Professional Documents
Culture Documents
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cùng với Chánh cương vắn tắt, Bác còn soạn thảo và được Hội nghị thành
lập Ðảng thông qua Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Ðiều lệ vắn tắt và Lời
kêu gọi nhân dịp thành lập Ðảng. Tất cả những tài liệu này đã trở thành những văn
kiện quan trọng có tính kinh điển của Ðảng ta, xác lập đường lối chiến lược, sách
lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, xác lập vai trò, vị trí lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò, vị trí đó được không ngừng củng
cố và phát triển từ thực tiễn lãnh đạo đấu tranh cách mạng của Đảng suốt từ năm
1930 đến nay.
Đó không chỉ là thành quả của sự sàng lọc, lựa chọn của chính lịch sử mà
thể hiện sứ mệnh và trách nhiệm nặng nề của Đảng trước vận mệnh của đất nước
giai cấp và dân tộc, trước toàn thể nhân dân Việt Nam.
Vai trò, vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt
Nam không phải tự nhiên được xác định. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị công
phu, khoa học về mọi mặt và sự trải nghiệm thực tiễn từ quá trình đấu tranh cách
mạng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng,
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo (3/2/1930) đã nhằm vào giải quyết triệt để mâu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, xác định mục tiêu đánh đổ sự thống trị của
chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc,
ruộng đất cho dân cày, đi tới xã hội cộng sản.
Cương lĩnh cũng xác định phải tập hợp đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc,
nhất là công nhân, nông dân; xác định những mục tiêu bước ngoặt về dân sinh, dân
chủ, phương pháp đấu tranh, mối quan hệ quốc tế và nhấn mạnh vấn đề xây dựng
Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. (1)
Mục tiêu chỉ có một, nhưng có nhiều con đường được lựa chọn để đi tới mục
tiêu. Cương lĩnh xác định con đường cách mạng Việt Nam là “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” (2), “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng” (2). Về sau, Đảng có nhiều diễn đạt khác: làm cách mạng phản đế
và phản phong, hoặc làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa
cộng sản, giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Khi nói tới thuật ngữ “cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới”, mà trong Cương
lĩnh viết là “tư sản dân quyền cách mạng” thì hiển nhiên trong đó đã bao hàm cả
“thổ địa cách mạng” rồi, hà tất phải nêu về thổ địa cách mạng. Nhưng, “thừa” còn
hơn thiếu, Cương lĩnh nêu “tư sản dân quyền cách mạng”, nhưng lại tách riêng ra
một vế “thổ địa cách mạng”, xét về thực tế, thì rất cần thiết.
Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đang đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm tromg phạm trù của cách
mạng vô sản. (3)
Khi đế quốc không tự nguyện từ bỏ ý chí xâm lược và thế lực độc tài quân
chủ phong kiến, không chịu từ bỏ chế độ cai trị ở Việt Nam thì việc sử dụng bạo
lực chính là phương pháp cách mạng duy nhất đúng. Trong bộ Tư bản, C.Mác cho
rằng: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới”.
Đến tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực còn đóng một vai
trò khác trong lịch sử, vai trò cách mạng; nói theo Mác, bạo lực còn là bà đỡ cho
mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động
xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa
đá và chết cứng”. Tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng
định tính tất yếu của bạo lực cách mạng, làm sáng tỏ hơn vấn đề: không có bạo lực
cách mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. (3)
Cương lĩnh xác định rằng, lực lượng cách mạng gồm toàn bộ những người
Việt Nam yêu nước: công nhân; nông dân; tiểu tư sản; trung, tiểu địa chủ; tư sản
dân tộc yêu nước. Chính đây là vấn đề khác với quan điểm tả khuynh của Đại hội
VI Quốc tế Cộng sản cuối năm 1928, và cũng từ đây Nguyễn Ái Quốc bị hiểu sai.
Trong khi Quốc tế Cộng sản, có lẽ dựa vào kinh nghiệm của Ấn Độ và Trung
Quốc, cho rằng, địa chủ, giai cấp tư sản dân tộc là đối tượng cần đánh đổ, còn đối
với tiểu tư sản thì không được phép tập hợp, nhưng Cương lĩnh chủ trương tập hợp
cả “phú nông, trung, tiểu địa chủ”, “Đảng tập hợp và lôi kéo... tư sản và tư sản bậc
trung” vì “tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế
quốc được”; “Đảng lôi kéo tiểu tư sản... về phía giai cấp vô sản” (2). Như vậy là
ngoài hai lực lượng rất cơ bản là công - nông, Đảng chủ trương tập hợp tất cả lực
lượng yêu nước khác vào cuộc đấu tranh cách mạng. Điều này hoàn toàn phù hợp
với hoàn cảnh của một nước thuộc địa nửa phong kiến, khi tất cả các giai tầng đều
có một “mẫu số chung” là yêu cầu giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc và những
người tham gia thành lập Đảng đã nhìn vấn đề này rõ hơn và đúng hơn so với
Quốc tế Cộng sản khóa VI. (3)
Chánh cương chỉ rõ, về chính trị: Ðánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp
và chế độ phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính
phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hết các sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản Pháp để giao cho chính phủ
công nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để làm
của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang phát
triển công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ
thông giáo dục theo công nông hóa. (4)