Professional Documents
Culture Documents
+) có áp bức giai cấp thì có đấu tranh giai cấp. Ngay từ khi mới ra đời giai cấp
công nhân đã tiến hành những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giai cấp
tư sản. Những cuộc đấu tranh ban đầu diễn ra lẻ tẻ và mang tính tự phát vì mục
đích kinh tế, do thiếu một lý luận cách mạng và một tổ chức tiên phong lãnh đạo
nên đều thất bại. Chính sự phát triển của phong trào công nhân đặt ra đòi hỏi
phải có lý luận tiên tiến dẫn đường để tổ chức, giáo dục, giác ngộ giai cấp công
nhân về sứ mệnh lịch sử của mình, để vạch cho giai cấp công nhân đường lối và
phương pháp cách mạng khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi
hỏi của phong trào công nhân.
+) Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào công nhân,
trở thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân. Mặt khác, thông
qua phong trào công nhân chủ nghĩa Mác được kiểm nghiệm, bổ sung, phát
triển và ngày càng hoàn thiện. c) khi chủ nghĩa Mác ra đời chỉ có một bộ phận
ưu tú nhất của giai cấp công nhân tiếp thu được nó. Bộ phận này đã tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, giáo dục, giác ngộ và tổ
chức công nhân đấu tranh, Đảng Cộng sản ra đời từ quá trình hoạt động cụ thể
ấy.
b) Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân; nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử,
được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể. Ở
nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Chương 2
2: Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng (9/1960)
* Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng (9/1960)
- Bối cảnh lịch sử:
Thế giới
Từ năm 1960 trở đi, do tình hình quốc tế có những biến động phức tạp,
mâu thuẫn Xô - Trung ngày càng căng thẳng. Trong phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế, giữa các nước XHCN đang có những mâu thuẫn, bất đồng
sâu sắc. Sự kiện đó đã tác động không tốt đến sự đoàn kết nhất trí trong phong
trào Cộng sản và công nhân quốc tế, trong hệ thống CNXH, tạo điều kiện cho
CNĐQ phá hoại phong trào cách mạng thế giới, ảnh hưởng tiêu cực đến cách
mạng nước ta. Trong bối cảnh phúc tạp, Đảng với đường lối đối ngoại khéo léo,
thận trọng và linh hoạt, nhằm tránh gây căng thẳng giữa Liên Xô, Trung Quốc,
củng cố tình đoàn kết trong các nước XHCN, thu hẹp những bất đồng giữa các
nước anh em, tiếp tục tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN khác cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Những năm 1959-1960, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á,
châu Phi, Châu Mỹ la tinh phát triển mạnh mẽ. Năm 1960 đã có 17 nước châu Phi
tuyên bố độc lập và đây là năm đi vào lịch sử với tên gọi “Năm châu Phi”. Bằng việc
công nhận nền độc lập của hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ latinh, các nước đế quốc
phương Tây bắt buộc phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn
thế giới. Nhìn chung, thời kỳ này cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Đó là nhân
tố quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam. Tuy nhiên, một số nước khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng
chính trị - xã hội khác, thậm chí nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con
đường cai trị của thực dân phương Tây, không ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Trước
thực tiễn đó, ĐCSVN vừa ủng hộ chính sách hoà bình trung lập để tập hợp lực
lượng tiến bộ thế giới, vừa phải lôi kéo, vận động, tranh thủ các lực lượng khác nhau
cho cuộc đấu tranh của dân tộc mình. Chính sách tăng cường đoàn kết với các nước
Á - Phi đấu tranh vì độc lập dân tộc của Đảng đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng
hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế rộng lớn đối với sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta.
Đối với Lào và Campuchia, Đảng chủ trương không ngừng tăng cường
hợp tác hữu nghị, xây dựng liên minh chiến đấu và giúp đỡ các nước bạn trên
tinh thần quốc tế trong sáng. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt
từ năm 1960 trở đi, miền Bắc không chỉ là hậu phương chiến lược của cách
mạng miền Nam mà còn là hậu phương của cách mạng Lào và Campuchia.
Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta luôn nhận được
sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân hai nước Đông Dương anh em.
Trong nước
Sau khi đất nước bị chia cắt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã
giành được những thắng lợi căn bản trong công cuộc cải cách ruộng đất, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ; khôi phục kinh tế; cải tạo XHCN và bước đầu
phát triển kinh tế, văn hoá, từng bước đưa miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng
CNXH nhằm củng cố miền Bắc vững mạnh để chi viện cho miền Nam. Trong khi đó ở
miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Nam đã đánh bại hoàn toàn
chiến lược chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai., đưa cách
mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
- Nội dung Đại hội III của Đảng
Tháng 9- 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong
diễn văn khai mạc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đại hội lần này là Đại hội xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng
trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
+ Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình
hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau ở hai miền:
Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc
và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể
riêng, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam,
hòa bình, thống nhất đất nước.
+ Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi
miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây
dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền
Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
+ Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững
đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn
sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra
chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết
đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
+ Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm
thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước
ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu
dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối
cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.
+ Về xây dựng chủ nghĩa xã hội
Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó
là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa
và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa
trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa
trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được
xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai
mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến
hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư
tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã
hội chủ nghĩa.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy
truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố
miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân
dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực
hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiến phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật,
biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiến tiến.
Hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội khóa III
là nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự
kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thành công lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh
đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,
đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước
mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đó
chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa
phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước
Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp được
sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba
dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả
Liên Xô và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ
sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc đó, đường lối chung của Đảng
còn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong việc giải
quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam
vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
3: Thành tựu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954
– 1975
Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm
Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng, bảo vệ miền Bắc
Thành tựu
- Đảng đã luôn luôn trung thành và vận dụng đúng đắn những nguyên lý về
xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tế. Tùy theo từng
giai đoạn, Đảng đã có các chủ trương và sự chỉ đạo năng động, sát đúng, đáp
ứng kịp thời yêu cầu của miền Bắc, đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
từng bước vượt qua khó khăn đi lên giành những thắng lợi quan trọng.
- Đảng đã động viên, đoàn kết, tổ chức nhân dân miền Bắc kiên trì phấn
đấu hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, thu được nhiều thành
tựu đáng tự hào. Miền Bắc đã căn bản xóa bỏ được chế độ người bóc lột
người; hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, thúc đẩy sản xuất phát triển;
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng bước đầu; văn hóa, xã hội
lành mạnh, ưu việt; hệ thống chính trị được củng cố vững mạnh; không có
nạn đói, dịch bệnh dù chiến tranh ác liệt, kéo dài; quan hệ quốc tế mở rộng,
tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của thế giới,… Những thành tựu đó tuy
còn nhỏ bé, còn xa với những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nhưng đặt vào
hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thì có giá trị thật lớn lao..
- Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng được xây dựng, cùng với việc tiếp
thu và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, miền Bắc chẳng những đứng
vững trong chiến tranh, mà còn đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng
kỹ thuật và phương tiện hiện đại nhất của đế quốc Mỹ. Qua hai lần chống chiến
tranh phá hoại, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay trong đó có nhiều
B52, bắn cháy 271 tầu chiến, bắt hàng trăm giặc lái Mỹ.
- Song song với những thành tựu đó, miền Bắc còn hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành nghĩa
vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.
Hạn chế:
- Việc tổ chức thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề
ra có nhiều vấn đề chưa kịp thời cụ thể hoá và vận dụng tốt vào các kế hoạch
phát triển kinh tế, văn hoá..., chưa nắm vững và giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa xây dựng quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất.
- Chủ quan, duy ý chí, giáo điều trong chỉ đạo cải cách ruộng đất, cải tạo
xã hội chủ nghĩa, tiến hành công nghiệp hoá, hợp tác hóa...
- Trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế trung ương và kinh
tế địa phương, chưa chú ý phát triển đúng mức kinh tế địa phương.
- Bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện kém năng lực, pháp chế xã hội chủ
nghĩa còn lỏng lẻo.
- Trong lĩnh vực lưu thông, phân phối, tài chính, ngân hàng, giá cả, tiền
lương... có những nhận thức và thực hiện không đúng, làm cản trở việc đẩy
mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.
Kinh nghiệm:
Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ở miền Bắc
thời kỳ 1954-1975, cả ưu điểm và hạn chế, có thế rút ra một số kinh nghiệm lớn:
Thứ nhất, nắm vững đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, phát huy tư duy độc lập trong xác định đường lối chung của
cách mạng cả nước và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Thứ hai, xác định đúng nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa
của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chỉ đạo chuyển
hướng xây dựng miền Bắc chính xác, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử.
Thứ ba, có hình thức, bước đi, cách làm phù hợp với thực tế miền Bắc, kết
hợp sự nỗ lực của miền Bắc với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng, bảo vệ miền
Bắc với chi viện tiền tuyến miền Nam, giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước
Ý nghĩa lịch sử đối với Việt Nam:
- Đã kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược
(tính từ năm 1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 115 năm
chống đế quốc (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược, đưa lại độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
- Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên
phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa
bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đã tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và
dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.
- Để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp
dựng nước và giữ nước lâu dài về sau.
Về mặt quốc tế:
- Đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa
xã hội và cách mạng thế giới, bảo vệ được tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ
nghĩa xã hội, mở rộng địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
- Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của
chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội
tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài.
- Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến
quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh
khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và
hòa bình thế giới.
Nguyên nhân thắng lợi
- Là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại
biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một
Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng
tạo.
- Là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân
đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu
nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu
“Thành đồng Tổ quốc”.
- Là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của
đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất
sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn
miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước
xã hội chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.
Kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy
động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi
nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng
hợp….
Ba là, trên cơ sở sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng
phải có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi ủy
quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn.
Bốn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng
cách mạng ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
Tuy nhiên, trong một số thời điểm mang tính bước ngoặt của chiến tranh,
tình huống chiến lược chuyển giai đoạn (thường là sau những thắng lợi lớn), sự
lãnh đạo của Đảng còn biểu hiện nôn nóng, chủ quan, chưa đánh giá thật đúng,
thật sát tình hình, so sánh lực lượng trên chiến trường, nên đã đưa ra các quyết
định chiến lược chưa phù hợp với tình hình thực tế, làm cho cách mạng gặp khó
khăn, tổn thất.
Chương 3
1: Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
khoá IV (8-1979)
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá IV (8-1979)
lúc đầu định bàn về kinh tế địa phương và sản xuất hàng tiêu dùng, nhưng sau
đã chuyển sang bàn về những vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách có liên quan đến
đường lối và chính sách kinh tế-xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế-xã hội của đất nước, Hội
nghị cho rằng nguyên nhân của tình hình khó khăn về kinh tế là do việc xây
dựng kế hoạch kinh tế thiếu căn cứ khoa học; chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch
hoá với thị trường; chưa chú ý tăng trưởng kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể
và chưa sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; có những biểu hiện nóng
vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Từ đó, Hội
nghị đã quyết định những chủ trương và giải pháp mới, mạnh dạn và sáng tạo,
sát hợp với yêu cầu cấp bách của đời sống kinh tế.
Hội nghị xác định phải coi nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là động viên
cao độ và tổ chức toàn dân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp nhằm
đảm bảo lương thực, thực phẩm, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tăng
nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đó, cần ban hành những
chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp như: ổn định mức nghĩa vụ
lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước theo giá thoả thuận
hoặc được tự do lưu thông; khuyến khích việc tận dụng đất canh tác còn bỏ
hoang hoá; ổn định mức bán thịt lợn, phần còn lại bán giá thoả thuận cho Nhà
nước hoặc tự do lưu thông; sửa đổi lại giá lương thực và các loại nông sản khác;
bỏ lối phân phối theo định xuất, bảo đảm phân phối theo lao động coi đó là
nguyên tắc phân phối chủ yếu. Đối với các xí nghiệp, cần đảm bảo quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính. Việc xây dựng kế hoạch
phải tính đến yếu tố thị trường, và sự tồn tại của thị trường tự do là tất yếu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa
+ Hội nghị cho rằng: phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh và tập thể để phát triển sản xuất; phải tuỳ từng ngành nghề, từng mặt
hàng và xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ
chức sản xuất cho thích hợp. Hội nghị còn chỉ rõ, cái gì hợp tác xã đã làm tốt thì
không vội vàng thay thế bằng quốc doanh. Đối với cá thể, kể cả sản xuất, sửa
chữa và dịch vụ, xét sản phẩm nào, công việc nào cá thể hiện đang làm tốt, phục
vụ tốt thì giúp cá thể tiếp tục làm, một số mặt hàng hiện do quốc doanh phụ
trách sản xuất, nay nếu xét để cho tiểu, thủ công nghiệp và tư bản tư nhân sản
xuất có điều kiện phát triển thuận lợi hơn thì cần mạnh dạn giao lại cho tiểu, thủ
công và tư nhân làm.
+ Đối với công nghiệp tư bản chủ nghĩa ở miền Nam, phải uốn nắn những
nhận thức lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về sự tồn tại các thành
phần kinh tế để tận dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý
nhằm phát triển sản xuất.
+ Đối với công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, Hội nghị
xác định: phải nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, hiện nay phải
nhấn mạnh vững chắc; chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép, mệnh
lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Tư tưởng nổi bật của Hội nghị Trung ương sáu là “làm cho sản xuất bung
ra”, nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế,
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế,
phá bỏ những rào cản để cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là bước đột phá
đầu tiên trong quá trình tìm tòi, đổi mới của Đảng ta. Nghị quyết ra đời được
nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bước đầu đã xuất hiện những điển hình về
cách làm ăn mới phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên những giải pháp Hội
nghị Trung ương 6 nêu ra chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn. Sau một thời gian thực
hiện lại xuất hiện những khó khăn mới: Sản xuất bung ra nhưng không đúng
hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả ngày càng cao.
- Thực hiện chủ trương của Hội nghị trung ương 6, tháng 10-1979, Hội
đồng Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát ngăn sông
cấm chợ. Người sản xuất có quyền đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường
không phải nộp thuế sau khi làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Được sự quan
tâm của Nhà nước trong đầu tư phát triển nông nghiệp và cố gắng của nhân dân,
năm 1979 sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978.
- Trước hiện tượng “khoán chui” ở một số các hợp tác xã nông nghiệp của
các tỉnh, ngày 22-6-1980, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 22, cho
phép các địa phương mở rộng thí điểm khoán sản phẩm và khoán việc đối với
cây lúa trong các hợp tác xã nông nghiệp.
2: Chỉ thị số 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo tinh thần của Chỉ thị
này, mỗi xã viên nhận mức khoán trên một diện tích nhất định và tự mình làm 3
khâu, cày cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm
nhiệm. Nếu thu hoạch vượt mức khoán thì xã viên được hưởng. Phương hướng
chủ yếu trong cải tiến khoán là khuyến khích lợi ích chính đáng của người lao
động làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất và quản lý
hợp tác xã đều gắn với sản phẩm cuối cùng.
Chỉ thị ra đời được nhân dân cả nước đón nhận. Chưa có hình thức kinh tế
nào khi xuất hiện lại được nhiều người bàn luận sôi nổi và được mở rộng nhanh
chóng, biến thành một phong trào quần chúng sâu rộng, thu hút hàng triệu nông
dân, không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn mà còn mở ra triển vọng tốt đẹp
cho việc cải tiến quản lý nông nghiệp như Chỉ thị 100.
Với hình thức khoán ấy, tuy còn ở trình độ thấp nhưng đã tạo nên không
khí phấn khởi trong nông dân. Nhiều hiện tượng tiêu cực, lãng phí ngày công đã
từng tồn tại từ nhiều năm trong các hợp tác xã nông nghiệp thì chỉ trong một vụ
đông xuân (1981-1982) áp dụng cách khoán mới đã giảm nhiều, theo đó sản
xuất nông nghiệp ở nước ta trong thời kỳ 1981-1985 đã có những bước tiến
đáng kể. Nếu so với mức bình quân hàng năm của thời kỳ trước đó 1976-1980
là 1,9% thì tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp trong thời kỳ 1981-1985 là
4,9%, sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức tăng bình quân
hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn
trong thời kỳ 1981-1985. Diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 62,1%; đàn
bò tăng 33,2%; đàn lợn tăng 22%; lương thực cung cấp cho Nhà nước tăng 2
lần.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, trên cơ sở tổng kết các hiện tượng “xé rào” và
làm thí điểm nhằm phát triển công nghiệp, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh và
Long An, ngày 21-1-1981
4: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982)
- Đại hội lần thứ V của Đảng tiến hành từ ngày 27-3 đến ngày 31-3-1982
tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu
đảng viên trong cả nước, có 47 đoàn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân,
các tổ chức cách mạng trên thế giới.
- Đại hội đã thảo luận thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương
hướng nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội trong 5 năm 1981-1985,
Báo cáo về xây dựng Đảng và bổ sung điều lệ Đảng, Bầu Ban Chấp hành Trung
ương khoá V gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương, khoá V đã bầu ra Ban Bí thư, Tổng Bí thư
và Ủy ban kiểm tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí
thư của Đảng.
- Nội dung Đại hội V của Đảng:
+ Thứ nhất, Đại hội đưa ra quan niệm mới về chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội V nêu rõ: thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là khó
khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, hiện nay nước ta đang
ở chặng đường đầu tiên. Đây chính là sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quan
điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ và sự phân kỳ của thời kỳ quá độ
vào điều kiện thực tiễn nước ta.
Đại hội xác định: Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-
1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc
biệt.
Việc khẳng định trên thực tế cách mạng Việt Nam đang ở chặng đường
nào trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quyết định trong việc
tìm ra và nắm vững quy luật khách quan, làm cơ sở để cụ thể hoá đường lối, xác
định chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam; chống
chủ quan, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn.
+ Thứ hai, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới có
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng
chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về mọi
mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến
tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mỗi nhiệm vụ chiến lược có vị trí riêng, nhưng có mối quan hệ mật thiết, trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ hàng đầu.
+ Thứ ba, Đại hội đã có những điều chỉnh về nội dung, bước đị và cách
thức tiến hành của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
tiên.
Đại hội V khẳng định: Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa; đồng thời ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây
dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp, hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công-nông
nghiệp hợp lý.
Nội dung đó phản ánh đúng bước đi, cách thức tiến hành của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực tiễn nước ta; nhằm khai thác, phát huy
thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao động, đất đai, ngành nghề... giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, làm cơ sở để thực
hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp
theo.
+ Thứ tư, Đại hội vạch ra nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm là phát triển thêm
một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo XHCN nền kinh tế quốc dân.
Ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết nhất của
đời sống nhân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, khắc
phục một bước quan trọng về phân phối lưu thông, ổn định tình hình kinh tế xã
hội.
b. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết đại hội V
- Sau Đại hội V, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V đã
tiếp tục cụ thể hoá, phát triển quan điểm của Đại hội về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Hội nghị Trung ương 3 Ban chấp hành Trung ương khoá
V (12-1982) bàn về phương hướng phát triển kinh tế, xã hội 3 năm (1983-
1985). Hội nghị Trung ương 4 (tháng 6-1983) bàn những vấn đề cấp bách về tư
tưởng, tổ chức bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội. Hội nghị Trung
ương 5 (12-1983) bàn về nhiệm vụ phát triển kinh tế 2 năm (1984-1985). Hội
nghị Trung ương 6 (7-1984) đã bàn sâu về phân phối lưu thông. Hội nghị Trung
ương 7 (12-1984) bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1985.
7: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
thời kỳ 1975-1986
a. Thành tựu:
Tổng kết 10 năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ VI
của Đảng (12-1986) nêu lên những thành tựu nổi bật:
- Thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.
- Cở sở vật chất kỹ thuật của CNXH được tăng cường, trong đó công trình
thủy điện Hòa Bình và Trị An được khởi công xây dựng.
- Giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh
chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước bạn Lào, Campuchia.
- Những thành tựu trên đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những
nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
b. Hạn chế và nguyên nhân:
- Bên cạnh đó, tình hình kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn: Sản xuất
tăng chậm, không đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng ổn định đời sống nhân
dân. Một số chỉ tiêu quan trọng không đạt được; hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp; phân phối lưu thông rối ren, căng thẳng, vật giá tăng nhanh, ngân sách
thâm hụt, lạm phát tăng; mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,
có mặt gay gắt hơn trước; quan hệ sản xuất XHCN chậm được củng cố; vai trò
chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu; các thành phần kinh tế phi XNCH
chưa được sử dụng và cải tạo đúng đắn; Tiêu cực, tham những tràn lan, pháp
luật, kỹ cương bị buông lỏng. Mục tiêu trước mắt là ổn định tình hình kinh tế xã
hội, ổn định đời sống nhân dân chưa thực hiện được.
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là:
Về khách quan: Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, lại chịu hậu quả nặng nề của 30 năm
chiến tranh. Đất nước được giải phóng, trong khi chúng ta đang rất cần một môi
trường hòa bình thực sự để xây dựng đất nước, hàn gắn những vết thương
nghiêm trọng do chiến tranh gây ra, thì cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc lại bùng nổ. Cũng từ sau năm 1975, quan hệ quốc tế có
nhiều thay đổi, nguồn viện trợ nước ngoài đối với ta giảm mạnh.
Về chủ quan (6 vấn đề): Sai lầm trong đánh giá tình hình, xác định mục
tiêu, bước đi; Sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; Sai lầm trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa; Sai lầm trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; Duy trì quá lâu cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp; Còn buông lỏng chuyên chính vô sản (cả trong
quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của địch…).
Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm nói trên, đặc
biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu
tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân
bắt nguồn từ “những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác
cán bộ của Đảng”.
10: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 và bầu đồng chí
Đỗ Mười là Tổng Bí thư Đảng.
+ Đại hội đã tổng kết những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam;
những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và nêu ra những bài học lớn:
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi
mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh
hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Hai là, đổi mới toàn diện,
đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba
là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế, xã hội. Bốn là, tiếp tục phát huy sâu rộng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc
phù hợp. Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kết
hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần
kiên định thực hiện đường lối đổi mới.
+ Trong bố cảnh hệ thống CNXH sụp đổ, Trung Quốc tuyên bố xây dựng
CNXH mang màu sắc Trung quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ cũng chỉ rõ đặc trưng của CNXH của Việt Nam: Do nhân dân lao động
làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
11: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và thực hiện kế hoạch 5 năm
(1996- 2001)
* Hoàn cảnh lịch sử :
Những năm cuối thế kỷ XX, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
nhanh với trình độ cao hơn trước. Các nước tư bản phát triển tiếp thu thành tựu
của KHCN phát triển đạt nhiều thành tựu kinh tế, quân sự vv... Đây là nhân tố
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế
và đời sống xã hội; cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ diễn ra
gay gắt.
Trong khi đó hệ thống CNXH sụp đổ và phong trào cách mạng thế giới
lâm vào thoái trào. Khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở các nước Đông Nam Á và
châu Á lan rộng trong khu vực, tác động xấu đến nền kinh tế nước ta.
Sau 10 năm đổi mới, Việt Nam bước đầu đã đạt dược những thành tựu về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Quan hệ đối ngoại phát
triển mạnh mẽ, phá được thế bị bao vây, cô lập, tham gia tích cực vào cộng
đồng quốc tế. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là nước nghèo và kém phát triển, xã hội
còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
* Nội dung Đại hội VIII của Đảng
Đại hội VIII của Đảng thay mặt cho hơn 2,1 triệu đảng viên cả nước họp
tại Hà Nội (12-1986) đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu Đỗ
Mười tiếp tục làm Tổng Bí thư Đảng.
- Đại hội đánh giá công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1996) thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn.
- Nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền
đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép đất nước chuyển sang
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đại hội tổng kết 10 năm đổi mới và nêu ra sáu bài học chủ yếu:
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá
trình đổi mới. Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị. Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Năm là, mở rộng hợp
tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Sáu là, tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
- Mục tiêu của CNH, HĐH : Phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp, có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
- Để thực hiện mục tiêu trên, Đại hội đưa ra quan điểm chỉ đạo công
nghiệp hoá, hiện đại hoá:
+ Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
+ Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
+ Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định.
+ Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển,
lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
+ Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
- Đại hội VIII nhấn mạnh một quan điểm về kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN:
Một là: Sản xuất hàng hoá, cơ chế thị trường không đối lập với CNXH mà
là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho
công cuộc xây dựng CNXH.
Hai là: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường
theo định hướng XHCN là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản
xuất và lưu thông, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thị trường
trong nước gắn với thị trường thế giới.
Ba là: Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch
chủ yếu mang tính định hướng vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn
các đơn vị kinh tế lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh.
Bốn là: Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý
vĩ mô của nhà nước, đồng thời phải xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị
sản xuất kinh doanh nhằm phát huy tác động tích cực đi đôi với việc ngăn ngừa,
hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý
kinh tế thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn
bẩy kinh tế và các nguồn lực chủ đạo của kinh tế Nhà nước...
- Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 1996-2000, nêu nhiệm vụ tổng quát, những
tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.
- Xây dựng Đảng : Đại hội khẳng định xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi
của thời kỳ mới là vấn đề có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng trên
con đường đổi mới. Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn
nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các biểu
hiện tiêu cực và yếu kém. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng
viên. Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới công tác kiểm tra và
kỷ luật của Đảng.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt của Đảng, đưa đất nước sang thời kỳ
mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
* Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm (1996-2001)
Sau Đại hội VIII, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp, chỉ đạo thực hiện
những nhiệm vụ cụ thể, nổi bật là:
- Đổi mới kinh tế
Nghị quyết Trung ương khóa IV (1997) khóa VIII : Coi phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm; phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, ra sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần kiệm
để công nghiệp hoá, tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH,
đồng thời quan tâm xây dựng quan hệ sản xuất. Thực hiện cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế
phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát
triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp
tác hoá, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các
loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính-
tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc làm và xoá đói
giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế-xã hội.
Kết quả, đến năm 2000, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá, GDP tăng
bình quân hằng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất
lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm tăng 13,5%.
Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000, các
chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.
- Đổi mới hệ thống chính trị - Hội nghị Trung ương 3, 6 khóa VIII
Một là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh với quan điểm chỉ
đạo :
Phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng hoạt động và kiện
toàn tổ chức Quốc hội; tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước; cải cách tư
pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hai là, Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất và năng lực, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu.
Tiêu chuẩn chủ yếu của cán bộ là: Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ
phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, Không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ
hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu
biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối, của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ.
Các tiêu chuẩn đó quan hệ mật thiết với nhau, coi trọng cả đức và tài, lấy đức là
gốc.
Ba là, giải quyết một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng. Yêu cầu đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước. Kiên định những quan điểm
có tính nguyên tắc sau: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận "đa
nguyên, đa đảng". Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính
và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Bốn là, tiếp tục xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức các ban của Đảng ở các cấp; cải tiến cách làm của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nâng cao trách nhiệm và chất lượng hoạt
động của các đại biểu Quốc hội; rà soát và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ
cấu tổ chức cơ quan Chính phủ và chính quyền địa phương, tinh giản hợp lý tối
đa các cơ quan thuộc Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, tinh giản các đơn vị
thuộc các Bộ; chỉ đạo và sắp xếp tổ chức của hai ngành kiểm sát và toà án; xây
dựng quy chế làm việc, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể chính trị-xã hội.
Theo Chỉ thị số 30/CT-TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị về “Quy chế
dân chủ”, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phổi hợp ban hành Quy
chế dân chủ ở các loại hình tổ chức cơ sở và các lĩnh vực trên cả nước.
Những chủ trương đổi mới hệ thống chính trị đã đóng góp quan trọng vào
thắng lợi của đất nước qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII.
- Xây dựng và phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội (Nghị quyết
Trung ương 2, 5 khóa VIII (1998)
Một là, định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến nǎm 2000
Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và
phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá
nhân loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác
phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật ; có sức khoẻ, là những người thừa
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục
- đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội. Coi giáo
dục-đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nhân tố
quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Giáo dục-đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn
dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Kết hợp giáo dục nhà
trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành
mạnh ở mọi nơi, trong từng công đồng, từng tập thể.
Phát triển giáo dục-đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội,
những tiến bộ khoa học-công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.
Hai là, định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá với quan điểm chỉ đạo :
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
trí tuệ của nhân loại, đi sâu nghiên cứu, tổng kết quá trình đổi mới đất nước.
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng-an
ninh.
Nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học và
công nghệ của nước nhà, tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật, từng bước hình
thành nền khoa học và công nghệ hiện đại của Việt Nam.
Ba là, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc với quan điểm chỉ đạo:
- Vǎn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Nền vǎn hóa mà chúng ta xây dựng là nền vǎn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
- Nền vǎn hóa Việt Nam là nền vǎn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam
- Xây dựng và phát triển vǎn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Vǎn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển vǎn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Mười nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển vǎn hóa là: Xây dựng con
người Việt Nam; xây dựng môi trường vǎn hóa; phát triển sự nghiệp vǎn học-
nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các di sản vǎn hóa; phát triển sự nghiệp giáo
dục-đào tạo và khoa học-công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống
thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu
số; chính sách vǎn hóa đối với tôn giáo; củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể
chế vǎn hóa; mở rộng hợp tác quốc tế về vǎn hóa;
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (7-1998) được ví như Tuyên ngôn
văn hóa của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó,
phong trào thi đua yêu nước “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa”
được phát động rộng rãi trên cả nước, trên nhiều lĩnh vực góp phần làm chuyển
biến đời sống tinh thần xã hội.
14: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo công
cuộc đổi mới (1986-2016)
Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới (1986-2016)
* Những thành tựu
- Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển.
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển:
Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và
hai năm 2006-2010 tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm
2001-2010 tăng trưởng 7,26% /năm, từ 2011 đến 2015, tăng trưởng GDP năm
2011 đạt 6,24%, năm 2012: 5,25%, năm 2013: 5,42%, năm 2014: 5,98% và năm
2015 đạt 6,68%. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới tại Hội nghị đối tác phát
triển Việt Nam (ngày 05-12-2014), trong giai đoạn khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 - 2013), Việt Nam đạt 4,6%, Trung Quốc là
8,5%, In-đô-nê-xi-a đạt 4,5%, Phi-lip-pin đạt 3,3%, Thái Lan đạt 2,7%, Ma-lai-
xi-a đạt 2,6%. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh so với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển
có thu nhập trung bình trên thế giới.
Năm 2010, GDP) đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ
USD). Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực tế đã đạt 1.047
USD, năm 2010 đạt 1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Năm 2011-
2015, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt
193,4 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD. Chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc
gia và lãnh thổ, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Nước ta đã ra khỏi
nhóm nước có thu nhập thấp.
- Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường.
- Văn hoá, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng lên, một số mặt đạt trình độ của các nước
phát triển trung bình. Chỉ số phát triển con người tăng lên, từ 0,683 năm 2000
lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 100/177 nước tham gia xếp hạng. Thu nhập thực tế
sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và
nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm
2008. Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Đã hoàn thành phần lớn mục
tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra cho năm 2015.
- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống
chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao2.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục
đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
* Hạn chế, khuyết điểm:
- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ
được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực
tiễn. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một
số vấn đề cần phải tổng kết để tiếp tục làm rõ.
- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu
cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô
có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất
lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế còn thấp. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý
xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn
những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ
với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa
ngang tầm nhiệm vụ.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Niềm tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
* Một số kinh nghiệm trong 30 năm đổi mới
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên
cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
2
Tham gia giải pháp chính trị vấn đề Campuchia (1989), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
(năm 1991), với Hoa Kỳ (năm 1995); gia nhập ASEAN (năm 1995); gia nhập WTO (năm 2006); ký
kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP (năm 2015). Đến năm 2015, Việt Nam đã có quan
hệ ngoại giao với 185 nước. Đến năm 2015, Việt Nam đã thu hút hàng chục tỷ USD vốn ODA, trên
250 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài.
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách
nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy
luật, xuất phát, bám sát và coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Bốn là, đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Năm là, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-
xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường quan hệ mật thiết với nhân dân.
2. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng:
Gồm 3 nhiệm vụ chính:
a. Chính trị:
o Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
o Thành lập ra chính phủ công nông binh và tổ chức
quân đội công nông.
b. Kinh tế:
o Quốc hữu hoá: toàn bộ tài sản lớn của đế quốc Pháp
(như công trình giao thông, nhà máy, xí nghiệp, ngân
hàng…) giao cho chính phủ Công Nông Binh quản
lý.
o Tịch thu toàn bộ ruộng đất của đế quốc làm của công
và chia cho dân cày nghèo.
o Giảm sưu thuế cho dân cày nghèo.
o Mở mang công nghiệp, nông nghiệp, thực hiện luật
ngày làm tám giờ.
c. Văn hóa xã hội:
o Dân chúng được tự do tổ chức (như tự do đi lại, hội
họp, ngôn luận, báo chí…).
o Thực hiện nam nữ bình đẳng.
o Phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Như vậy, cuộc cách mang có ba nhiêm vụ nhưng
thực chất là giải quyết hai vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam. Đó là vấn đề chống đế quốc và
chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí
hàng đầu.
3. Lực lượng cách mạng:
Công nhân và nông dân là lực lượng đông đảo (lực
lượng chính) của cách mạng nên đảng phải thu phục
(đoàn kết) đông đảo công nhân, làm cho họ lãnh đạo
được dân chúng, và đảng phải thu phục (đoàn kết) đông
đảo nông dân và dựa vào dân cày nghèo để làm cách
mạng ruộng đất.
Đảng lôi kéo, lợi dụng hoặc ít nhất là trung lập đối với
những lực lượng, thành phần chưa lộ rõ mặt phản cách
mạng (như tư sản, trí thức, trung nông, phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam…). Còn đối với những
lực lượng mà họ đã lọ rõ mặt phản cách mạng thì chúng
ta phải đánh đổ (như Đảng Lập hiến…).
Khi làm cách mạng thì 1 mình giai cấp công nhân là
chưa đủ, họ chỉ giữ vai trò lãnh đạo và để cách mạng
thành công thì công nhân phải liên minh với các lực
lượng khác: nông dân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức, địa
chủ yêu nước…Nhưng nguyên tắc khi liên minh lực
lượng là phải đặt lợi ích của công nhân và nông dân lên
hàng đầu ( không hy sinh lợi ích của công- nông để đi
vào con đường thoả hiệp với kẻ thù ) vì mục tiêu của
cách mạng là mang lại quyền lợi cho đông đảo người
lao động.
4. Lãnh đạo cách mạng:
Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam và lãnh đạo thông qua đội tiền phong của
mình, chính là Đảng Cộng sản.
Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, tài tình,
sáng tạo , nhằm giải phóng, đoàn kết toàn thể dân tộc
VN. “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa
nửa phong kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng
đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền
thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta
với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc
biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm
thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng
tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng
đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một
xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia
độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa;
nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi
tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng
rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới.
Khi đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn 80 năm
thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: “Từ
năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân
ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được
những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong
kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các
cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa
Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của
công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới
đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.”
Kết luận:
Gần một thế kỷ đã trôi qua, Cương lĩnh 1930 cho đến nay vẫn
vẹn nguyên giá trị và điều lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh khẳng định: Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, vẫn là
con đường lựa chọn duy nhất đúng, tiếp tục dẫn dắt toàn dân tộc
tiến lên.
Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý
luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện
đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình
xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ,
các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát
triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa,
gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự
đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều
kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh
các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực,
thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một
cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian
khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo
mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội
chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến
thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự
đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
2: Chủ trương chỉ đạo chiến lược cách mạng của
Đảng giai đoạn 1939–1945?
2. Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương, đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh, đã đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đảng có quá
trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo đặc biệt là lãnh đạo chuẩn bị lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng trong giai đoạn
vận động giải phóng dân tộc 1939-1945 được chuẩn bị kỹ càng. Các
cấp bộ Đảng và Việt Minh từ Trung ương đến địa phương sáng tạo,
linh hoạt chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động nổi dậy giành
chính quyền.
*Ý nghĩa lịch sử
+) Đối với trong nước
– Mở ra bước ngoặt mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, phá tan
xiềng xích nô lệ của Pháp hơn 80 năm và phát xít Nhật gần 5 năm,
chấm dứt chế độ phong kiến thối nát lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Việt Nam từ 1 nước thuộc địa, phụ thuộc, thân phận nô
lệ trở thành người làm chủ đất nước.
– Thắng lợi của cách mạng tháng 8 đánh dấu bước nhảy vọt của cách
mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc. Kỷ
nguyên độc lập tự do , kỷ nguyên nhân dân năm chính quyền, làm chủ
đất nước, kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã
hội, giải phóng nhân dân lao động.
– Đảng Cộng Sản Đông Dương tử chỗ hoạt động bí mật, trở thành
Đảng cầm quyền và hoạt động công khai, từ hoạt động bất hợp pháp,
trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
Khôi
+) Đối với thế giới:
– Thắng lợi cách mạng tháng 8 là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới
một dân tộc nhỏ chủ yếu tự giải phóng khỏi ách thực dân đế quốc và
thắng lợi đầu tiên của Đảng vô sản ở các nước thuộc địa, giành được
chính quyền cách mạng trong cả nước. Do đó, cách mạng tháng 8 góp
phần cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng có
ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Lào và Campuchia.
– Góp phần vào thắng lợi cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít,
chọc thủng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm
suy yếu chúng, tạo điều kiện cho các dân tộc đấu tranh và tự giải
phóng.
- Trước biến động của bối cảnh quốc tế, các nước XHCN tiến hành
cải cách, cải tổ. Tuy nhiên, hệ thống các nước XHCN lâm vào khủng
hoảng sâu sắc. Chế độ XHCN ở các nước Đông Âu lần lượt sụp đổ,
cuối cùng là Liên Xô dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc
tế.
- Các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình”, nhằm xuyên tạc
chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; lợi dụng
những chiêu bài dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá
chế độ chính trị dưới sự lãnh đạo của ĐCS, tron đó có VN.
Trong nước
- Những năm giữa thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta phổ biến vẫn là
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, hậu quả chiến tranh, thiên tai tàn phá
nặng nề.
- Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ khuyết tật. Đặc biệt
sai lầm của cải cách giá, lương, tiền làm cho kinh tế xã hội khủng
hoảng trầm trọng, lạm phat tăng 774%, đời sống nhân dân thì khó
khăn, lòng tin của nhân dân đối với Đảng thì giảm sút. Tình trạng
tham nhũng, lãng phí tràn lan vv…
Trước những biến động của tình hình thế giới và trong nước, Đảng
khẳng định: phải nhìn thẳng vào sự thật, phải nói rõ sự thật, phải đánh
giá đúng tình hình, phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế.
Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục,
ổn định trong 20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy:
Xét về số tuyệt đối thì GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một
doãng ra với tốc độ rất nhanh so với GDP của Việt Nam. Nếu cách
đây 30 năm, GDP của thế giới hơn GDP của Việt Nam là 3.900 USD
thì nay con số đó là 7.500 USD. Nói cách khác, dù Việt Nam đã đi
được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hâu so
với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi
được những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách thức thực sự, là
một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược tổng
thể, dài hạn để khắc phục.
Biện pháp:
Thứ nhất, phát triển nhanh và bền vững; dựa chủ yếu vào khoa học
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phải đổi mới tư duy và
hành cộng, chủ động nắm bắt cơ hội; phát triển hài hòa 3 trụ cột kinh
tế - xã hội và môi trường.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; lấy
cải cách, nâng cao chất lượng thể chế và thực thi pháp luật hiệu lực,
hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực;
thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, các sản phẩm dịch vụ, mô
hình mới; côi trọng quản lý phát triển xã hội; phát triển nhanh, hài hòa
các khu vực kinh tế, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực
quan trọng của nền kinh tế;..
Thứ ba, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng sức mạnh nội
sinh quan trọng; phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước;…
Thứ tư, xây dựng nền kinh tế tự chủ trên cơ sở làm chủ công nghệ và
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; phát huy nội lực là yếu tố quyết
định gắn lới ngoại lực và sức mạnh thời đại;..
Thứ năm, chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết
chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường
với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương,
an toàn…
Có thể khẳng định, có được đường lối chính trị đúng trong hoàn
cảnh phát triển bình thường đã là việc khó; ở những bước ngoặt của
lịch sử, trong bối cảnh đất nước và quốc tế có những diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, thì việc Đảng ta xác định được một đường lối chính
trị đúng và bảo đảm cho đường lối đó thành hiện thực càng khó khăn
hơn. Nó là kết quả của trí tuệ, tài năng, phẩm chất, khí phách. Nó trải
qua một quá trình suy tư gian khổ, tìm tòi, đổi mới tư duy lý luận,
tổng kết thực tiễn, có khi phải làm đi làm lại nhiều lần, thậm chí có
lúc đã không tránh khỏi sai lầm và tạm thời thất bại.
Biện pháp:
Trước hết, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và từng đảng viên cần giữ vững
bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng. Bản chất giai cấp của
Đảng thể hiện trước hết ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Khi định ra
đường lối, chính sách, Đảng phải luôn luôn đứng vững trên lập trường
cách mạng của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng kiên định lập
trường có tính nguyên tắc của mình là lãnh đạo nhân dân xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh theo con đường XHCN. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình hình
trong nước và thế giới dù khó khăn, phức tạp đến đâu, Đảng cũng
vững vàng, không xa rời mục tiêu, lý tưởng của mình, đấu tranh
không mệt mỏi cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Hai là, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội VII của
Đảng chính thức khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Đảng ta,
cho đến nay tuy có những vấn đề cần bổ sung và phát triển, nhưng
Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn là học thuyết cách mạng và khoa học nhất,
tiên tiến nhất, không thể bác bỏ, phủ nhận (cả về phương pháp luận
cũng như hệ thống những luận điểm cơ bản). Tư tưởng Hồ Chí Minh
là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-
Lênin vào thực tiễn Việt Nam, kế thừa và phát huy những giá trị văn
hóa của dân tộc và nhân loại. Đó là một hệ thống những luận điểm về
cách mạng Việt Nam gắn liền với những biến động của thế giới, có
quan hệ đến đời sống của giai cấp và dân tộc, xã hội và con người,
quốc gia và quốc tế.
Ba là, giữ vững và bảo vệ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh.
Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất, đoàn kết chặt chẽ "trăm
người tiến đánh chỉ như một người". Xa rời hoặc không thực hiện
nghiêm túc tập trung dân chủ thì Đảng không thể có được sức mạnh.
Bên cạnh đó, thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình, đoàn
kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết
với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
Bốn là, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Bác
Hồ khẳng định, Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm lãnh
đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lo đến cả "tương cà, mắm
muối” và những thứ cần thiết cho đời sống thường ngày của nhân dân.
Phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải cải
tiến, đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao chất lượng và
hiệu quả lãnh đạo của Đảng; phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân. Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà
nước; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của
hệ thống chính trị.
Quán triệt những nguyên tắc cơ bản trên đây, chúng ta sẽ từng bước
đổi mới, chỉnh đốn Đảng có kết quả, đồng thời tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng ta
thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ;
làm cho Đảng có đủ trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo
đức, đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao, đảm đương sứ mệnh
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi.
“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái
đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết
điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế
là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
4, Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch,
phản động:
“Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các
nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ
yếu bằng các biện pháp phi quân sự. Như vậy, “Diễn biến hòa bình”
chỉ là sự thay hình, đổi dạng để che đậy bản chất của chủ nghĩa đế
quốc, gây mơ hồ ảo tưởng, dao động về mục tiêu lý tưởng đối với cán
bộ đảng viên và nhân dân lao động để tiến công chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu chiến lược của “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là làm
cho các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đa nguyên chính trị, kinh tế
tư nhân hóa; xã hội phương tây hóa; cuối cùng làm cho chế độ xã hội
chủ nghĩa chuyển hóa thành chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương thức
tiến hành, thực hiện sự thẩm thấu hòa bình, làm cho chủ nghĩa xã hội
mục rỗng từ bên trong, tự sụp đổ theo kiểu chiến thắng không cần
chiến tranh. Chúng thực hiện bằng sự tiến công xâm nhập vào trong
lòng các nước xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh các thủ đoạn phi quân sự
như: Chính trị, tư tưởng, kinh tế, ngoại giao, tâm lý, lối sống... làm
biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trong lòng nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Các thế lực thù địch kết hợp chặt chẽ giữa “Diễn biến hòa
bình” với bạo loạn lật đổ và răn đe quân sự.
Tính chất của “Diễn biến hòa bình” rất độc ác, nham hiểm, tinh vi và
phức tạp. Chúng đánh thẳng vào trong lòng chủ nghĩa xã hội, thực
hiện âm mưu “tự diễn biến” hòng tạo ra sự mất ổn định từ bên trong,
trước hết về chính trị ngay từ nội bộ Đảng cộng sản. Đây là cuộc đấu
tranh hết sức gay go và phức tạp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản, là cuộc đấu tranh không phân tuyến, kẻ thù vừa trực diện vừa
giấu mặt, vừa công khai vừa bí mật, nó len lỏi vào mọi lực lượng, mọi
lĩnh vực, ở mọi lúc mọi nơi đối với cả con người và tổ chức, kết hợp
cả lực lượng bên trong và lực lượng bênngoài.
Chính kẻ thù chỉ ra rằng: “Diễn biến hòa bình” có ưu điểm hơn hẳn
thủ đoạn và phương thức tiến hành chiến tranh ở chỗ nó không khêu
gợi tinh thần cảnh giác của đối phương mà nhiều khi còn ru ngủ tinh
thần đấu tranh của đối phương. Theo họ, điều kiện cần thiết để thực
hiện “Diễn biến hòa bình” là mở rộng tiếp xúc, giao lưu giữa hai hệ
thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Những cơ sở thúc đẩy chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đẩy
mạnh “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá chủ nghĩa
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán của
chủ nghĩa đế quốc là tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, lật đổ sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, bắt các nước xã hội chủ nghĩa phải đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa của chủ nghĩa đế quốc. Khôi phục một thế giới thống
nhất tư bản chủ nghĩa theo một trật tự của chủ nghĩa tư bản. Đó là bản
chất không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc. Kể từ khi nhà nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1917 và hệ thống xã hội
chủ nghĩa ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay, từng giây
từng phút chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ lơi lỏng mục tiêu đó. “Diễn
biến hòa bình” lúc đầu chỉ đóng vai trò thủ đoạn để hỗ trợ các chiến
lược quân sự, đến đầu những năm 50 của thế kỷ XX đã trở thành một
chiến lược quân sự và đến giữa thập kỷ 80, do tình hình thế giới có
những biến động phức tạp, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, chúng đã
đẩy mạnh và thực thi toàn diện “Diễn biến hòa bình” chống phá chủ
nghĩa xã hội.
Trong một thời gian dài, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành nhiều chiến
lược quân sự gây chiến tranh chống phá chủ nghĩa xã hội, nhưng đều
thất bại. Việc chủ nghĩa đế quốc thực hiện ráo riết hơn “Diễn biến hòa
bình” chính là nhằm khắc phục sự hạn chế của các thủ đoạn quân sự,
che đậy bản chất xâm lược của chúng. Họ hy vọng rằng đẩy mạnh
“Diễn biến hòa bình” làm “ruỗng nát” chủ nghĩa xã hội từ bên trong
mà đòn tác động tư tưởng tâm lý tạo nên sự chuyển hóa về lập trường
chính trị là đòn trọng yếu nguy hiểm nhất tạo nên sức “hủy diệt” từ
bên trong, đẩy đối phương đến suy yếu toàn diện, rối loạn nội bộ và
sụp đổ nhanh hơn.
Mặt khác trong vài thập kỷ gần đây, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng
thành công nhiều thành tựu khoa học và công nghệ vào lĩnh vực sản
xuất, tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn. Trong khi đó các nước xã
hội chủ nghĩa có những khó khăn nhất định. Đây là cơ hội để chúng
sử dụng đòn kinh tế tiến công chủ nghĩa xã hội: Viện trợ kinh tế kỹ
thuật của chủ nghĩa tư bản nhằm làm vật mồi chài để xâm nhập,
khống chế, nhượng bộ về chính trị, tiến tới can thiệp vào công việc
nội bộ và lôi kéo các nước xã hội chủ nghĩa vào quỹ đạo tư bản chủ
nghĩa. Họ xác định những khó khăn về kinh tế - xã hội của các nước
xã hội chủ nghĩa là thời cơ có lợi để sử dụng đòn kinh tế trong chiến
lược “Diễn biến hòa bình”.
Lợi dụng xu thế hòa dịu trên thế giới và những sai lầm khuyết điểm
trong cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa để thực hiện ráo
riết hơn “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống chủ nghĩa xã hội.
Cuối 1987 thế giới xuất hiện xu thế hòa hoãn, hòa dịu và đối thoại,
đây là cơ hội cho sự xâm nhập của phương Tây vào các nước xã hội
chủ nghĩa bằng các thủ đoạn phi quân sự. Mặt khác, bước vào những
năm 1980, các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện cải cách, cải tổ
nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra cho phù hợp với quy
luật khách quan. Cải cách, cải tổ là công việc đầy khó khăn phức tạp
trên các bình diện xã hội, do đó không tránh khỏi những sai lầm vấp
váp. Đây chính là cơ hội ngàn vàng cho chủ nghĩa đế quốc luồn lách,
chui sâu, leo cao thực thi toàn diện “Diễn biến hòa bình”, kết hợp nội
công, ngoại kích để triệt phá chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà
bình” diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, trong
đó Việt Nam là trọng điểm, trước hết chúng ra sức phá hoại về mặt
chính trị tư tưởng. Mục tiêu “Diễn biến hòa bình”của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch là thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng cộng
sản, chúng phá hoại làm cho Đảng cộng sản suy yếu mọi mặt, chia rẽ
nội bộ Đảng, làm cho quần chúng xa rời Đảng, mất phương hướng,
rời xa chủ nghĩa xã hội, theo con đường chủ nghĩa tư bản. Đồng thời
các thế lực thù địch tìm mọi cách vô hiệu hoá lực lượng vũ trang, tách
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Quân đội.
Biện pháp:
Để phòng, chống DBHB và CMM của các thế lực thù địch, các cấp,
các ngành, LLVT và toàn dân phải tỉnh táo trước những âm mưu thủ
đoạn DBHB và CMM của các thế lực thù địch, phản động. Kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống Đảng, Nhà nước của các thế
lực thù địch, phản động; đảm bảo an ninh chính trị nội bộ; phòng
ngừa, ngăn chặn không để xảy ra CMM trong mọi tình huống. Nâng
cao ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, từ đó tham gia vào
công tác phòng, ngừa, ngăn chặn làm thất bại ý đồ thực hiện CMM.
Từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ các nguyên nhân, điều kiện có thể
dẫn đến CMM ở nước ta. Trong đó tập trung giải quyết dứt điểm các
“điểm nóng” về an sinh xã hội như khiếu kiện, đình công, chủ động
triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trên lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, văn hóa, xã hội, kinh tế, tài chính, thông tin truyền thông, an
ninh mạng, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, không để các
thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tập hợp lực lượng, hình thành,
công khai hóa tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, tiến hành các
hoạt động biểu tình, bạo loạn trên quy mô lớn nhằm thực hiện CMM
ở Việt Nam.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố bảo vệ vững chắc an ninh
chính trị nội bộ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn, vi phạm pháp luật, nhất là trong
hàng ngũ cán bộ các cấp. Kiên quyết loại trừ các điều kiện hình thành
tổ chức chính trị đối lập, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập.
Củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ
XHCN. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng hợp tác quốc
tế tạo nền tảng, sức mạnh chính trị, phục vụ phát triển kinh tế, tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đảm bảo giải quyết triệt để mầm
mống, nguy cơ CMM ở Việt Nam.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước XHCN quản lý, điều hành; kết hợp
chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phòng, chống
DBHB và CMM. Đây là một nguyên tắc chiến lược, quán triệt quan
điểm tổng hợp trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh phòng, chống
DBHB và CMM. Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là
một đặc trưng bản chất và là một ưu thế vượt trội để giành chiến
thắng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Nhờ
đó, chúng ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của các
lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên sthế giới, kết hợp chặt
chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó
khăn, thách thức và giành chiến thắng.