You are on page 1of 5

1.2.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1.2.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
phân liệt, những người Cộng sản chia thành nhiều phái. Trong tình trạng cần thiết và cấp
bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong
trào Cộng sản Việt Nam, Người lập tức từ Xiêm trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với
tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên
quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Người triệu tập đại biểu của hai nhóm
là: Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, nhằm tổ chức Hội nghị hợp
nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc).
Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930, sau nhiều ngày thảo luận, đến
ngày 3 tháng 2 năm 1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một Đảng duy nhất, lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này hợp thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Hồng
Kông là một sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và cách mạng
của Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự cố gắng và lãnh đạo của
lãnh tụ tư tưởng Nguyễn Ái Quốc cùng với các thành viên khác trong nhóm cách mạng
và nhiều người khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững và phát triển qua các giai đoạn khác nhau
trong lịch sử, từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cho đến công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước sau chiến tranh.
Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là đảng lãnh đạo của Việt Nam và giữ vai trò
quan trọng trong quản lý và phát triển đất nước. Đảng có mạng lưới tổ chức từ Trung
ương đến cơ sở, và hội viên Đảng đóng vai trò quan trọng trong các cơ quan chính phủ,
quân đội, doanh nghiệp và các lĩnh vực khác của xã hội.
1.2.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Việt Nam là tổng hợp các văn kiện "Chánh cương
vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng", “Chương trình tóm tắt của Đảng” và
“Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam thông qua vào tháng 2 năm 1930.
Cương lĩnh này ngắn gọn nhưng đã định hình những vấn đề cơ bản về chiến lược và
sách lược của cách mạng Việt Nam.
Phương hướng chiến lược cách mạng:

1
“Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”1. Đây là một quá trình phát triển lâu dài trải qua nhiều giai đoạn. Đảng đã xác
định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đây
chính là sự vận dụng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện một
nước thuộc địa, phong kiến, là định hướng quan trọng để trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng đã từng bước cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng, luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng:
Về phương diện xã hội: “Dân chúng được tự do tổ chức. Nam nữ bình quyền,
v.v… .Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”2.
Về phương diện chính trị: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra Chính phủ công nông binh. Tổ chức ra
quân đội công nông”3.
Về phương diện kinh tế: “Thủ tiêu hết các thứ quốc trái. Thâu hết sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao
cho Chính phủ công nông binh quản lý. Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm
của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo. Mở mang công
nghiệp và nông nghiệp. Thi hành luật ngày làm tám giờ”4.
Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền
là chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng,
như vậy là hoàn toàn phù hợp với tính chất và quan hệ mâu thuẫn trong xã hội nước ta
lúc đó. Nguyễn Ái Quốc rút ra những điểm riêng về kinh tế, chính trị, xã hội của các
nước phương Đông khác với các nước phương Tây, xác định thế nào là một nước thuộc
địa, xác định được tính chất xã hội, mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại đó là: mâu thuẫn dân
tộc giữa đế quốc xâm lược với người dân thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ
phong kiến với nông dân và mâu thuẫn có bản nhất là mâu thuẫn dân tộc.
Xuất phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ
gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt chẽ
với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc
lập. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chỉ
có độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền
công dân. Đây cũng là cơ sở rất quan trọng để Đảng xác định đúng về lực lượng cách
mạng và thực hiện các phương pháp, sách lược trong đấu tranh để đưa cách mạng đi đến

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 2.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 2.

3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 2.

4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 3.
2
thành công kể cả trong đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Lực lượng cách mạng:
Thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân, phải dựa vào dân cày nghèo,
lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất.
“Hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, v.v. để
kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản (Đảng Lập Hiến, v.v. ) thì phải đánh đổ5.
Nội dung trên đây thể hiện quan điểm chiến lược là xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, do liên minh công nhân và nông dân làm nền tảng, nòng cốt. Chính quan điểm
này là tiền đề, cơ sở, định hướng để Đảng thực hiện việc đoàn kết toàn dân tộc trong suốt
quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay Đảng vẫn luôn chú trọng xây
dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo phương châm không
phân biệt giai cấp, địa vị, dân tộc, tôn giáo. Chính điều đó đã tạo nên nguồn lực to lớn
cho sự phát triển của đất nước.
Lãnh đạo cách mạng:
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”6.
Quan hệ với cách mạng thế giới:
“Thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai
cấp vô sản Pháp”7.
Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng của dân
tộc Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, với phong trào đấu tranh của các dân
tộc bị áp bức và với nhân loại tiến bộ là một vấn đề khách quan. Quan điểm này đã được
chứng minh là đúng trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là yếu tố quan
trọng tạo nên thành công của cách mạng Việt Nam.

Tóm lại :
Cương lĩnh khẳng định quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam và mục tiêu giành độc
lập trước sự cai trị và áp bức của thực dân Pháp.
Cương lĩnh tuyên bố Đảng Cộng sản Việt Nam là một phần của phong trào cách
mạng quốc tế và đề cao mục tiêu xây dựng một xã hội cộng sản trong nước.

5
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 4.

6
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 4.

7
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 5.
3
Cương lĩnh chính trị đầu tiên nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh giành độc lập và cách mạng của Việt Nam. Đảng coi công nhân là
nhân tố lãnh đạo trong cuộc cách mạng và “không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi
của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”8.
Cương lĩnh đề cao việc sử dụng cách mạng vũ trang như là một phương pháp chính
trong cuộc đấu tranh, nhưng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của đấu tranh chính trị, văn
hóa và tuyên truyền.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định các nguyên tắc cơ bản và hướng đi cho
Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và cách mạng. Nó đã định
hình bản chất của Đảng và trở thành nền tảng cho các văn kiện chính trị và chiến lược
sau này của Đảng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp
ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần
tinh thần dân tộc.

8
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 6.
4
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam bị áp bức, bóc lột nặng nề,
mất đi quyền tự do, dân chủ. Do đó, đánh đổ đế quốc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp
bách của dân tộc lúc bấy giờ. Theo đó là vấn đề lựa chọn một con đường phát triển mới
cho phong trào yêu nước.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu nước ở Việt Nam vẫn còn mang
tính chất phong kiến dẫn đến thất bại và bế tắc. Thực tiễn yêu cầu phải xóa bỏ chế độ
phong kiến.
Đến đầu thế kỷ XX, hệ tư tưởng tư sản du nhập vào Việt Nam, theo đó phong trào
yêu nước theo khuynh hướng chính trị tư ra đời và phát triển nhưng cuối cùng vẫn thất
bại. Điều đó chứng tỏ độc lập dân tộc của Việt Nam không thể gắn với phong kiến cũng
như tư sản
Vì thế, các phong trào cách mạng khuynh hướng vô sản ra đời làm cho cách mạng
Việt Nam mới phát triển mạnh theo khuynh hướng vô sản. Song, với việc có nhiều tổ
chức, lực lượng đấu tranh trong cả nước, nhưng các tổ chức, lực lượng đó còn non trẻ
chưa xác định được phương hướng nên nhiều tổ chức nhanh chóng tan rã.
Dưới tình hình cấp bách, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng tập hợp tất cả tổ chức yêu
nước còn lại, tổ chức hội nghị thống nhất và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra
thời kì mới cho cách mạng cả nước.
Cùng với đó Người đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định rõ mục tiêu
chiến lược, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt, lực lượng cách mạng, phương pháp và vai trò
của Đảng. Cương lĩnh đã vạch ra đường lối mới cho cách mạng Việt Nam trở nên toàn
diện, phù hợp với xu thế phát triển thời đại mới. Mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt
Nam, thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy chúng ta đã hoàn thành phân tích rõ các lí do dẫn đến sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trong hoàn cảnh đất nước
chịu sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.

You might also like