đảng tạo thành niềm tin
của đại đa số cán bộ, đảng viên, nhân dân; khắc phục cơ bản sự mơ hồ về sự thay
đổi bản chất và tiền đồ của chủ nghĩa tư bản, sự dao động, hoài nghi về tương lai
của CNXH. Đây là cơ sở quan trọng góp phần củng cố sự thống nhất tư tưởng
trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.
Những điểm chung trong các Cương lĩnh của Đảng là tư tưởng nhất quán về cách
mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đến cách mạng XHCN, độc lập dân tộc
gắn với CNXH; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách
mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

3, Sự chuyển hướng chỉ đạo của Đảng giai đoạn 39 – 40. Ý nghĩa LS và
nguyên nhân thắng lợi CM tháng 8

Hướng dẫn

*) Chuyển hướng chỉ đạo

Tháng 9/1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ. Chính phủ phản động ở Pháp thi hành chính sách phát xít, giải tán Đảng cộng
sản Pháp và các Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa, thủ tiêu các quyền tự do dân
chủ.

Ở Đông Dương, đế quốc Pháp điên cuồng chống phá Đảng Cộng sản, chúng thực
hiện chính sách kinh tế thời chiến, đồng thời tiến hành bắt người, cướp của, khủng
bố, tổng động viên… làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân
Pháp ngày càng gay gắt.

Trước những chuyển biến của tình hình, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương liên tiếp mở các hội nghị để hoạch định chủ trương, nhiệm vụ,
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt “nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu”. Chủ trương này của Đảng tập trung ở 03 hội nghị lần thứ sáu, lần thứ
bảy và lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương.

- Hội nghị BCHTW 6 được tiến hành từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Bà Điểm, Gia
Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư BCHTW Đảng chủ trì (Tham dự
có các đồng chí: Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ văn Tần) hội nghị đánh dấu sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược;

Hội nghị quyết định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đông Dương; Hội nghị quyết định thay đổi một số khẩu hiệu, chuyển hướng hình
thức đấu tranh:
Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ mà chủ trương tịch thu ruộng đất
của đế quốc và tay sai; Không nêu khẩu hiệu thành lập chính phủ Xô viết công
nông binh mà đề ra khẩu hiệu lập Chính phủ Liên bang cộng hoà dân chủ Đông
Dương;

Hội nghị quyết định: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, thay thế
cho Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương.

* Ý nghĩa LS và nguyên nhân thắng lợi CM tháng 8

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong
đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong
điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng
có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức
được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Cách mạng tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật
cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân
mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn
tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ
gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ
đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.

Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi
nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh
giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát
triển mạnh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân
dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời -
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong
kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực
dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước
độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt
Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con
người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng
tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công
đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá
trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh
cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc
hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại
vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định
rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản
kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành
công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi
lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.

4, CHủ trương, biện pháp của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ chính quyền
cách mạng giai đoạn 45- 46

Hướng dẫn

Trước tình hình mới, Trung uơng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt
phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên
thế giới và sức? mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp đấu tranh
nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 25-
11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc,
vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương
kháng chiến kiến quốc của Đảng là:

Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt
Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết", nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.

Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông
Dương và chỉ rõ "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập
trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Vì vậy, phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất
chống thực dân Pháp xâm lược"; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi
tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, V. V...

Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần
khẩn trương thực hiện là: "củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân". Đảng chủ trương kiên trì
nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với
quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối
với Pháp.

Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác định
đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm luợc. Đã chỉ ra kịp
thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai
nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là
xây đựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ
thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống giặc ngoài, bảo vệ
chính quyền cách mạng.

Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ
đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng
tạo, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9-1945 đến cuối năm 1946. Như việc bầu
cử Quốc hội, lập Chính phủ chính thức, ban hành Hiến pháp, xây dựng các đoàn
thể nhân dân, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, xóa nạn mù chữ, khai
giảng năm học mới, tập luyện quân sự, thực hiện hòa với quân Tưởng ở miền Bắc
để chống thực dân Pháp ở miền Nam và hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước...

5, Hoàn cảnh, nội dung, ý nghĩa đường lối kháng chiến chống pháp giai đoạn
1946 – 1950; sự bổ sung và phát triển của đường lối kháng chiến chống Pháp
trong đại hội III 2/1951

Hướng dẫn

Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23-9-1945 được sự giúp đỡ của quân
Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược
Đông Dương lần thứ hai, rồi mở rộng đánh chiếm Nam bộ và Nam Trung bộ, tìm
cách đưa quân ra Bắc bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây nhiều
vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.

Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện
đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm các biện pháp
đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc. Để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với
nhiều kẻ thù, khi thì chúng ta tạm thời hòa hoãn với quân Tưởng Giới Thạch, để
rảnh tay đối phó với quân Pháp, khi thì tạm thời hòa hoãn với Pháp để đuổi quân
Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước.
Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình
cho cả hai dân tộc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, sau đó ký Tạm ước ngày
14-9-1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ,
Liên Xô và các thành viên của Liên hiệp quốc, nêu rõ thiện chí hòa bình, mong
mỏi Liên hiệp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì
hòa bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng
Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu
vãn hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã
khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của chúng ta.

Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí
hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16-12-1946, quân Pháp nổ súng gây
hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17-12-1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở
phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh.
Ngày 18-12-1946, tướng Morlière gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài
chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để
cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu
đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành
động chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946.

Tình thế đó buộc Đảng, Chính phủ và nhân dân ta không có lựa chọn nào khác là
cầm vũ khí đứng lên chiến đấu toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.

Ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), Ban Thường
vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Hồ Chủ tịch chủ trì, đề ra đường lối, quyết
định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Sáng 20-
12 Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả
nước (viết ngày 19-12-1946

vừa kháng chiến vừa kiến quốc, giành thắng lợi vẻ vang
Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hòa bình không còn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến đúng thời điểm và kịp thời
chuyển cả nước vào thời chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân.

Về phía Pháp, với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, nên sau khi được tăng cường
lực lượng, chúng mở rộng vùng chiếm đóng, ráo riết thực hiện đòn tấn công quyết
định sớm kết thúc chiến tranh. Thu - Đông năm 1947, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh
Pháp ở Đông Dương huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc
nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não, tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng chiến
của ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và tinh thần sáng
tạo, quân, dân ta chiến đấu ngoan cường, giành thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch
Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh,
thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng chiến.
Không thể sớm kết thúc chiến tranh theo ý định, các nhà cầm quân Pháp buộc phải
chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người
Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng thời tiến hành “Chiến tranh tổng lực”,
tăng cường đánh phá nhiều cơ sở của ta. Đến năm 1950, lực lượng kháng chiến của
ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến dịch Biên
giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần
vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai thông
đường liên lạc quốc tế với các nước XHCN.

Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến tranh Đông Dương của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
tăng cường viện trợ cho Pháp, ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến này nhằm
thực hiện âm mưu ngăn chặn phong trào cộng sản tràn xuống Đông Nam Á và sẵn
sàng thay Pháp để kéo dài chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội toàn quốc lần
thứ II của Đảng (tháng 2-1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt
Nam lúc này là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ,
giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Phát huy thế tiến
công chiến lược, quân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng trên các chiến
trường như Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,…

Chiến tranh nhân dân phát triển đã đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động. Trong
khi đó, thế và lực của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, lực lượng vũ
trang ba thứ quân được tăng cường, bộ đội chủ lực ngày càng mạnh, hậu phương
được củng cố là chỗ dựa, góp phần quan trọng vào thắng lợi của tiền tuyến. Hòng
xoay chuyển tình thế, dựa vào viện trợ của Mỹ, Pháp lập kế hoạch Nava nhằm lấy
lại quyền chủ động, tiến tới tiêu diệt bộ đội chủ lực ta để kết thúc chiến tranh.

6, Công cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc giai đoạn 54 – 65

Hướng dẫn

* Những thành tựu miền Bắc đạt được từ 1954 – 1960

Thực trạng trên đòi hỏi phải khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh. Đó là nhiệm vụ trung tâm, nặng nề của nhân dân miền Bắc sau
tháng 7 – 1954.

Trong năm 1954 và đầu năm 1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và Quốc
hội đã ra chiếu chỉ thị, chủ trương khôi phục kinh tế. Kế hoạch khôi phục kinh tế
trong 3 năm 1955 – 1957 là phấn đấu đạt các chỉ tiêu trước chiến tranh. Đồng thời
tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội (1958 –
1960).

Hoàn thành cải cách ruộng đất

Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế ở miền Bắc và yêu cầu về quyền lợi kinh tế,
chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công – nông, mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất, Đảng và Chính phủ quyết định “ Đẩy mạnh phát động quần chúng
thực hiện cải cách ruộng đất”.

Từ tháng 5/1954 đến tháng 7/1956, thực hiện chủ trương của Trung ương,
trong hơn 2 năm( 1954 – 1956) miền bắc tiến hành tiếp 6 đợt giảm tô và 4 đợt cải
cách ruộng đất( cùng với 1 đợt trong kháng chiến là 5) ở 3314 xã thuộc 22 tỉnh
đồng bằng và trung du. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực.

Kết quả sau 5 đợt cải cách ruộng đất, đã tịch thu, trưng thu, trưng mua
khoảng 81 vạn hec ta ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp
địa chủ, đem chia cho 2 triệu hộ nông dân. Đồng thời, đánh đổ toàn bộ giai cấp
phong kiến địa chủ, giải phóng hoàn toàn giai cấp nông dân khỏi ách áp bức, bóc
lột của chúng. Đưa nông dân lên địa vị làm chủ.
Trong cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm một số sai lầm như đấu tố tràn
lan, thô bạo, đấu tố cả những địa chủ kháng chiến, những người thuộc tầng lớp trên
có công với cách mạng, quy nhầm một số nông dan, cán bộ, đảng viên thành địa
chủ.

Sai lầm của ta trong cải cách ruộng đất được Đảng, Chính phủ phát hiện và
kịp thời sửa chữa. Công tác sửa sai được tiến hành trong cả năm 1957. Nhờ đó, hậu
quả của sai lầm được hạn chế. Ý nghĩa của cuộc cảu cách ruộng đất vẫn hết sức to
lớn. Sau cải cách, bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay đổi, khối liên minh
công – nông được củng cố vững chắc, góp phần tích cực vào việc thực hiện khôi
phục kinh tế.

Khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh

Đây là nhiệm vụ tất yếu trong thời kỳ đầu sau khi chiến tranh kết thúc. Tại
kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa I( từ ngày 20 đến ngày 26/3/1955) đã quyết nghị: “Ra
sức củng cố miền Bắc bằng cách đẩy mạnh và hoàn thành cải cách ruộng đất đúng
theo kế hoạch, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa”.

Công cuộc khôi phục kinh tế được toàn dân tích cực hưởng ứng và triển khai
trong tất cả các ngành.

Trong nông nghiệp, nông dân hăng hái khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, bảo
đảm cày cấy hết ruộng đất vắng chủ, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ.
Nhiều đập nước được sửa chữa. Nhiều công trình thủy nông mới được xây dựng,
có tác dụng mở rộng diện tích tưới và tiêu nước.

Trong công nghiệp, chúng ta đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết
các nhà máy, xí nghiệp bị phá hỏng, xây dựng thêm một số nhà máy mới: cơ khí
Hà Nội, diêm Thống Nhất, gỗ Cầu Đuống, thuốc lá Thăng Long, cá hộp Hải
Phòng, chè Phú Thọ… Đến cuối 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp
lớn do Nhà nước quản lí, nhiều mặt hàng nhập khẩu nay đã sản xuất được trong
nước.

Các ngành thủ công nghiệp, thương nghiệp nhanh chóng được khôi phục,
bảo đảm cung cấp nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân và giải quyết
phần nào việc làm cho người lao động. Ngoại thương dần dần tập trung vào Nhà
nước. Đến cuối 1957, miền Bắc đã đặt quan hệ buôn bán với 27 nước.

Trong giao thông vận tải, cuối 1957, đã khôi phục 700km đường sắt, quan
trọng nhất là tuyến đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn. Sửa chữa và làm mới hàng
nghìn km đường ô tô, xây dựng và mở rộng thêm nhiều bến cảng như: Hải Phòng,
Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy… Đường hàng không dân dụng quốc tế được khai
thông.

Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được đẩy mạnh. Hệ thống giáo dục phổ
thông theo chương trình 10 năm đã được khẳng định, một số trường đại học được
thành lập, hơn 1 triệu người được xóa mù chữ. Hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân được Nhà nước quan tâm xây dựng. Nếp sống lành mạnh, giữ gìn vệ
sinh được vận động thực hiện ở khắp mọi nơi.

Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn có nhiều chủ trương, biện pháp để củng cố
chính quyền dân chủ nhân dân, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất và quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới.

Cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội (1958 – 1960)

Trong 3 năm tiếp theo (1958 – 1960) miền Bắc lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa
làm trọng tâm:cải tạo đối với nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp nhỏ, công thương nghiệp tư bản tư doanh, mà khâu chính là hợp tác hóa
nông nghiệp.

Thực hiện chủ trương trên, khắp nơi trên miền Bắc sôi nổi phong trào vận
động xây dựng hợp tác xã.

Đối với tư sản dân tộc, Đảng và Nhà nước chủ trương cải tạo bằng phương
pháp hòa bình, sử dụng mặt tích cực của họ phục vụ cho công cuộc xây dựng đất
nước. Đến cuối 1960, có hơn 95% hộ tư sản vào công tư hợp doanh.

Đồng thời với cải tạo là nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, trọng
tâm là phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Đến 1960, đã có 172 xí nghiệp
lớn do trung ương quản lí và trên 500 xí nghiệp do địa phương quản lí.
Những tiến bộ về mặt kinh tế đã tạo điều kiện cho sự nghiệp văn hóa, giáo
dục, y tế phát triển, So với năm 1957, năm 1960, số học sinh tăng 80%, số sinh
viên tăng gấp đôi. Các cơ sở y tế năm 1960 tăng 11 lần so với năm 1955. Đời sống
văn hóa, trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân được nâng lên.

Tuy nhiên, trong cải tạo, chúng ta đã mắc một số sai lầm. Đó là đồng nhất
cải tạo với xóa bỏ tư hữu và các thành phần kinh tế cá thể. Nguyên nhân gây ra
tình trạng này là do không nắm vững các quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ, thể
hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội. Đồng thời, thực hiên sai các nguyên tắc xây
dựng hợp tác xã tự nguyện, công bằng, dân chủ, cùng có lợi, do đó chưa phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của xã viên trong sản xuất. Những hạn chế
và sai lầm này đã được Đảng và Chính phủ khắc phục.

* Ý nghĩa đối với miền Bắc và công cuộc kháng chiến chống Mĩ

Những thành tựu của miền Bắc từ năm 1954 – 1965 đã làm biến đổi sâu sắc
xã hội miền Bắc: bước đầu cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất
ban đầu cho chủ nghĩa xã hội.

Trong 3 năm khôi phục kinh tế, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi, phát
triển với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế. Với những thành tựu thu được
trong thời kỳ khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội (1955 -1957), miền Bắc
đã cơ bản khắc phục được hậu quả chiến tranh. Đây là thời đoạn lịch sử quá độ
chuẩn bị cho miền Bắc bước vào thời kì xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa.

Ngày 1/1/1960, Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được công
bố, phản ánh thành tựu đạt được trong việc thực hiện kế hoạch 3 năm cùng những
thay đổi lớn của miền Bắc sau hai kế hoạch ba năm (1954 – 1960). Hiến pháp
được xây dựng theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Nó khẳng định ý chí, nguyện
vọng của nhân dân lao động: xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất
nước nhà nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân
chủ giàu mạnh. ĐỒng thời nó đặt cơ sở cho việc xây dựng một pháp chế XHCN ở
Việt Nam. Hiến pháp ra đời có tác dụng củng cố nền chuyên chính vô sản, tạo điều
kiện cho nhân dân miền Bắc xây dựng CNXH. Một mặt là thực hiện thắng lợi kế
hoạch 5 năm lần 1 nhằm bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật cho CNXH.
Mặt khác nó cổ vũ nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh nhằm đánh bại chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mĩ và tay sai.

Công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa
rất to lớn. Nó góp phần xóa bỏ về cơ bản chế độ người bóc lột người, góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, đặc biệt trong chiến tranh, hợp tác xã sản xuất đã đảm
bảo những điều kiện vật chất, tư tưởng chính trị cho bộ phận tham gia chiến đấu và
phục vụ chiến đấu.

Tại hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3/1964, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy
trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quan niệm về cải tạo không phải là xóa
bỏ mà là sử dụng có hiệu quả để tồn tại lâu dài tất cả các thành phần kinh tế.
Không phân biệt hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, có tác dụng thúc đẩy sản
xuất phát triển. Đồng thời, hết sức khuyến khích các thành phần kinh tế và các cơ
sở sản xuất,mọi người lao động, sản xuất nhiều hàng hóa, nhiều của cải cho xã hội.
Và cùng với nhiệm vụ cải tạo là nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa.

7, Hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa của Đại hội VI

Hướng dẫn

1.Bối cảnh lịch sử.

     Trải qua quá trình khảo nghiệm tìm tòi đường lối đổi mới. Từ hội nghị TW lần
6 khoá 4 tháng 8/1979 làm cho sản xuất tung ra đúng hướng đến chỉ thị 100 tháng
1/1981 of  ban bí thư về khoán sp đến nhómm và người lđộng (.) hợp tác xã nông
nghiệp và quyết định 25, 26 CP of chính phủ(1/1981) về cái tiến cơ chế quản lý ktế
trong ktế quốc doanh đến nghị quyết hội nghị lần 8 BCH TW khoá 5 (6/1985) về
giá lương tiền xoá bỏ cơ chế quản lý tập chung quan liêu hành chính bao cấp và kết
luận of  bộ ctrị về các quan điểm ktế đó là 3 bước đột phá để hình thành lên đường
lối đổi mới.

2.Nội dung cơ bản of đường lối đổi mới do Đại hội 6 đề ra:

Một là, đổi mới cơ cấu ktế, thực hiện chính sách ktế nhiều thành phần.
     Bố trí cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, thực hiện cho đc 3 chương
trình mục tiêu về lương thực thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

     XD và củng cố mqhệ sx XHCN, sdụng và cải tạo đúng đắn các thành phần ktế,
chủ trương  ptriển ktế quốc doanh, ktế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập chung
of nhà nước, tranh thủ cốn nước ngoài, sdụng và cải tạo đúng đắn các tphần ktế
khác trong đó ktế qdoanh giữ vtrò chủ đạo.

Hai là, đổi mới cơ chế quản lý, xoá bỏ cơ chế tập chung, quan liêu, hành chính, bao
cấp,chuyển sang hạch toán kdoanh XHCN.

 Phương hướng đổi ới cơ chế quản lý là xd cơ chế mới phù hợp với quy luật khách
quan và phù hợp với tình độ ptriển of nền ktế. Xác định 2 đặc trưng quan trọng
of  cơ chế quản lý mới, đó là tính kế hoạch và sdụng đúng qhệ hàng hoá tiền tệ.
Thực chất của cơ chế mới về quản lý ktế là cơ chế kế hoạch hoá theo fương thức
hạch toán kdoanh XHCN đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ba la, để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thựchiện một cuộc cải cách lớn về bộ
máy nhà nc.

     Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính ktế với chức năng quản lý sxkd, kết
hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa fương và vùng lãnh thổ. Nhà nc thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pluật, chính sách cụ thể. XD chiến
lược ktế XH và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch ptriển ktế XH.

Bốn là, về mở rộng và nâng cao hiệu quả ktế đối ngoại.

     Công bố chính sách khuyến khích nc ngoài đầu tư vào nc ta dưới nhiều hình
thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kthuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi
đôi với việc công bố luật đầu tư cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện
thuận lợi cho người nc ngoài và việt kiều vào nc ta để hợp tác kdoanh.

Năm là, tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng.

     Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn of Đảng fải đổi mới
về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trc hết là tư duy ktế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội
ngũ cán bộ, đổi mới fong cách lđạo và công tác
3. Ý nghĩa: Đại hội đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để.
Đó là sự kết tinh trí tuệ of toàn Đảng toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách
nhiệm cao of Đảng trc đất nc và dân tộc.

     Đường lối đổi mới do Đại hội 6 đề ra thể hiện sự ptriển tư duy lý luận, khả năng
tổng kết và tổ chức thực tiễn of Đảng mở ra thời kỳ mới of sự nghiệp CM nc ta
trên con đường đi lên CNXH.

8, Hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa của hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ
khóa VII (tháng 1/1994)

Hướng dẫn

Từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994 tại Hà Nội, 647 đại biểu đã dự Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Hội nghị khẳng định: Đổi mới là sự nghiệp
khó khăn, song chúng ta đã mạnh dạn tìm tòi, dũng cảm tiến hành và giành thắng
lợi quan trọng.

Trước mắt, nhân dân ta đang đứng trước những thách thức lớn và những cơ hội
lớn. Những thách thức đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về
nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù
địch. Những thuận lợi cơ bản, thời cơ lớn là: Đảng có đường lối đúng đắn; nhân
dân ta cần cù, thông minh, yêu nước, có bản lĩnh và ý chí kiên cường, tin tưởng sự
lãnh đạo của Đảng; các lực lượng vũ trang trung thành với sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta; những thành tựu đổi mới đang tạo ra thế và lực mới của
cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế mở rộng quan hệ hợp tác trên thế giới và
khu vực đem lại cho chúng ta khả năng thêm nguồn lực quan trọng.

Hội nghị nêu rõ trong những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII phải thúc đẩy
nhanh hơn nhịp độ thực hiện những mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh và đề ra những nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến
lược đó. Về nhân sự, Hội nghị đã bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương
Đảng 20 uỷ viên mới để thay thế cho các uỷ viên vì lý do sức khoẻ đã rút lui và
hoặc bị kỷ luật.
Để triển khai Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ ngày 25 đến ngày 30-7-1994 bàn định
về chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp
công nhân, nhằm đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.

9, Hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa của hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
(7/1998)

Hướng dẫn

Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
đã được Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (tháng
7-1998) bàn thảo. Hội nghị đã vạch ra những quan điểm chỉ đạo xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộclà:Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền
văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng và sắc
thái của 54 thành phần dân tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự
nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan
trọng. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

10, Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới

Hướng dẫn

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn
chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững – Dự thảo khẳng định.

Theo dự thảo, qua 30 năm đổi mới, “đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình,
đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng
trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình
thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường.
Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng.
Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng,
xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh
về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng
mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao”.

Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, dự thảo cho rằng “chúng ta còn
nhiều hạn chế, khuyết điểm”.

Cụ thể là, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ
một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung
cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực
tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định,
tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng
suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển
thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc
nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ
và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã
hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phậnnhân dân chưa được thụ hưởng
đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng
bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa
ngang tầm nhiệm vụ.

Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
không đạt được mục tiêu đề ra.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng
(năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến
hoà bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng
các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển
nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

You might also like