You are on page 1of 106

Chương 1

1: Nội dung cương lĩnh chính trị của Đảng 2/1930


b. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
* Nội dung của Cương lĩnh
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam: Đảng chủ trương
làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Với phương hướng chiến lược này, cách mạng Việt Nam phải trải hai
cuộc vận động: (1). Hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và giải quyết vấn
đề ruộng đất cho nông dân; (2). Đi tới xã hội cộng sản. Hai cuộc vận động này
liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau; cuộc vận động
trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi. Vì vậy,
giữa hai giai đoạn cách mạng này không có bức tường ngăn cách. Đó là đường
lối chính trị nhằm hướng vào giải quyết những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu
của một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến và định hướng phát triển theo nội
dung và xu thế của thời đại.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng: 3
nhiệm vụ chính:
+ Chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm
cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh và tổ
chức quân đội công nông.
+ Kinh tế: Quốc hữu hóa toàn bộ tài sản lớn của đế quốc Pháp (như công
trình giao thông, nhà máy, xí nghiệp, ngân hàng…) giao cho chính phủ Công
Nông Binh quản lý; Tịch thu toàn bộ ruộng đất của đế quốc làm của công và
chia cho dân cày nghèo; giảm sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công
nghiệp, nông nghiêp, thực hiện luật ngày làm 8 giờ.
+ Văn hoá, xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức (như tự do đi lại, hội
họp, ngôn luận, báo chí…); thực hiện nam nữ bình đẳng; phổ thông giáo dục
theo hướng công nông hoá.
Như vậy, cuộc cách mang có ba nhiêm vụ nhưng thực chất là giải quyết
hai vấn đề cơ bản của cách mang VN, đó là vấn đề chống đế quốc và chống
phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc là hàng đầu
- Lực lượng cách mạng:
+ Công nhân và nông dân là lực lượng đông đảo của cách mạng, trong đó,
Đảng phải vận động và thu phục được đông đảo công nhân làm cho giai cấp
công nhân lãnh đạo được dân chúng; Đảng phải thu phục được đông đảo nông
dân, dựa vững vào nông dân nghèo để lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất.
+ Đảng phải lôi kéo được tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi về phía
cách mạng; lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt
Nam… (nếu chưa lộ măt phản cách mạng). Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng thì phải đánh đổ (như Đảng Lập hiến…).
+ Trong khi liên minh với các giai cấp phải thận trọng, không đi vào con
đường thoả hiệp với kẻ thù.
- Lãnh đạo cách mạng: giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng đề ra
đường lối, chủ trương đúng đắn, nhằm giải phóng toàn thể dân tộc VN. “Đảng
có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì
thuyền mới chạy”. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động.
- Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế
giới. Đảng phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên
thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại.
* Ý nghĩa của Cương lĩnh:
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn, sáng tạo.
- Đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại mới, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập tự do là tư tưởng
cốt lõi của Cương lĩnh.
- Là ngọn cờ tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân đưa cách mạng
VN giành nhiều thắng lợi

2: Quy luật hình thành Đảng


1) Quy luật hình thành, phát triển Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công
nhân. Đảng Cộng sản bao gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động; đấu tranh triệt để và trung thành vì lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
a) Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân.

+) có áp bức giai cấp thì có đấu tranh giai cấp. Ngay từ khi mới ra đời giai cấp
công nhân đã tiến hành những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giai cấp
tư sản. Những cuộc đấu tranh ban đầu diễn ra lẻ tẻ và mang tính tự phát vì mục
đích kinh tế, do thiếu một lý luận cách mạng và một tổ chức tiên phong lãnh đạo
nên đều thất bại. Chính sự phát triển của phong trào công nhân đặt ra đòi hỏi
phải có lý luận tiên tiến dẫn đường để tổ chức, giáo dục, giác ngộ giai cấp công
nhân về sứ mệnh lịch sử của mình, để vạch cho giai cấp công nhân đường lối và
phương pháp cách mạng khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi
hỏi của phong trào công nhân.

+) Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào công nhân,
trở thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân. Mặt khác, thông
qua phong trào công nhân chủ nghĩa Mác được kiểm nghiệm, bổ sung, phát
triển và ngày càng hoàn thiện. c) khi chủ nghĩa Mác ra đời chỉ có một bộ phận
ưu tú nhất của giai cấp công nhân tiếp thu được nó. Bộ phận này đã tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, giáo dục, giác ngộ và tổ
chức công nhân đấu tranh, Đảng Cộng sản ra đời từ quá trình hoạt động cụ thể
ấy.

b) Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân; nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử,
được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể. Ở
nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

3: Luận cương chính trị tháng 10/1930


*Nội dung HNTW lần thứ nhất và Luận cương chánh trị của Đảng
Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng)
Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban chấp hành Trung ương họp hội nghị lần
thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc), do đồng chí Trần Phú chủ trì
- Nội dung hội nghị:
+ Quyết định đổi tên Đảng từ ĐCSVN thành Đảng CSĐD
+ Hội nghị đánh giá Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Hội nghị
hiệp nhất thông qua đã phạm sai lầm “rất nguy hiểm” vì “chỉ lo đến việc phản
đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu”, “đặt nhiệm vụ ruộng đất dựa bên
nhiệm vụ phản đế”. Vì thế, Hội nghị quyết định "thủ tiêu Chánh cương sách
lược và Điều lệ cũ của Đảng" và chỉ rõ: phải dựa và nghị quyết của Quốc tế
Cộng sản, chính sách và kế hoạch của Đảng “làm căn bổn mà chỉnh đốn nội bộ,
làm cho Đảng Bônsơvích hoá”.
+ Cử ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm tổng bí thư
- Nội dung Luận cương:
+ Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào
và Cao Miên là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một
bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
+ Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính
chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân
quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua
thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
+ Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để
đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tiền tư
bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược
đó có quan hệ khăng khít với nhau: “… có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá
được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá
tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương
nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ
sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
+ Lực lượng cách mạng: Giai cấp công nhân và nông dân là hai động chính
của cách mạng tư sản dân quyền.
+ Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho
quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng,
“Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và
giành lấy chánh quyền cho công nông”. Võ trang bạo động để giành chính
quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
+ Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định: “điều kiện cốt yếu cho
sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng sản có
một đường chánh trị đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”.
+ Đoàn kết quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó
với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết
liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa .
- Hạn chế của luận cương:
+ Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về
chiến lược cách mạng. Tuy nhiên, Luận cương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủ
yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất. Luận cương chỉ
nhìn thấy vai trò của công nhân và nông dân mà thấy được vai trò, tinh thần yêu
nước của các giai tầng khác trong xã hội, vì vậy không đề ra được một chiến
lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc
và tay sai. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về
thực tiễn cách mạng thuộc địa, chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn
mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản và một
số Đảng Cộng sản anh em trong thời gian đó.
+ Những hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
giai cấp và vấn đề dân tộc, giữa hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng
ruộng đất, cũng như trong việc tập hợp lực lượng cách mạng còn tiếp tục kéo
dài trong nhiều năm sau.

4: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945 và Đường lối


giai đoạn 1939 – 1945
a. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng (1939-1941)
* Bối cảnh lịch sử
+ Thế giới:
- Ngày 1/9/1939, Đức bất ngờ tấn công Ba lan. Ngày 3/9/1939, Anh và
Pháp tuyên chiến với Đức. Như vậy, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
- Tại nước Pháp, chính phủ Đalađiê (Daladier) thi hành một loạt biện pháp
đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
- Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Đờ Gôn (De Gaulle) bỏ
chạy. Chính phủ phản động Pêtanh (Pétain) lên cầm quyền. Tháng 6-1941, Đức
tiến công Liên Xô, chiến tranh lan rộng. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình
Dương bùng nổ. Quân Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và
Anh ở trên biển và trong đất liền, cuộc chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới.
+ Đông Dương :
Thực dân Pháp tăng cường bộ máy đàn áp, lệnh thiết quân luật được ban
bố. Ngày 28-9-1939 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cấm tuyên truyền
cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các
hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông
người…
- Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống
trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện chính sách “kinh tế chỉ
huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh
đế quốc.
- Tháng 9-1940, Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và
câu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân
dân Đông Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, mâu thuẫn dân tộc phát
triển sâu sắc, đòi hỏi cần phải giải quyết cấp bách. Vì vậy, Đảng chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược.
* Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
+ Thể hiện ở các văn kiện :
- Thông cáo của ĐCSĐD, ngày 29-9-1939, “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ
tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 6, họp tháng 11-1939, tại
Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định), do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
- Hội nghị Trung ương 7, tháng 11/ 1940, tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc
Ninh) do Đ/c Trường Chinh chủ trì.
- Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 5-1941,
ở Pắc Pó Cao Bằng, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
+ Nội dung chủ trương:
1. Đảng khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của CMVN là đúng đắn
và không thay đổi, lúc này Đảng chuyển hướng chiến lược đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến được thực
hiện từng bước phục vụ cho nhiệm vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
+ Hội nghị Trung ương 6 (11/1939):
Hội nghị đã phân tích tình hình và nhận định: “Bước đường sinh tồn của
các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh
đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để
giải phóng dân tộc”. Hội nghị quyết định chuyển hướng đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu.
Đối với nhiệm vụ chống phong kiến, hội nghị chủ trương tạm gác khẩu
hiệu “cách mạng ruộng đất” mà thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao,
chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc chia cho dân cày, nhằm tập hợp mọi lực lượng để giải phóng
dân tộc.
+ Hội nghị Trung ương 8 (5/1941)
Hội nghị khẳng định: Cách mạng ĐD lúc này không phải là cuộc cách
mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và thổ địa nữa, mà là một cuộc cách
mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp là “dân tộc giải phóng”. Hội nghị
quyết định tiếp tục chuyển hướng chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu. Nhưng vấn đề dân tộc phải được giải quyết trong khuôn khổ từng
nước Đông Dương, ba nước có thể hỗ trợ lẫn nhau nhưng không lệ thuộc vào
nhau.
Đối với nhiệm vụ chống phong kiến, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác
khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, mà thay bằng các khẩu hiệu, tịch thu ruộng
đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công
cho nông dân, giảm tô, giảm tức… nhằm tập hợp mọi lực lượng phục vụ cho
mục tiêu số 1 là giải phóng dân tộc.
2. Chủ trương thành lập MTDTTN nhằm tập hợp mọi lực lượng, phục
vụ cho nhệm vụ giải phóng dân tộc.
+ Hội nghị Trung ương 6 (11/1939): chủ trương thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế Đông Dương (thay cho mặt trận dân chủ ĐD), đoàn kết
tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương
để chống thực dân Pháp và tay sai giành độc lập cho dân tộc.
+ Hội nghị trung ương 8 (5/1941): từ việc khẳng định vấn đề dân tộc được
giải quyết trong khuôn khổ từng nước ĐD, hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi
nước Đông Dương một mặt trận riêng. Ở VN chủ trương thành lâp Hội
VNĐLĐM gọi tắt là Việt Minh, nòng cốt của mặt trận là các đoàn thể Cứu
quốc; Lào là Ai Lao độc lập đồng minh; Cawmpuchia là Cao Miên độc lập đồng
minh, nhằm đoàn kết mọi lực lượng, tranh thủ mọi lực lượng để GPDT.
3. Vấn đề khởi nghĩa vũ trang
Hội nghị Trung ương lần 7 (tháng 11-1940) quyết định đưa khởi nghĩa vũ
trang vào chương trình nghị sự. Hội nghị quyết định duy trì đội du kích Bắc
Sơn và chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ, vì chưa đủ điều kiện.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941), khẳng định chuẩn bị khởi nghĩa
vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.
Phải chuẩn bị về lực lượng chính trị, vũ trang, căn cứ địa cách mạng… để khi
thời cơ đến sẽ tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị đã đưa ra phương
châm khởi nghĩa, đi từ khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương thắng lợi,
tiến tới một cuộc tổng khởi nghĩa giàng chính quyền.
4. Mô hình nhà nước
+ Hội nghị Trung ương 6 chủ trương nếu cách mạng thành công sẽ thành
lập Liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương.
+ Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) khẳng định thi hành chính sách “dân tộc
tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật, các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ tổ
chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành lập một quốc gia
độc lập tùy ý. Đối với VN, hội nghị chủ trương: sau khi cách mạng thành công
sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ. Chọn
Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh.
+ Vấn đề xây dựng Đảng
Các hội nghị Trung ương của Đảng đều chú trọng công tác xây dựng Đảng
như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuẩn bị cho CMT8. Vì vậy, trong cách mạng
tháng Tám có 20.000 đảng viên và một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo tổng khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
* Ý nghĩa của chủ trương
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930, khẳng định lại đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Đó là
ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực
lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.

5: Tổng khởi nghĩa dành chính quyền


* Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:
- Điều kiện lịch sử:
+ Giữa tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Phát xít Đức
đầu hàng Đồng minh, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo quân Quan
Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném hai quả bon nguyên tử
xuống các thành phố Hirôsima và Nagazaki. Chính phủ Nhật đầu hàng Đồng
minh không điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần. Chính
quyền do Nhật dựng lên hoang mang cực độ. Thời cơ cách mạng xuất hiện.
+ Theo quyết định của Hội nghị Pốt xđam (Posdam, 7-1945), quân đội
Trung Hoa dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội của
Liên hiệp Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải giáp quân đội Nhật. Pháp toan tính,
với sự trợ giúp của Anh, sẽ phục hồi bộ máy cai trị cũ ở Nam Bộ và Nam Trung
Bộ. Trung Hoa dân quốc muốn có một chính quyền người Việt Nam từ Trung
Quốc kéo về ở miền Bắc.
+ Từ chỗ hợp tác với Việt Minh chống quân phiệt Nhật trong Chiến tranh
thế giới thứ hai, Chính phủ Mỹ không ngần ngại quay lưng lại phong trào giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Tại Hội nghị Ianta (2-1945), Tổng thống
Mỹ Rooseveld hoàn toàn “nhất trí với đề nghị chỉ để các thuộc địa dưới quyền
uỷ trị nếu “mẫu quốc” đồng ý. “Mẫu quốc” của Đông Dương không ai khác là
nước Pháp. Từ đó, Mỹ ngày càng nghiêng về phía Pháp, ủng hộ Pháp trở lại
xâm lược Đông Dương, nhất là sau khi Rooseveld qua đời (12-4-1945) và Harry
Truman bước vào Nhà Trắng. Mùa hè năm 1945, Mỹ cam kết với De Gaulle
rằng sẽ không cản trở việc Pháp phục hồi chủ quyền ở Đông Dương.
+ Trong khi đó, những thế lực chống cách mạng ở trong nước cũng tìm
cách thay thầy đổi chủ. Một số người trong Chính phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim
quay sang tìm kiếm sự trợ giúp của một số cường quốc, với hy vọng giữ chế độ
quân chủ. Tại cuộc họp ở cung điện Huế, ngày 17-8-1945, do Bảo Đại làm chủ
toạ, Trần Văn Chương đọc các bản dự thảo thông điệp của nhà Vua kêu gọi sự
giúp đỡ của các nước Mỹ, Anh, Trung Hoa dân quốc, và Pháp để “bảo vệ nền
độc lập giành được từ trong tay Nhật”.
- Chỉ đạo của Đảng
+ Nắm bắt được tình hình trên, ngày 12-8-1945, Ủy ban lâm thời khu giải
phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày,
Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi
nghĩa trong toàn quốc.
+ Ngày 14 và 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, tập
trung phân tích tình hình và dự đoán:
1. Nhận định: “Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le
khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương”.
2. Hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
3. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập!
Chính quyền nhân dân! Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là
tập trung, thống nhất và kịp thời.
4. Phương hướng hành động trong tổng khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay
những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị
phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi
đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng
minh vào, thành lập ủy ban nhân dân ở những nơi đã giành được quyền làm
chủ…
5. Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội
và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền.
- Ngày16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Đại hội có khoảng
60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu
quốc, các dân tộc, tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài tham
dự. Đại hội tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính
sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch.
- Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước:
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy ở cả thành
thị và nông thôn, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.
-Từ ngày 14 đến ngày 18-8-1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi
nghĩa, nhưng do nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng,
căn cứ vào tình hình thực tiễn, đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ động,
lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là
Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
-Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công
các đồn binh Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Yên Bái v.v… hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày
16-8-1945, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân
Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, ở hầu
hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách
mạng nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện.
-Tại Hà Nội, ngày 17-8, Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc mít tinh ủng
hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng
trong các tổ chức cứu quốc ở nội và ngoại thành biến cuộc mít tinh đó thành
cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh. Các đội viên tuyên truyền xung phong bất ngờ
giương cao cờ đỏ sao vàng, kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn
quần chúng dự mít tinh nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh. Cuộc
mít tinh biến thành một cuộc biểu tình tuần hành biểu dương lực lượng. Thành
ủy Hà Nội nhận định đã có đủ điều kiện để phát động tổng khởi nghĩa.
- Sáng ngày 19-8, tại thủ đô Hà Nội quần chúng cách mạng xuống đường
tập hợp thành đội ngũ, rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hát thành phố để dự
cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Ủy ban quân sự cách mạng
đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít tinh chuyển thành biểu
tình vũ trang. Trước khí thế áp đảo của quần chúng, hơn một vạn quân Nhật ở
Hà Nội không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội vang dội nhanh chóng đến nhiều
tỉnh và thành phố khác, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cả nước, làm cho chính
quyền tay sai của Nhật ở nhiều nơi thêm hoảng hốt, tạo điều kiện thuận lợi lớn
cho quá trình tổng khởi nghĩa.
-Ngày 23-8, Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế huy động quần chúng từ
các huyện đã giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với nhân dân trong
nội thành Huế xuống đường biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền và
quân đội Nhật hoàn toàn tê liệt. Quần chúng lần lượt chiếm các công sở không
vấp phải sức kháng cự nào.
- Ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An (tỉnh khởi nghĩa thí điểm của Xứ
ủy) đã giành được chính quyền, Xứ ủy Nam kỳ quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn
và các tỉnh. Đêm 24-8, các lực lượng khởi nghĩa với gậy tầm vông, giáo mác, từ
các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8, hơn 1 triệu người biểu
tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở. Cuộc khởi nghĩa
thành công nhanh chóng.
Những cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị đập tan các
cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong cả nước.
-Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban Dân
tộc giải phóng về đến Hà Nội. Sáng ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc
họp của Thường vụ Trung ương Đảng, thống nhất những chủ trương đối nội và
đối ngoại trong tình hình mới; đề nghị mở rộng hơn nữa thành phần của Chính
phủ lâm thời, chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội
để Chính phủ ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố
quyền độc lập và thiết lập chế độ dân chủ cộng hoà.
- Trong cuộc họp ngày 27-8-1945, Ủy ban dân tộc giải phóng cải tổ thành
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch. Một số thành viên là người của mặt trận Việt Minh tự nguyện rút khỏi
Chính phủ, trong đó có Tổng Bí thư Trường Chinh, để mời thêm nhân sĩ ngoài
Việt Minh tham gia.
- Ngày 30-8-1945, tại cuộc mít tinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ
Môn, thành phố Huế, Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Tuyên cáo của Hoàng
đé Việt Nam thoái vị, Bảo Đại nói, “sau hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc đã biết
bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay… lấy làm vui được làm dân tự do của một
nước độc lập”.
Trong tình hình hết sức khẩn trương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng,
Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định sớm tổ chức lễ Tuyên
bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mọi công việc việc chuẩn bị
được tiến hành tại một căn phòng trên gác nhà số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội.
Hồ Chí Minh đã thực hiện trách nhiệm lịch sử trọng đại là soạn thảo bản Tuyên
ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới. Để phát huy trí tuệ tập thể, ngày 30-8-
1945, Hồ Chí Minh mời một số cán bộ trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng
và các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời đến trao đổi, góp ý kiến cho bản
dự thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba
Đình. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế
giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Bản tuyên ngôn nêu rõ:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một
nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng lớn và ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó là thiên anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng, chứa
chan sức mạnh và niềm tin, tràn đầy lòng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân
Việt Nam trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do.
4. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
*Tính chất:
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc điển hình, thể hiện ở nhiệm vụ, lực lượng và thành quả của cách mạng.
Thứ nhất, tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải
phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai.
Thứ hai, lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ
trong mặt trận Việt Minh. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự
vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc.
Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo
chủ trương của Đảng, với hình thức cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế
quốc và những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống trên giải đất Việt Nam
đều thảy được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ
giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”.
- Cách mạng tháng Tám năm còn có tính chất dân chủ mới, thể hiện cụ thể
như sau:
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe
dân chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít Nhật và bọn tay sai phản động,
và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến
bộ trên thế giới chống phát xít xâm lược”.
Thứ hai, cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực
lượng đông đảo nhất trong dân tộc. Do Cách mạng tháng Tám, một phần ruộng
đất của đế quốc và Việt gian đã bị tịch thu, địa tô dược tuyên bố giảm 25%, một
số nợ lưu cữu được xoá bỏ.
Tuy nhiên, Cách mạng Tháng Tám “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa
thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng”, “chưa xoá bỏ chế độ phong kiến
chiếm hữu ruộng đất, chưa xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến
để cho công nghiệp có điều kiện phát triển mạnh... quan hệ giữa địa chủ và nông
dân nói chung vẫn như cũ. Chính vì thế Cách mạng tháng Tám có tính chất dân
chủ, nhưng tính chất đó chưa được đầy đủ và sâu sắc”.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng mang tính
nhân văn rất sâu sắc, hoàn thành một bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải
phóng con người ở Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về
mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
*Ý nghĩa:
- Đối với Việt Nam, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích
nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế
độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn
đề cơ bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận
nô lệ bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của
mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có
chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục
tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp
pháp trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và nhân dân Việt Nam có
chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới CNXH.
-Về mặt quốc tế, Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu
quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy
sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc
Việt Nam mà còn là là chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu
tranh vì độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng
đắn, sáng tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng
tỏ rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo
hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công
nhân ở “chính quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
và kinh nghiệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.
Kinh nghiệm:
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam
nhiều kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách
mạng ruộng đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực
hiện từng bước thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng( quan trọng): Trên cơ sở khối liên minh
công nông, cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp
mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là
một điển hình thành công của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận
địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật cứu nước,
tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách
mạng của quần chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh
du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, tiến lên chớp đúng thời cơ,
phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị.
Thứ tư, về xây dựng Đảng(quan trọng): Phải xây dựng một Đảng cách
mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc; vận dụng và
phát triển lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối chính trị
đúng đắn, một đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt
chẽ với quần chúng.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân đưa lịch sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại
trong quá trình tiến hoá của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi
ra đời, dù phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, với tinh thần đoàn kết phấn đấu của toàn dân, luôn được xây dựng và
củng cố, vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Chương 2

1: Kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược 1946-1954


I. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược
1946-1954
a. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
*. Điều kiện lịch sử
- Sau Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam có những thuận lợi như, đất nước
giành được độc lập, nhà nước VNDCCH mới ra đời, nhân dân từ nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước… Bên cạnh đó, nước ta đối mặt với vô vàn khó khăn:
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đã đưa vận mệnh dân tộc trở nên ngàn cân
treo sợi tóc. Tuy nhiên, thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Bác đã đưa
đất nước ta thoát khỏi tình thế hiểm nghèo.
- Đối với Pháp ta đã nhân nhượng khi kí hiệp định 6/3, tạm ước 14/9, đàm
phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội nghị Phôngtenơblô, nhưng thực
dân Pháp ngày càng bộ lộ dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa.
- Dã tâm của Pháp đã thực hiện bằng những hành động: tháng 11/1946,
Pháp cho quân đổ bộ chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Đà Nẵng… Tháng 12/1946,
Pháp ngang nhiên chiếm Bộ Tài Chính, Bộ Giao thông công chính, ngang nhiên
bắn chết bộ đội, công an của ta. Đặc biệt, 17-18/12/1946, Pháp gây ra vụ tàn sát
đẫm máu ở phố Yên Ninh-Hàng Bún, Hà Nội làm hàng tram đồng bào vô tội bị
giết. 20 giờ ngày 18/12/1946, đại diện của Pháp đã gửi tối hậu thư cho chính
phủ ta, yêu cầu phải giải tán lực lượng vũ trang và trao quyền kiểm soát Hà Nội
cho chúng.
- Như vậy, chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới. Dân
tộc VN đứng trước hai sự lựa chọn, một là tự do; hai là, quay trở lại cuộc đời nô
lệ. Ngày 18-12-1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng)
họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội)
đã đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình hình, kịp thời đề ra chủ trương đối
phó và quyết định phát động toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm
lược Pháp xâm lược. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết
kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập, tự do: “Chúng ta muốn hòa bình,
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân càng
lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
* Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng
- Thể hiện qua các văn kiện:
+ Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng 12/1946
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch HCM ngày 19/12/1946
+ Phân tích trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của tổng bí
thư Trường Chinh (3/1947)
- Nội dung cơ bản:
+ Mục đích của kháng chiến là "đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;
giành thống nhất và độc lập”, mang lại hạnh phúc tự do cho nhân dân, bảo vệ
thành quả của CMT8, góp phần bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới.
+ Tính chất của cuộc kháng chiến:
++ Tính chất GPDT: cuộc kháng chiến chống Pháp là kế tục sự nghiệp
cách mạng Tháng Tám, nhằm giải phóng dân tộc Việt Nam ra khỏi ách thống trị
của thực dân Pháp và tay sai nên cuộc kháng chiến mang tính chất GPDT.
++ Dân chủ mới: đó là xây dựng, củng cố chế độ dân chủ cộng hòa và tiếp
tục thực hiện chính sách ruộng đất đối với nông dân, trên nền tảng chế độ dân
chủ nhân dân, vì vậy mang tính chất dân chủ mới.
+ Đường lối kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân,
toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
++ Kháng chiến toàn dân
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định: cách mạng phải là sự
nghiệp của toàn dân, cách mạng mà lôi kéo được đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia sẽ giành được thắng lợi. HCM cũng khẳng định: Dễ mười lần
không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong. Như vậy, dân là gốc của
thắng lợi.
Thực tiễn hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm của VN đã chứng minh
một chân lý rằng: “Chở thuyền là dân, lật thuyền mới biết sức dân như nước”.
nghĩa là, Bất cứ cuộc chiến tranh nào mà đoàn kết được toàn dân sẽ giành được
thắng lợi.
Xuất phát từ lý luận và thực tiến trên, Đảng chủ trương: Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, chính kiến, đảng phái…
Hễ ai là người VN phải đứng lên đánh giặc cứu nước, ai có súng dùng súng, có
gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc, thuổng, gậy gộc… Mỗi người
dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháp đài, đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược.
Kháng chiến toàn dân nhằm huy động nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực,
tạo nên sức mạnh dân tộc, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
++ Kháng chiến toàn diện
Xuất phát từ viêc Pháp âm mưu xâm lược và thống trị Việt Nam trên mọi
lĩnh vực, nên để đánh Pháp thắng lợi, phải đánh Pháp trên tất cả các mặt trận.
Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, quân sự, ngoại giao:
+ Chính trị: Xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, đoàn kết chính
quyền, quân đội và nhân dân, liên minh ba nước Đông Dương đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược.
+ Kinh tế: Xây dựng nền kinh tế tự cấp, tự túc; phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công nghiệp quốc phòng; phát động
phong trào “Tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”, đáp ứng cho chiến trường.
Bên cạnh đó thực hiện phá hoại kinh tế của địch, không cho chúng thực âm mưu
lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh.
+ Văn hóa: xó bỏ nền văn hóa nô dịch ngu dân của Pháp, xây dựng nền
văn hóa mới với ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Thực hiện “Văn
hóa là một mặt trận mà người nghệ sĩ trên mặt trận ấy là một chiến sĩ”.
+ Quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ). Thực hiện du
kích chiến, tiến lên chiến tranh chính quy nhằm tiêu diệt địch, giải phóng nhân
dân và đất đai. Vừa đánh vừa bồi dưỡng, xây dựng lực lượng…
+ Ngoại giao: Thực hiện “thêm bạn bớt thù”, đoàn kết với tất cả các dân
tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, với các nước XHCN anh em, với nhân
dân tiến bộ Pháp… kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Kháng chiến toàn diện nhằm huy động sức mạnh tổng hợp góp phần đưa
cuôc kháng chiến đến thắng lợi.
++ Kháng chiến lâu dài
Xuất phát từ tương quan so sánh tương quan lực lượng của ta và địch quá
chênh lệch, Pháp mạnh hơn ta rất nhiều, đó là một quân đội nhà nghề, có trang
bị vũ khí hiện đại, lại có sự hậu thuẫn của các nước đế quốc. Âm mưu của Pháp
là “đánh nhanh thắng nhanh” để kết thúc chiến tranh. Còn Việt Nam, quân đội
mới được thành lập, còn non trẻ, vũ khí thô sơ. Vì vậy, Đảng phải tiến hành
kháng chiến lâu dài.
Kháng chiến lâu dài nhằm từng bước làm thay đổi tương quan so sánh lưc
lượng có lợi cho ta, biến yếu thành mạnh; phát huy thiên thời địa lợi nhân hòa
tiêu diêt địch. Nguyên tắc là lâu dài nhưng nếu thời cơ đến sẽ mở các cuộc tiến
công để kết thúc chiến tranh. Khẩu hiệu là “Trường kỳ, kháng chiến, nhất định,
thắng lợi”.
++ Dựa vào sức mình là chính
VN tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp trong điều kiện bị bao vây từ
bốn phía, vì vậy Đảng chủ trương dựa vào sức mình là chính. Dựa vào sức mình
là chính nghĩa là tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, nhưng không trông chờ ỷ lại
vào bên ngoài.
Dựa vào sức mình là chính nhằm chủ động huy động sức người, sức của
lâu dài cho cuộc kháng chiến, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân
yêu chuộng hòa bình thế giới, nhân dân tiến bộ Pháp, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
* Ý nghĩa đường lối kháng chiến chống Pháp
 Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư
tưởng quân sự truyền thống của cha ông ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm quân sự một số nước anh
em vào điều kiện Việt Nam.
 Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối đấu tranh nhân dân, toàn
dân đánh giặc, tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc
 Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chứng minh sự tài
tình của việc hoạch định đường lối, cũng như tổ chức chỉ đạo kháng chiến của
Đảng. Với chiến thắng Điện Biên Phủ – kháng chiến chống thực dân Pháp kết
thúc thắng lợi cho thấy Đảng đạt tầm cao tư tưởng và trí tuệ Việt Nam, cũng
như thời đại.

2: Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng (9/1960)
* Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng (9/1960)
- Bối cảnh lịch sử:
Thế giới
Từ năm 1960 trở đi, do tình hình quốc tế có những biến động phức tạp,
mâu thuẫn Xô - Trung ngày càng căng thẳng. Trong phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế, giữa các nước XHCN đang có những mâu thuẫn, bất đồng
sâu sắc. Sự kiện đó đã tác động không tốt đến sự đoàn kết nhất trí trong phong
trào Cộng sản và công nhân quốc tế, trong hệ thống CNXH, tạo điều kiện cho
CNĐQ phá hoại phong trào cách mạng thế giới, ảnh hưởng tiêu cực đến cách
mạng nước ta. Trong bối cảnh phúc tạp, Đảng với đường lối đối ngoại khéo léo,
thận trọng và linh hoạt, nhằm tránh gây căng thẳng giữa Liên Xô, Trung Quốc,
củng cố tình đoàn kết trong các nước XHCN, thu hẹp những bất đồng giữa các
nước anh em, tiếp tục tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN khác cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Những năm 1959-1960, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á,
châu Phi, Châu Mỹ la tinh phát triển mạnh mẽ. Năm 1960 đã có 17 nước châu Phi
tuyên bố độc lập và đây là năm đi vào lịch sử với tên gọi “Năm châu Phi”. Bằng việc
công nhận nền độc lập của hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ latinh, các nước đế quốc
phương Tây bắt buộc phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn
thế giới. Nhìn chung, thời kỳ này cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Đó là nhân
tố quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam. Tuy nhiên, một số nước khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng
chính trị - xã hội khác, thậm chí nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con
đường cai trị của thực dân phương Tây, không ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Trước
thực tiễn đó, ĐCSVN vừa ủng hộ chính sách hoà bình trung lập để tập hợp lực
lượng tiến bộ thế giới, vừa phải lôi kéo, vận động, tranh thủ các lực lượng khác nhau
cho cuộc đấu tranh của dân tộc mình. Chính sách tăng cường đoàn kết với các nước
Á - Phi đấu tranh vì độc lập dân tộc của Đảng đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng
hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế rộng lớn đối với sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta.
Đối với Lào và Campuchia, Đảng chủ trương không ngừng tăng cường
hợp tác hữu nghị, xây dựng liên minh chiến đấu và giúp đỡ các nước bạn trên
tinh thần quốc tế trong sáng. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt
từ năm 1960 trở đi, miền Bắc không chỉ là hậu phương chiến lược của cách
mạng miền Nam mà còn là hậu phương của cách mạng Lào và Campuchia.
Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta luôn nhận được
sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân hai nước Đông Dương anh em.
Trong nước
Sau khi đất nước bị chia cắt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã
giành được những thắng lợi căn bản trong công cuộc cải cách ruộng đất, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ; khôi phục kinh tế; cải tạo XHCN và bước đầu
phát triển kinh tế, văn hoá, từng bước đưa miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng
CNXH nhằm củng cố miền Bắc vững mạnh để chi viện cho miền Nam. Trong khi đó ở
miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Nam đã đánh bại hoàn toàn
chiến lược chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai., đưa cách
mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
- Nội dung Đại hội III của Đảng
Tháng 9- 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong
diễn văn khai mạc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đại hội lần này là Đại hội xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng
trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
+ Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình
hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau ở hai miền:
Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc
và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể
riêng, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam,
hòa bình, thống nhất đất nước.
+ Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi
miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây
dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền
Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
+ Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững
đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn
sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra
chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết
đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
+ Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm
thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước
ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu
dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối
cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.
+ Về xây dựng chủ nghĩa xã hội
Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó
là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa
và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa
trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa
trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được
xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai
mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến
hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư
tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã
hội chủ nghĩa.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy
truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố
miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân
dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực
hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiến phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật,
biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiến tiến.
Hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội khóa III
là nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự
kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thành công lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh
đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,
đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước
mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đó
chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa
phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước
Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp được
sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba
dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả
Liên Xô và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ
sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc đó, đường lối chung của Đảng
còn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong việc giải
quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam
vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
3: Thành tựu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954
– 1975
Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm
Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng, bảo vệ miền Bắc
Thành tựu
- Đảng đã luôn luôn trung thành và vận dụng đúng đắn những nguyên lý về
xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tế. Tùy theo từng
giai đoạn, Đảng đã có các chủ trương và sự chỉ đạo năng động, sát đúng, đáp
ứng kịp thời yêu cầu của miền Bắc, đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
từng bước vượt qua khó khăn đi lên giành những thắng lợi quan trọng.
- Đảng đã động viên, đoàn kết, tổ chức nhân dân miền Bắc kiên trì phấn
đấu hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, thu được nhiều thành
tựu đáng tự hào. Miền Bắc đã căn bản xóa bỏ được chế độ người bóc lột
người; hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, thúc đẩy sản xuất phát triển;
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng bước đầu; văn hóa, xã hội
lành mạnh, ưu việt; hệ thống chính trị được củng cố vững mạnh; không có
nạn đói, dịch bệnh dù chiến tranh ác liệt, kéo dài; quan hệ quốc tế mở rộng,
tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của thế giới,… Những thành tựu đó tuy
còn nhỏ bé, còn xa với những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nhưng đặt vào
hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thì có giá trị thật lớn lao..
- Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng được xây dựng, cùng với việc tiếp
thu và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, miền Bắc chẳng những đứng
vững trong chiến tranh, mà còn đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng
kỹ thuật và phương tiện hiện đại nhất của đế quốc Mỹ. Qua hai lần chống chiến
tranh phá hoại, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay trong đó có nhiều
B52, bắn cháy 271 tầu chiến, bắt hàng trăm giặc lái Mỹ.
- Song song với những thành tựu đó, miền Bắc còn hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành nghĩa
vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.
Hạn chế:
- Việc tổ chức thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề
ra có nhiều vấn đề chưa kịp thời cụ thể hoá và vận dụng tốt vào các kế hoạch
phát triển kinh tế, văn hoá..., chưa nắm vững và giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa xây dựng quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất.
- Chủ quan, duy ý chí, giáo điều trong chỉ đạo cải cách ruộng đất, cải tạo
xã hội chủ nghĩa, tiến hành công nghiệp hoá, hợp tác hóa...
- Trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế trung ương và kinh
tế địa phương, chưa chú ý phát triển đúng mức kinh tế địa phương.
- Bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện kém năng lực, pháp chế xã hội chủ
nghĩa còn lỏng lẻo.
- Trong lĩnh vực lưu thông, phân phối, tài chính, ngân hàng, giá cả, tiền
lương... có những nhận thức và thực hiện không đúng, làm cản trở việc đẩy
mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.
Kinh nghiệm:
Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ở miền Bắc
thời kỳ 1954-1975, cả ưu điểm và hạn chế, có thế rút ra một số kinh nghiệm lớn:
Thứ nhất, nắm vững đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, phát huy tư duy độc lập trong xác định đường lối chung của
cách mạng cả nước và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Thứ hai, xác định đúng nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa
của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chỉ đạo chuyển
hướng xây dựng miền Bắc chính xác, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử.
Thứ ba, có hình thức, bước đi, cách làm phù hợp với thực tế miền Bắc, kết
hợp sự nỗ lực của miền Bắc với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng, bảo vệ miền
Bắc với chi viện tiền tuyến miền Nam, giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước
Ý nghĩa lịch sử đối với Việt Nam:
- Đã kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược
(tính từ năm 1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 115 năm
chống đế quốc (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược, đưa lại độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
- Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên
phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa
bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đã tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và
dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.
- Để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp
dựng nước và giữ nước lâu dài về sau.
Về mặt quốc tế:
- Đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa
xã hội và cách mạng thế giới, bảo vệ được tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ
nghĩa xã hội, mở rộng địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
- Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của
chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội
tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài.
- Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến
quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh
khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và
hòa bình thế giới.
Nguyên nhân thắng lợi
- Là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại
biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một
Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng
tạo.
- Là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân
đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu
nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu
“Thành đồng Tổ quốc”.
- Là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của
đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất
sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn
miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước
xã hội chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.
Kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy
động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi
nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng
hợp….
Ba là, trên cơ sở sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng
phải có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi ủy
quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn.
Bốn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng
cách mạng ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
Tuy nhiên, trong một số thời điểm mang tính bước ngoặt của chiến tranh,
tình huống chiến lược chuyển giai đoạn (thường là sau những thắng lợi lớn), sự
lãnh đạo của Đảng còn biểu hiện nôn nóng, chủ quan, chưa đánh giá thật đúng,
thật sát tình hình, so sánh lực lượng trên chiến trường, nên đã đưa ra các quyết
định chiến lược chưa phù hợp với tình hình thực tế, làm cho cách mạng gặp khó
khăn, tổn thất.

Chương 3
1: Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
khoá IV (8-1979)
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá IV (8-1979)
lúc đầu định bàn về kinh tế địa phương và sản xuất hàng tiêu dùng, nhưng sau
đã chuyển sang bàn về những vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách có liên quan đến
đường lối và chính sách kinh tế-xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế-xã hội của đất nước, Hội
nghị cho rằng nguyên nhân của tình hình khó khăn về kinh tế là do việc xây
dựng kế hoạch kinh tế thiếu căn cứ khoa học; chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch
hoá với thị trường; chưa chú ý tăng trưởng kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể
và chưa sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; có những biểu hiện nóng
vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Từ đó, Hội
nghị đã quyết định những chủ trương và giải pháp mới, mạnh dạn và sáng tạo,
sát hợp với yêu cầu cấp bách của đời sống kinh tế.
Hội nghị xác định phải coi nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là động viên
cao độ và tổ chức toàn dân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp nhằm
đảm bảo lương thực, thực phẩm, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tăng
nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đó, cần ban hành những
chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp như: ổn định mức nghĩa vụ
lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước theo giá thoả thuận
hoặc được tự do lưu thông; khuyến khích việc tận dụng đất canh tác còn bỏ
hoang hoá; ổn định mức bán thịt lợn, phần còn lại bán giá thoả thuận cho Nhà
nước hoặc tự do lưu thông; sửa đổi lại giá lương thực và các loại nông sản khác;
bỏ lối phân phối theo định xuất, bảo đảm phân phối theo lao động coi đó là
nguyên tắc phân phối chủ yếu. Đối với các xí nghiệp, cần đảm bảo quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính. Việc xây dựng kế hoạch
phải tính đến yếu tố thị trường, và sự tồn tại của thị trường tự do là tất yếu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa
+ Hội nghị cho rằng: phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh và tập thể để phát triển sản xuất; phải tuỳ từng ngành nghề, từng mặt
hàng và xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ
chức sản xuất cho thích hợp. Hội nghị còn chỉ rõ, cái gì hợp tác xã đã làm tốt thì
không vội vàng thay thế bằng quốc doanh. Đối với cá thể, kể cả sản xuất, sửa
chữa và dịch vụ, xét sản phẩm nào, công việc nào cá thể hiện đang làm tốt, phục
vụ tốt thì giúp cá thể tiếp tục làm, một số mặt hàng hiện do quốc doanh phụ
trách sản xuất, nay nếu xét để cho tiểu, thủ công nghiệp và tư bản tư nhân sản
xuất có điều kiện phát triển thuận lợi hơn thì cần mạnh dạn giao lại cho tiểu, thủ
công và tư nhân làm.
+ Đối với công nghiệp tư bản chủ nghĩa ở miền Nam, phải uốn nắn những
nhận thức lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về sự tồn tại các thành
phần kinh tế để tận dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý
nhằm phát triển sản xuất.
+ Đối với công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, Hội nghị
xác định: phải nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, hiện nay phải
nhấn mạnh vững chắc; chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép, mệnh
lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Tư tưởng nổi bật của Hội nghị Trung ương sáu là “làm cho sản xuất bung
ra”, nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế,
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế,
phá bỏ những rào cản để cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là bước đột phá
đầu tiên trong quá trình tìm tòi, đổi mới của Đảng ta. Nghị quyết ra đời được
nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bước đầu đã xuất hiện những điển hình về
cách làm ăn mới phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên những giải pháp Hội
nghị Trung ương 6 nêu ra chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn. Sau một thời gian thực
hiện lại xuất hiện những khó khăn mới: Sản xuất bung ra nhưng không đúng
hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả ngày càng cao.
- Thực hiện chủ trương của Hội nghị trung ương 6, tháng 10-1979, Hội
đồng Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát ngăn sông
cấm chợ. Người sản xuất có quyền đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường
không phải nộp thuế sau khi làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Được sự quan
tâm của Nhà nước trong đầu tư phát triển nông nghiệp và cố gắng của nhân dân,
năm 1979 sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978.
- Trước hiện tượng “khoán chui” ở một số các hợp tác xã nông nghiệp của
các tỉnh, ngày 22-6-1980, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 22, cho
phép các địa phương mở rộng thí điểm khoán sản phẩm và khoán việc đối với
cây lúa trong các hợp tác xã nông nghiệp.
2: Chỉ thị số 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo tinh thần của Chỉ thị
này, mỗi xã viên nhận mức khoán trên một diện tích nhất định và tự mình làm 3
khâu, cày cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm
nhiệm. Nếu thu hoạch vượt mức khoán thì xã viên được hưởng. Phương hướng
chủ yếu trong cải tiến khoán là khuyến khích lợi ích chính đáng của người lao
động làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất và quản lý
hợp tác xã đều gắn với sản phẩm cuối cùng.
Chỉ thị ra đời được nhân dân cả nước đón nhận. Chưa có hình thức kinh tế
nào khi xuất hiện lại được nhiều người bàn luận sôi nổi và được mở rộng nhanh
chóng, biến thành một phong trào quần chúng sâu rộng, thu hút hàng triệu nông
dân, không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn mà còn mở ra triển vọng tốt đẹp
cho việc cải tiến quản lý nông nghiệp như Chỉ thị 100.
Với hình thức khoán ấy, tuy còn ở trình độ thấp nhưng đã tạo nên không
khí phấn khởi trong nông dân. Nhiều hiện tượng tiêu cực, lãng phí ngày công đã
từng tồn tại từ nhiều năm trong các hợp tác xã nông nghiệp thì chỉ trong một vụ
đông xuân (1981-1982) áp dụng cách khoán mới đã giảm nhiều, theo đó sản
xuất nông nghiệp ở nước ta trong thời kỳ 1981-1985 đã có những bước tiến
đáng kể. Nếu so với mức bình quân hàng năm của thời kỳ trước đó 1976-1980
là 1,9% thì tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp trong thời kỳ 1981-1985 là
4,9%, sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức tăng bình quân
hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn
trong thời kỳ 1981-1985. Diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 62,1%; đàn
bò tăng 33,2%; đàn lợn tăng 22%; lương thực cung cấp cho Nhà nước tăng 2
lần.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, trên cơ sở tổng kết các hiện tượng “xé rào” và
làm thí điểm nhằm phát triển công nghiệp, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh và
Long An, ngày 21-1-1981

3: Quyết định 25-26 (1981)


Chính phủ đã ban hành Quyết định 25-CP về quyền chủ động sản xuất
kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh.
Quyết định nêu rõ: Cần lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dụng đúng đắn
quan hệ hàng hoá, thị trường, kinh doanh có lãi; cho phép các xí nghiệp quốc
doanh có nhiều nguồn cân đối và kế hoạch ba phần (phần Nhà nước giao, phần
tự làm, phần sản xuất phụ). Cùng ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ ban
hành Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương
sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh
doanh của Nhà nước. Những chủ trương chính sách nêu trên giúp cơ sở tự giải
quyết một phần khó khăn, góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước. Năm 1981,
lần đầu tiên sau chiến tranh sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công
nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
- Trên mặt trận phân phối lưu thông, ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết 26/NQ-TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Đây là lĩnh
vực rất nóng bỏng trong đời sống kinh tế-xã hội ở nước ta thời đó. Nghị quyết
đã đề ra mục tiêu, biện pháp và các bước cụ thể của việc cải tiến công tác phân
phối lưu thông. Tuy nhiên, hạn chế của Nghị quyết là chủ trương khuyến khích
sản xuất trước (bước 1) rồi trên cơ sở sản xuất phát triển mới cải tiến công tác
phân phối lưu thông (bước 2 và 3). Trong khi thực tiễn lại yêu cầu phải cải tiến
ngay công tác phân phối lưu thông để phát triển sản xuất. Vì thế, tình hình phân
phối lưu thông sau Nghị quyết 26 vẫn chưa có chuyển biến đáng kể.
- Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trên lĩnh vực kinh tế-xã
hội, Đảng còn quan tâm kiện toàn bộ máy Nhà nước và tăng cường công tác xây
dựng Đảng.
Những tìm tòi, đổi mới từng phần từ 1979-1981 được xuất phát từ thực tế
cuộc sống, dựa trên những sáng tạo của nhân dân, của địa phương. Đó là những
giải pháp tình thế, hướng vào giải quyết những khó khăn trước mắt về đời sống
kinh tế, xã hội. Những ý tưởng ban đầu của đổi mới tuy còn sơ khai, chưa cơ
bản và toàn diện, nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên
cho quá trình đổi mới toàn diện sau này. Những đổi mới từng phần nêu trên
chưa đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra vì nó vẫn nằm trong bối
cảnh chung là mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, tư duy về kinh tế tập trung, quan
liêu bao cấp cơ bản còn tồn tại. Thực tiễn đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tìm tòi đổi
mới.
Như vậy, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV và các Hội nghị Trung
ương sau đó, trong những năm 1976-1979, Đảng đã lãnh đạo nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt những thành tựu quan
trọng, đó là:
+ Trên mặt trận kinh tế, chúng ta đã ra sức phấn đấu khắc phục những hậu
quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai liên tiếp gây ra. Những cơ sở
nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị giặc đánh phá về cơ bản đã
được khôi phục; sản xuất trên một số mặt phát triển. Lao động xã hội bước đầu
được phân bố lại. Nhờ những cố gắng liên tục trên mặt trận sản xuất lương thực,
thực phẩm, những vùng bị thiên tai nặng nề đã vượt qua được nạn đói. Mức
sống của các tầng lớp lao động tuy còn thấp, song đời sống nhiều vùng nông
thôn đã có những mặt được cải thiện.
+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, đối với các tỉnh phía Nam, thực hiện chủ
trương: Xóa bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và những tàn
tích bóc lột phong kiến; quốc hữu hóa những cơ sở công thương nghiệp của tư
sản mại bản, bọn phản quốc và bọn tư sản chạy ra nước ngoài; tiến hành cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với tư bản tư doanh; hợp tác hóa nông nghiệp, tổ chức lại
thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ… Xây dựng kinh tế quốc doanh lớn
mạnh nhanh chóng, chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu thông, phân phối. Đối
với xí nghiệp tư bản tư doanh, phải cải tạo xã hội chủ nghĩa chủ yếu bằng con
đường công tư hợp doanh… Xóa bỏ ngay thương nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất… Kết quả cải tạo công nghiệp tư
bản tư doanh, đã cải tạo được 3.452 cơ sở trong tổng số 3.560 với các hình thức
xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác gia công. Đối với
thủ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, đã tổ chức được 4.000 tổ đoàn kết sản
xuất, 5.000 tổ hợp tác sản xuất, 500 hợp tác xã thu hút 70% lao động chuyên
nghiệp vào các tổ chức sản xuất tập thể. Đối với thương nghiệp, chúng ta đã
chuyển gần 5.000 tư sản và 9 vạn tiểu thương hoạt động trong lĩnh vực thương
nghiệp sang hoạt động sản xuất, trong thời gian cải tạo số tiểu thương kinh
doanh lương thực và nông sản lại phát triển thêm 10 vạn người. Qua cải tạo
công thương nghiệp, nhà nước đã thâu tóm được các ngành kinh tế quan trọng.
Kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh chiếm vị trí chủ đạo trong hầu hết các
ngành và lĩnh vực sản xuất như: năng lượng (100%); bia rượu, thuốc lá (100%);
mía đường (45%); dệt (60%); sản xuất giống (100%); sản xuất xà phòng (80%)

+ Trong việc cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất trong
nông nghiệp đối với các tỉnh miền Bắc. Thực hiện chủ trương đưa nông nghiệp
lên sản xuất lớn mà Đảng đã đề ra, các hợp tác xã đã mở rộng quy mô, tổ chức
theo hướng tập trung, chuyên môn hoá và cơ giới hoá. Tính đến năm 1979 toàn
miền Bắc có 4.154 hợp tác xã quy mô toàn xã; một số địa phương hợp nhất 2-3
hợp tác xã thành một hợp tác xã quy mô trên 1.000 hécta. Trong các hợp tác xã
lập ra các đội chuyên, bao gồm những người lao động trẻ khỏe, làm việc theo
chế độ khoán việc dưới sự điều động của ban quản trị hợp tác xã, số lao động
còn lại làm việc trong các đội cơ bản theo chế độ 3 khoán.
+ Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế Việt Nam đứng trước
nhiều khó khăn gay gắt. Mô hình hợp tác xã quy mô lớn tập trung ở miền Bắc
thời điểm đó không phù hợp nên nhanh chóng bộc lộ những nhược điểm: ruộng
đất bị bỏ hoang, xã viên không thiết tha với ruộng đồng, các ngành nghề làm ăn
thua lỗ, thu nhập của xã viên ngày càng thấp. Từ cuối năm 1979, ở một số địa
phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “khoán chui”. Ở miền Nam, tình hình
ruộng đất rất phức tạp, việc làm thí điểm hợp tác xã ở miền Trung và Tây
Nguyên diễn ra thuận lợi, nhưng thiếu vững chắc, ở Nam Bộ diễn ra phức tạp và
lúng túng, sản xuất nông nghiệp có chiều hướng suy giảm.
+ Trên phạm vi cả nước, từ năm 1976 đến năm 1979, đầu tư của nhà nước
cho nông nghiệp không ngừng tăng, nhưng năng suất và sản lượng lương thực
lại giảm đến mức thấp nhất. Từ 1976 đến đầu năm 1980, đầu tư của Nhà nước
cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng 19% đến 36%, nhưng năng suất lại giảm: 1976
là 22,3 tạ/ha; 1977 là 19,4 tạ/ha; 1978 là 17,5 tạ/ha; 1979 là 20,1 tạ/ha. Nhà
nước đã phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn. Về phát triển công nhiệp, tốc
độ tăng bình quân hàng năm là 0,6%, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân
1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%, trong khi dân số tăng 2,24%.
Đặc biệt, từ cuối năm 1979, đất nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội:
sản xuất trì trệ, năng suất, chất lượng hiệu quả thấp; giá cả tăng vọt, đồng tiền
mất giá; đời sống nhân dân nhất là cán bộ, viên chức Nhà nước, lực lượng vũ
trang rất khó khăn.
Tình hình nêu trên đặt ra yêu cầu tất yếu đối với Đảng ta là phải tìm tòi đổi
mới, khắc phục những sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước tiến lên theo mục tiêu
con đường đã chọn. Từ năm 1979 đến tháng 8 năm 1986 là thời kỳ đổi mới từng
phần, có vị trí rất quan trọng đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt
Nam.

4: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982)
- Đại hội lần thứ V của Đảng tiến hành từ ngày 27-3 đến ngày 31-3-1982
tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu
đảng viên trong cả nước, có 47 đoàn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân,
các tổ chức cách mạng trên thế giới.
- Đại hội đã thảo luận thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương
hướng nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội trong 5 năm 1981-1985,
Báo cáo về xây dựng Đảng và bổ sung điều lệ Đảng, Bầu Ban Chấp hành Trung
ương khoá V gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương, khoá V đã bầu ra Ban Bí thư, Tổng Bí thư
và Ủy ban kiểm tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí
thư của Đảng.
- Nội dung Đại hội V của Đảng:
+ Thứ nhất, Đại hội đưa ra quan niệm mới về chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội V nêu rõ: thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là khó
khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, hiện nay nước ta đang
ở chặng đường đầu tiên. Đây chính là sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quan
điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ và sự phân kỳ của thời kỳ quá độ
vào điều kiện thực tiễn nước ta.
Đại hội xác định: Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-
1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc
biệt.
Việc khẳng định trên thực tế cách mạng Việt Nam đang ở chặng đường
nào trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quyết định trong việc
tìm ra và nắm vững quy luật khách quan, làm cơ sở để cụ thể hoá đường lối, xác
định chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam; chống
chủ quan, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn.
+ Thứ hai, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới có
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng
chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về mọi
mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến
tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mỗi nhiệm vụ chiến lược có vị trí riêng, nhưng có mối quan hệ mật thiết, trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ hàng đầu.
+ Thứ ba, Đại hội đã có những điều chỉnh về nội dung, bước đị và cách
thức tiến hành của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
tiên.
Đại hội V khẳng định: Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa; đồng thời ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây
dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp, hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công-nông
nghiệp hợp lý.
Nội dung đó phản ánh đúng bước đi, cách thức tiến hành của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực tiễn nước ta; nhằm khai thác, phát huy
thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao động, đất đai, ngành nghề... giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, làm cơ sở để thực
hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp
theo.
+ Thứ tư, Đại hội vạch ra nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm là phát triển thêm
một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo XHCN nền kinh tế quốc dân.
Ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết nhất của
đời sống nhân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, khắc
phục một bước quan trọng về phân phối lưu thông, ổn định tình hình kinh tế xã
hội.
b. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết đại hội V
- Sau Đại hội V, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V đã
tiếp tục cụ thể hoá, phát triển quan điểm của Đại hội về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Hội nghị Trung ương 3 Ban chấp hành Trung ương khoá
V (12-1982) bàn về phương hướng phát triển kinh tế, xã hội 3 năm (1983-
1985). Hội nghị Trung ương 4 (tháng 6-1983) bàn những vấn đề cấp bách về tư
tưởng, tổ chức bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội. Hội nghị Trung
ương 5 (12-1983) bàn về nhiệm vụ phát triển kinh tế 2 năm (1984-1985). Hội
nghị Trung ương 6 (7-1984) đã bàn sâu về phân phối lưu thông. Hội nghị Trung
ương 7 (12-1984) bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1985.

5: Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985)


Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) bàn về vấn đề giá, lương, tiền.
Đây là bước đột phá thứ hai của Đảng trong quá trình tìm tòi, đổi mới.
Hội nghị chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế
một giá, chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, thừa nhận quy luật của sản
xuất hàng hóa. Đề cập ba nội dung quan trọng của cái cách: Giá cả, tiền lương,
tiền tệ (giá – lương - tiền).
+ Giá cả: Thực hiện cơ chế một giá thống nhất và đánh giá đúng, đủ chi
phí cho giá thành sản phẩm.
+ Tiền lương: Xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương
tiền tệ gắn với xóa bỏ bao cấp. Chế độ tiền lương phải đảm bảo cho người lao
động tái tạo sức lao động và gắn với chất lượng và hiệu quả lao động.
+ Tiền tệ: Đổi mới lưu thông tiền tệ; thu hút tiền nhàn rỗi; đẩy nhanh nhịp
độ quay vòng đồng tiên; chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh doanh XHCN.
- Tuy nhiên, tổng điều chỉnh giá- lương – tiền thất bại; lạm phát tăng vọt;
kinh tế vĩ mô bất ổn. Đánh giá cuộc cải cách giá, lương, tiền của nghị quyết
Trung ương 8, Hội nghị lần thứ 9, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung
ương cho rằng: sự đúng đắn của chủ trương bù giá, thực hiện chính sách bán lẻ
theo một giá là cần thiết phù hợp với quy luật của sản xuất hàng hoá. Nhưng tổ
chức thực hiện lại mắc những sai lầm, như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh
giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt. Hậu quả lớn nhất
của cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương, lần này đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội trầm trọng sâu sắc hơn.
- Hội nghị Trung ương 9 khoá V (12-1985) bàn về kế hoạch nhà nước năm
1986. Hội nghị nhận định: Sau các Nghị quyết 6, 7, 8 của Ban Chấp hành Trung
ương, nền kinh tế đạt được một số tiến bộ. Song nền kinh tế nước ta vẫn đứng
trước những khó khăn gay gắt. Hội nghị chỉ rõ, nguyên nhân sâu sa của tình
hình trên là do nhận thức của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn
chưa rõ.
- Hội nghị Trung ương 10 khoá V (tháng 5-1986) đã phân tích những
khuyết điểm, sai lầm trong việc chỉ đạo công tác giá, lương, tiền; khẳng định
quyết tâm chiến lược xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

6: Trên cơ sở tổng kết thực tiễn


- Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8-1986 đưa ra
bản “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước
đột phá thứ ba, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối
đổi mới.
+ Về cơ cấu sản xuất
Hội nghị phân tích nguyên nhân: do chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra
một số chủ trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và
phát triển sản xuất. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất
trong 5 năm gần đây như dậm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm, chi phí sản
xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế xã hội ngày càng không ổn định.
Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng chậm giải quyết căn bản
các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn
hàng cho xuất khẩu. Bởi vậy, cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu
sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có
lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu
quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp
nhẹ và xuất khẩu. Theo hướng đó, cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và
vật tư, thực hiện cho được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa
Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Bởi vậy, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô
cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian,
quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn;
phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự cần thiết khách quan
để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho
người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo XHCN
không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế
độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng
sản xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.
+ Về cơ chế quản lý kinh tế
Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau, tạo ra động lực mới thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Hội nghị nêu ra những nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã
hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ
đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các
quy luật của quan hệ hàng hoá-tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự
chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của
Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế;
phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương
trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh
thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Như vậy, Nghị quyết Đại hội V và cách Hội nghị Trung ương khóa V
từng bước điều chỉnh và đưa ra những quyết sách quan trọng nhằm giải quyết
những vấn đề cấp bách về kinh tế xã hội và phân phối lưu thông. Đó là quá
trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm cũ và mới, đặc biệt trên
lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được trình bày trong bản kết luận đã
định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo Chính trị để trình ra Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thay cho bản Dự thảo Báo cáo chính trị được
chuẩn bị trước đó, vì trong bản dự thảo ấy vẫn còn giữ lại nhiều quan điểm cũ
không phù hợp với yêu cầu trước mắt là khắc phục cho được khủng hoảng
kinh tế-xã hội và lâu dài đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

7: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
thời kỳ 1975-1986
a. Thành tựu:
Tổng kết 10 năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ VI
của Đảng (12-1986) nêu lên những thành tựu nổi bật:
- Thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.
- Cở sở vật chất kỹ thuật của CNXH được tăng cường, trong đó công trình
thủy điện Hòa Bình và Trị An được khởi công xây dựng.
- Giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh
chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước bạn Lào, Campuchia.
- Những thành tựu trên đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những
nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
b. Hạn chế và nguyên nhân:
- Bên cạnh đó, tình hình kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn: Sản xuất
tăng chậm, không đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng ổn định đời sống nhân
dân. Một số chỉ tiêu quan trọng không đạt được; hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp; phân phối lưu thông rối ren, căng thẳng, vật giá tăng nhanh, ngân sách
thâm hụt, lạm phát tăng; mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,
có mặt gay gắt hơn trước; quan hệ sản xuất XHCN chậm được củng cố; vai trò
chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu; các thành phần kinh tế phi XNCH
chưa được sử dụng và cải tạo đúng đắn; Tiêu cực, tham những tràn lan, pháp
luật, kỹ cương bị buông lỏng. Mục tiêu trước mắt là ổn định tình hình kinh tế xã
hội, ổn định đời sống nhân dân chưa thực hiện được.
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là:
Về khách quan: Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, lại chịu hậu quả nặng nề của 30 năm
chiến tranh. Đất nước được giải phóng, trong khi chúng ta đang rất cần một môi
trường hòa bình thực sự để xây dựng đất nước, hàn gắn những vết thương
nghiêm trọng do chiến tranh gây ra, thì cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc lại bùng nổ. Cũng từ sau năm 1975, quan hệ quốc tế có
nhiều thay đổi, nguồn viện trợ nước ngoài đối với ta giảm mạnh.
Về chủ quan (6 vấn đề): Sai lầm trong đánh giá tình hình, xác định mục
tiêu, bước đi; Sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; Sai lầm trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa; Sai lầm trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; Duy trì quá lâu cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp; Còn buông lỏng chuyên chính vô sản (cả trong
quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của địch…).
Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm nói trên, đặc
biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu
tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân
bắt nguồn từ “những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác
cán bộ của Đảng”.

8: Đại hội VI của Đảng (1986)


* Đại hội VI của Đảng (1986)
Đại hội VI thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên cả nước đã họp tại Hà Nội
(12-1986), thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu Nguyễn Văn
Linh làm Tổng Bí thư Đảng.
- Báo cáo chính trị của Đại hội đã chỉ ra thành công, hạn chế, khuyết điểm,
nguyên nhân, bài học của Đảng và chủ trương đổi mới toàn diện công cuộc xây
dựng đất nước. Đảng nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc
kiểm điểm chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm trong thời kỳ 1975-1986. Đại hội
đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm:
+ Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải phải quán triệt tư
tưởng: “lấy dân làm gốc”, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Hai là, Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.
+ Ba là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
điều kiện mới.
+ Bốn là, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng
cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
- Nội dung đường lối đổi mới
+ Nhận thức về thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta:
Đại hội khẳng định thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một quá
trình lịch sử tương đối lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường; nước ta đang ở
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là: ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNHXHCN trong chặng đường tiếp
theo.
Mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu hợp lý nhằm
phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới; tạo
ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; đảm bảo nhu cầu củng cố quốc phòng và an
ninh.
+ Đổi mới về kinh tế
Về cơ cấu kinh tế:
Bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý: nông - công nghiệp và dịch vụ, trong đó tập
trung thực hiện 3 chương trình mục tiêu: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa ở chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa
Đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt
thời kỳ quá độ lên CNXH, với những hình thức và bước đi thích hợp, xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đại hội VI khẳng định sự tồn tại
của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: Kinh tế quốc doanh, kinh tế
tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân
cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể), kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân.
Về cơ chế quản lý kinh tế:
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh XHCN, kết hợp kế hoạch với thị trường.
+ Về chính sách xã hội:
Quan điểm về chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được nhiệm
vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đại
hội VI chú trọng đến nhóm chính sách dân số, việc làm, công bằng xã hội, giáo
dục, văn hóa, sức khỏe nhân dân, bảo trợ xã hội vv…
+ Về đối ngoại:
Đại hội VI khẳng định mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và các bên cùng có lợi. Trong đó
nhấn mạnh: tăng cường quan hệ với ba nước Đông Dương; sẵn sàng thương
lượng và hợp tác với các nước ĐNA; tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN; bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc; mở rộng quan hệ hữu nghị vớ các nước phương Tây, sẵn sàng cải thiện
quan hệ với Mỹ.
+ Đổi mới Đảng
Đảng phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tư duy lý
luận, nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội và đặc trưng, quy luật, hình thức,
bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đổi mới tổ chức,
đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Xây dựng
Đảng ngang tầm một đảng cầm quyền lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược. 
* Ý nghĩa của Đại hội
- Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn
diện, đánh dấu bước ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ
trương đổi mới toàn diện của Đảng được tập trung về đổi mới tư duy kinh tế.
- Đường lối đổi mới của Đại hội VI được triển khai đi vào cuộc sống đã
từng bước đưa kinh tế - xã hội của đất nước ra khỏi khủng hoảng, đời sống nhân
dân được nâng cao.

9: Đại hội VII của Đảng và thực hiện kế hoạch 5 năm


(1991-1996)
b. Đại hội VII của Đảng và thực hiện kế hoạch 5 năm (1991-1996)
* Tình hình mới
Cuộc khủng hoảng toàn diện trong các nước XHCN đã dẫn đến tan rã hoàn
toàn. Cuối tháng 9-1991, Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động. Ngày
25-12-1991, Liên Xô giải tán. Sự kiện đó gây chấn động về chính trị, kinh tế và
trật tự thế giới. Phong trào cách mạng thế giới đi vào thoái trào.
Các thế lực đế quốc và phản động đẩy mạnh thực hiện diễn biến hòa bình,
tuyên truyền, tấn công quyết liệt nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa xã hội
còn lại, trong đó Việt Nam.
Sau hơn 4 năm đổi mới, kinh tế - xã hội của đất nước có chuyển biến tích
cực, nhưng chưa ra khỏi khủng hoảng. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế,
còn nhiều vấn đề kinh tế-xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết.
* Đại hội VII của Đảng (6/1991)
- Đại hội VII của Đảng thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên cả nước đã
họp tại Hà Nội (6-1991), Đại hội thông quan các văn kiện : Báo cáo chính trị,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 và bầu đồng chí Đỗ
Mười là Tổng Bí thư Đảng.
+ Đại hội đã tổng kết những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam;
những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và nêu ra những bài học lớn: 
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi
mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh
hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Hai là, đổi mới toàn diện,
đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba
là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế, xã hội. Bốn là, tiếp tục phát huy sâu rộng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc
phù hợp. Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kết
hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần
kiên định thực hiện đường lối đổi mới. 
+ Trong bố cảnh hệ thống CNXH sụp đổ, Trung Quốc tuyên bố xây dựng
CNXH mang màu sắc Trung quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ cũng chỉ rõ đặc trưng của CNXH của Việt Nam: Do nhân dân lao động
làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
+ Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là ra khỏi khủng hoảng,
ổn định tình hình kinh tế-xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và
kém phát triển. GDP năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990.
+ Mục tiêu cụ thể của 5 năm 1990-1995 : kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, giữ
vững và phát triển sản xuất,bắt đầu có tích luỹ từ nền kinh tế quốc dân; tạo thêm
nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số, ổn định và
từng bước cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đổi mới hoạt động của Nhà nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự
an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng.
+ Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội, cải cách
bộ máy nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng làm tròn
nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt, lần đầu tiên khẳng định:
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động.
- Đại hội VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỷ cương-
đoàn kết” hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc
điểm của Việt Nam.
* Lãnh đạo tiếp tục thực hiện đổi mới toàn diện (1991-1996)
Sau Đại hội VII, Hội nghị Trung ương 5, 7 khóa VII của Đảng họp và chỉ
đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, giải quyết cụ thể nhiều vấn đề quan
trọng: 
- Đổi mới kinh tế
Một là, chủ trương đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn đến
năm 2000 với ba mục tiêu chủ yếu: Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát
triển; đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh; có cơ sở hạ tầng vật chất và xã
hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nông dân.
Hai là, chủ trương phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng giai cấp công
nhân trong giai đoạn mới phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững
vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực
tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu
quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình. 
Sau 5 năm 1991-1995, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm năm đã
hoàn thành vượt mức, GDP đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5-6,5%). Đã bắt đầu có tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn
12,7% năm 1995. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp
tục được xây dựng.
- Đổi mới hệ thống chính trị (Hội nghị Trung ương 3 khóa VII)
Một là, đổi mới và chỉnh đốn Đảng
Nguyên tắc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là quán triệt và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo
định hướng XHCN, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân. 
Yêu cầu và phương châm đổi mới, chỉnh đốn Đảng: xây dựng Đảng về
chính trị và tư tưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức, tạo bước chuyển biến quan
trọng về công tác cán bộ; đổi mới và tăng cường công tác dân vận; tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng. 
Hai là, Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1-1994)
Hội nghị khẳng định, đổi mới là sự nghiệp khó khăn, song Đảng đã mạnh
dạn tìm tòi, dũng cảm tiến hành và giành thắng lợi quan trọng. Hội nghị chỉ ra
những thách thức lớn là: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế ; nguy cơ chệch hướng XHCN; nguy cơ về nạn tham
nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. 
Những cơ hội lớn là: Đảng ta có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí,
nhân dân ta cần cù, thông minh, giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách
mạng kiên cường, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng ; các lực lượng vũ trang
tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ; những
thành tựu của công cuộc đổi mới đang tạo ra thế và lực mới ; sự phát triển của
cách mạng khoa học kỹ thuật, xu thế mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế
giới và khu vực mang đến cho chúng ta thêm những nguồn lực quan trọng.
Mục tiêu đến hết nhiệm kỳ Đại hội VII là thúc đẩy nhanh hơn nhịp độ thực
hiện những mục tiêu của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến
năm 2000, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hội
nghị đã bầu bổ sung vào Trung ương Đảng 20 uỷ viên mới để thay thế cho các
ủy viên vì lý do sức khoẻ hoặc bị kỷ luật.
Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước :
Xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Tăng cường pháp chế XHCN. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội, kết hợp biện pháp hành
chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí, kết hợp sức mạnh của pháp luật
với sức mạnh của quần chúng. 
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Kiện toàn nhà
nước là quá trình tương đối lâu dài, phải được tiến hành với những bước đi tích
cực, vững chắc, gắn chặt với đổi mới và chỉnh đốn Đảng. 
- Đổi mới, phát triển văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội (Hội nghị
Trung ương 4 khóa VII - 1993)
Đảng ra các nghị quyết về bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người; một
số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt; tiếp tục đổi mới sự
nghiệp giáo dục và đào tạo; những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ nhân dân; chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; công tác
thanh niên trong thời kỳ mới. 
Như vậy, chủ trương của Đảng thể hiện: tất cả là do con người, tất cả vì
hạnh phúc con người, coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn
nhất, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; coi
hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng. 
- Đổi mới về quốc phòng, an ninh, đối ngoại (Hội nghị Trung ương 3
khóa VII - 1992)
+ Củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ chung
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó các lực lượng vũ trang bao gồm
quân đội nhân dân và công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
+ Kiên quyết chống lại những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” và
các hoạt động phá hoại khác của các thế lực thù địch.
+ Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân, xây dựng các lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh, giữ vững ổn định
chính trị, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
+ Đối ngoại : Chủ trương mới của Đảng là mở rộng, đa dạng hoá và đa
phương hoá quan hệ đối ngoại, trên nguyên tắc tôn trọng độc, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có
lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản
sắc tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quan hệ đối ngoại đã được mở rộng, đất nước
phá thế bị bao vây cấm vận. Tháng 11-1991, hai Đảng, Nhà nước Việt Nam và
Trung Quốc bình thường hóa quan hệ. Tháng 7-1995, Việt Nam và Hoa Kỳ đặt
quan hệ ngoại giao và Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN).

10: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 và bầu đồng chí
Đỗ Mười là Tổng Bí thư Đảng.
+ Đại hội đã tổng kết những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam;
những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và nêu ra những bài học lớn: 
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi
mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh
hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Hai là, đổi mới toàn diện,
đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba
là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế, xã hội. Bốn là, tiếp tục phát huy sâu rộng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc
phù hợp. Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kết
hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần
kiên định thực hiện đường lối đổi mới. 
+ Trong bố cảnh hệ thống CNXH sụp đổ, Trung Quốc tuyên bố xây dựng
CNXH mang màu sắc Trung quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ cũng chỉ rõ đặc trưng của CNXH của Việt Nam: Do nhân dân lao động
làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.

11: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và thực hiện kế hoạch 5 năm
(1996- 2001)
* Hoàn cảnh lịch sử :
Những năm cuối thế kỷ XX, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
nhanh với trình độ cao hơn trước. Các nước tư bản phát triển tiếp thu thành tựu
của KHCN phát triển đạt nhiều thành tựu kinh tế, quân sự vv... Đây là nhân tố
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế
và đời sống xã hội; cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ diễn ra
gay gắt.
Trong khi đó hệ thống CNXH sụp đổ và phong trào cách mạng thế giới
lâm vào thoái trào. Khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở các nước Đông Nam Á và
châu Á lan rộng trong khu vực, tác động xấu đến nền kinh tế nước ta.
Sau 10 năm đổi mới, Việt Nam bước đầu đã đạt dược những thành tựu về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Quan hệ đối ngoại phát
triển mạnh mẽ, phá được thế bị bao vây, cô lập, tham gia tích cực vào cộng
đồng quốc tế. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là nước nghèo và kém phát triển, xã hội
còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
* Nội dung Đại hội VIII của Đảng
Đại hội VIII của Đảng thay mặt cho hơn 2,1 triệu đảng viên cả nước họp
tại Hà Nội (12-1986) đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu Đỗ
Mười tiếp tục làm Tổng Bí thư Đảng.
- Đại hội đánh giá công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1996) thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn.
- Nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền
đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép đất nước chuyển sang
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đại hội tổng kết 10 năm đổi mới và nêu ra sáu bài học chủ yếu:
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá
trình đổi mới. Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị. Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Năm là, mở rộng hợp
tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Sáu là, tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
- Mục tiêu của CNH, HĐH : Phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp, có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
- Để thực hiện mục tiêu trên, Đại hội đưa ra quan điểm chỉ đạo công
nghiệp hoá, hiện đại hoá:
+ Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
+ Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
+ Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định.
+ Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển,
lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
+ Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
- Đại hội VIII nhấn mạnh một quan điểm về kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN:
Một là: Sản xuất hàng hoá, cơ chế thị trường không đối lập với CNXH mà
là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho
công cuộc xây dựng CNXH.
Hai là: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường
theo định hướng XHCN là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản
xuất và lưu thông, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thị trường
trong nước gắn với thị trường thế giới.
Ba là: Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch
chủ yếu mang tính định hướng vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn
các đơn vị kinh tế lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh.
Bốn là: Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý
vĩ mô của nhà nước, đồng thời phải xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị
sản xuất kinh doanh nhằm phát huy tác động tích cực đi đôi với việc ngăn ngừa,
hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý
kinh tế thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn
bẩy kinh tế và các nguồn lực chủ đạo của kinh tế Nhà nước...
- Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 1996-2000, nêu nhiệm vụ tổng quát, những
tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển. 
- Xây dựng Đảng : Đại hội khẳng định xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi
của thời kỳ mới là vấn đề có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng trên
con đường đổi mới. Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn
nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các biểu
hiện tiêu cực và yếu kém. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng
viên. Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới công tác kiểm tra và
kỷ luật của Đảng.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt của Đảng, đưa đất nước sang thời kỳ
mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
* Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm (1996-2001)
Sau Đại hội VIII, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp, chỉ đạo thực hiện
những nhiệm vụ cụ thể, nổi bật là:
- Đổi mới kinh tế
Nghị quyết Trung ương khóa IV (1997) khóa VIII : Coi phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm; phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, ra sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần kiệm
để công nghiệp hoá, tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH,
đồng thời quan tâm xây dựng quan hệ sản xuất. Thực hiện cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế
phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát
triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp
tác hoá, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các
loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính-
tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc làm và xoá đói
giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế-xã hội.
Kết quả, đến năm 2000, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá, GDP tăng
bình quân hằng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất
lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm tăng 13,5%.
Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000, các
chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.
- Đổi mới hệ thống chính trị - Hội nghị Trung ương 3, 6 khóa VIII
Một là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh với quan điểm chỉ
đạo :
Phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng hoạt động và kiện
toàn tổ chức Quốc hội; tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước; cải cách tư
pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hai là, Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất và năng lực, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu.
Tiêu chuẩn chủ yếu của cán bộ là: Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ
phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, Không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ
hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu
biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối, của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ.
Các tiêu chuẩn đó quan hệ mật thiết với nhau, coi trọng cả đức và tài, lấy đức là
gốc.
Ba là, giải quyết một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng. Yêu cầu đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước. Kiên định những quan điểm
có tính nguyên tắc sau: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận "đa
nguyên, đa đảng". Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính
và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Bốn là, tiếp tục xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức các ban của Đảng ở các cấp; cải tiến cách làm của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nâng cao trách nhiệm và chất lượng hoạt
động của các đại biểu Quốc hội; rà soát và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ
cấu tổ chức cơ quan Chính phủ và chính quyền địa phương, tinh giản hợp lý tối
đa các cơ quan thuộc Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, tinh giản các đơn vị
thuộc các Bộ; chỉ đạo và sắp xếp tổ chức của hai ngành kiểm sát và toà án; xây
dựng quy chế làm việc, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể chính trị-xã hội.
Theo Chỉ thị số 30/CT-TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị về “Quy chế
dân chủ”, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phổi hợp ban hành Quy
chế dân chủ ở các loại hình tổ chức cơ sở và các lĩnh vực trên cả nước.
Những chủ trương đổi mới hệ thống chính trị đã đóng góp quan trọng vào
thắng lợi của đất nước qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII. 
- Xây dựng và phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội (Nghị quyết
Trung ương 2, 5 khóa VIII (1998)
Một là, định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến nǎm 2000
Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và
phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá
nhân loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác
phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật ; có sức khoẻ, là những người thừa
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục
- đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội. Coi giáo
dục-đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nhân tố
quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Giáo dục-đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn
dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Kết hợp giáo dục nhà
trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành
mạnh ở mọi nơi, trong từng công đồng, từng tập thể.
Phát triển giáo dục-đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội,
những tiến bộ khoa học-công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.
Hai là, định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá với quan điểm chỉ đạo :
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
trí tuệ của nhân loại, đi sâu nghiên cứu, tổng kết quá trình đổi mới đất nước.
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng-an
ninh.
Nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học và
công nghệ của nước nhà, tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật, từng bước hình
thành nền khoa học và công nghệ hiện đại của Việt Nam.
Ba là, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc với quan điểm chỉ đạo:
- Vǎn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. 
- Nền vǎn hóa mà chúng ta xây dựng là nền vǎn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
- Nền vǎn hóa Việt Nam là nền vǎn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam
- Xây dựng và phát triển vǎn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. 
- Vǎn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển vǎn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. 
Mười nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển vǎn hóa là: Xây dựng con
người Việt Nam; xây dựng môi trường vǎn hóa; phát triển sự nghiệp vǎn học-
nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các di sản vǎn hóa; phát triển sự nghiệp giáo
dục-đào tạo và khoa học-công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống
thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu
số; chính sách vǎn hóa đối với tôn giáo; củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể
chế vǎn hóa; mở rộng hợp tác quốc tế về vǎn hóa;  
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (7-1998) được ví như Tuyên ngôn
văn hóa của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó,
phong trào thi đua yêu nước “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa”
được phát động rộng rãi trên cả nước, trên nhiều lĩnh vực góp phần làm chuyển
biến đời sống tinh thần xã hội.

12: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI


d. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và thực hiện kế
hoạch 5 năm (2011-2016)
* Tình hình mới:
- Thế giới: hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, tuy nhiên có
nhiều diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn những bất trắc khó lường. Căng thẳng,
xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can
thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi
truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện
tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.
- Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan
hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ
quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức
- Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên,
năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao...
giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính,
an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao,
thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á,
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng tranh chấp lãnh thổ, biển đảo
ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích
mới. ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò
quan trọng trong khu vực.
- Trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 -
2011) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so
với trước. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ
thách thức nào.
- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí là nghiêm trọng.
- Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”,
gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến
phức tạp.
* Nội dung Đại hội XI của Đảng (2011)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng họp tại Hà Nội (1-2011).
Đại hội thay mặt cho 3,6 triệu đảng viên cả nước và thông qua các Văn kiện
chính trị quan trọng : Báo cáo chính trị ; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020; Đại hội bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bầu Nguyễn Phú Trọng làm
Tổng Bí thư Đảng.
- Đại hội kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội X; 10 năm thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, 20 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991 và nêu ra một số kinh nghiệm:
Một là, trong bất kỳ điều kiện, tình huống nào, phải kiên trì thực hiện
đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng
trưởng và phát triển bền vững. Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, đặc biệt
chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Năm là,
trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo.
- Đại hội nêu ra ba đột phá chiến lược:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ
phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung
vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
- Định hướng phát triển kinh tế-xã hội:
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; thực hiện tốt chức
năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị
trường; đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc
xây dựng bộ máy nhà nước.
- Cương lĩnh đã phân tích công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta trong điều
kiện mới đầy biến động và đề ra Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ
ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước
ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay
đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước
ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Để thực hiện thành công các mục tiêu nêu trên, Cương lĩnh đề ra các
phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Cương lĩnh phân tích tiến trình cách mạng Việt Nam và sự phát triển của
thời đại, Cương lĩnh khẳng định:
+ Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử.
+ Trên cơ sở nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và dựa trên thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Cương lĩnh đã phát triển 6 đặc trưng của
Cương lĩnh 1991 và nêu bật 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng, đó là xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
Do nhân dân làm chủ;
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện;
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển;
Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
- Về đối ngoại: Đại hội khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích dân tộc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh.
- Đổi mới Đảng: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu để thực
hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng.
Đại hội XI thể hiện trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta,
tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2016)
Thực hiện Nghị quyết XI, trong 5 năm (2011-2016), Hội nghị Trung ương
4, 5, 6, 7 (2012 - 2013) của Đảng đã chỉ đạo quyết định đổi mới những vấn đề
quan trọng, nổi bật:
- Đổi mới kinh tế
+ Một là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020:
Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phải hiện đại,
đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng địa phương, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội, bảo đảm lợi ích hợp lý để
thu hút các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội.
Phát triển kết cấu hạ tầng là sự nghiệp chung, vừa là quyền lợi vừa là nghĩa
vụ của toàn xã hội, mọi người dân đều có trách nhiệm tham gia đóng góp. Phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an
ninh; thu hẹp khoảng cách vùng, miền; gắn với tiết kiệm đất canh tác, bảo vệ
môi trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
+ Hai là, tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt;
là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân ta. Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý.
Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng ổn
định lâu dài hoặc có thời hạn. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã
được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện các
chính sách đất đai; không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao
trước đây.
Đất đai được phân bổ hợp lý, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu
quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài. Đất đai phải bảo đảm sự quản lý
nhà nước chặt chẽ, thống nhất của Trung ương đồng thời phân cấp phù hợp cho
địa phương.
+ Ba là, tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước
Doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực
lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế,
ổn định kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới và
nâng cao hiệu quả.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào các ngành, lĩnh vực
then chốt, địa bàn quan trọng.
Qua 5 năm 2011-2015, quy mô và tiềm lực kinh tế đất nước được nâng lên.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế
được duy trì ở mức hợp lý, năm sau cao hơn năm trước. Đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nông thôn mới được đẩy
mạnh.
- Đổi mới hệ thống chính trị
+ Một là, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”1, coi đây là nội dung thường xuyên, nhiệm vụ
1
Chỉ thị số 03-CT/TW (5-2011) của Bộ Chính trị khóa XI.
quan trọng, tự giác của các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, của
mỗi cán bộ, đảng viên, của nhân dân. Năm 2011-2012, học tập chủ đề: “Suốt
đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận
tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị”.
Năm 2013, chủ đề: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu
của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”.
Năm 2014, chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
về nêu cao tinh thần trách nhiệm chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với
làm”. Năm 2015, chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
về trung thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng đảng trong
sạch, vững mạnh”. 
+ Hai là, tập trung cao độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng.. Đó là ba vấn đề cấp bách:
Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng.
Phương châm của Đảng là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
khách quan, không nể nang, né tránh. Các giải pháp phải bảo đảm đồng bộ, có
trọng tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, nói đi
đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất.
+ Ba là, tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa X) “Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Thành lập
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị
do Tổng Bí thư làm Trưởng ban; lập lại Ban Nội chính Trung ương là cơ quan
thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
Hội nghị trung ương 6, khóa XI (10-2012) đã đánh giá kết quả sau một
năm kiểm điểm, tự phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4. Tại Hội nghị, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước
Trung ương và toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, tồn tại trong công
tác xây dựng Đảng, về những suy thoái, hư hỏng trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
Trung ương đã quyết định thành lập Ban Kinh tế Trung ương; tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; chủ trương bổ sung
Hiến pháp năm 1992 đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
+ Bốn là, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân
là chủ, nhân dân làm chủ. 
Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng
lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi
với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân. 
Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công
tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. 
Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán
bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang.  
Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” thành quy chế, quy định để mọi tổ chức trong hệ thống chính
trị; cán bộ, đảng viên thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân
dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
Trung ương đã kết luận tiếp thu chân thành, tối đa những ý kiến hợp lý của
nhân dân để hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; kiên trì
những vấn đề có tính nguyên tắc về bản chất của chế độ chính trị và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Qua 5 năm 2011-2015, những đổi mới về hệ thống chính trị đã góp phần
ổn định tình hình chính trị-xã hội, quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
- Xây dựng, phát triển văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội
+ Một là, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây
dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây dựng con người mới.
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò
quan trọng.
+ Hai là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành;
lý luận gắn với thực tiễn; kết hợp giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội.
Phát triển giáo dục-đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, phù hợp quy luật khách
quan.
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo.
Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục- đào tạo.
Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc
dân tộc. Đến năm 2030, giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc đổi mới và nhu cầu học tập của nhân
dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý
tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập.
+Ba là, phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt
Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm
2030, một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới; đáp ứng các yêu cầu cơ bản
của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ
Tổ quốc; là nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong
hoạt động của các ngành, các cấp.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế
hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công
nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ
của các tổ chức khoa học và công nghệ.
Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền
vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có
chính sách phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và
công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và
nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học và công
nghệ của Việt Nam.
+ Bốn là, chủ trương giải quyết một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012-2020
Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của
Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế-xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất
nước trong từng thời kỳ.
Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, chia sẻ giữa Nhà nước, xã
hội và người dân, giữa các nhóm dân cư; bảo đảm bền vững, công bằng.
Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai
trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã
hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia.
Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc
xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
+ Năm là, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường:
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh
hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững
của đất nước.
Ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu;
không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng phát triển bền vững.
Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt
quan trọng để phát triển đất nước phải được đánh giá đầy đủ các giá trị, định
giá, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ; khai thác, sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội.
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát
triển bền vững. Phương châm là ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự
nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện
môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân
dân.
Qua 5 năm 2011-2015, việc xây dựng, phát triển văn hóa và giải quyết các
vấn đề xã hội có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ
bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Bảo vệ tài
nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích
cực, tuy vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết.
- Tăng cường quốc phòng, an ninh
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (10-2013) đã đánh giá kết quả 10 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc;
phân tích bối cảnh, dự báo xu hướng phát triển của tình hình quốc tế, khu vực
và trong nước; chỉ rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân chủ quan của những hạn
chế, thiếu sót; chỉ ra nguyên tắc cơ bản, tiêu chí phân loại đối tác, đối tượng và
sự chuyển hóa giữa đối tác và đối tượng. Tiếp tục những quan điểm bảo vệ Tổ
quốc được xác định trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và bổ sung:
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; xây dựng sức mạnh tổng hợp; phát huy nội lực kết hợp với ngoại
lực.
Kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược và sách lược tạo sự đồng thuận cao của
nhân dân ta ở trong nước và nước ngoài; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ cao nhất
của dư luận quốc tế. Đặc biệt coi trọng mối quan hệ giữa yếu tố bên trong với
bên ngoài, đoàn kết toàn dân tộc.
Qua 5 năm 2011-2015, chính trị-xã hội đất nước ổn định, quốc phòng, an
ninh được tăng cường, giữ vững hòa bình,bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là những tiền đề quan
trọng để nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong thời kỳ mới.

13:Đại hội 11 đã nêu thêm được


- Đại hội nêu ra ba đột phá chiến lược:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ
phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung
vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
- Định hướng phát triển kinh tế-xã hội:
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; thực hiện tốt chức
năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị
trường; đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc
xây dựng bộ máy nhà nước.
- Cương lĩnh đã phân tích công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta trong điều
kiện mới đầy biến động và đề ra Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ
ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước
ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay
đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước
ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Để thực hiện thành công các mục tiêu nêu trên, Cương lĩnh đề ra các
phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Cương lĩnh phân tích tiến trình cách mạng Việt Nam và sự phát triển của
thời đại, Cương lĩnh khẳng định:
+ Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử.
+ Trên cơ sở nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và dựa trên thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Cương lĩnh đã phát triển 6 đặc trưng của
Cương lĩnh 1991 và nêu bật 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng, đó là xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
Do nhân dân làm chủ;
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện;
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển;
Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
- Về đối ngoại: Đại hội khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích dân tộc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh.
- Đổi mới Đảng: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu để thực
hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng.
Đại hội XI thể hiện trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta,
tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

14: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo công
cuộc đổi mới (1986-2016)
Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới (1986-2016)
* Những thành tựu
- Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển.
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển:
Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và
hai năm 2006-2010 tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm
2001-2010 tăng trưởng 7,26% /năm, từ 2011 đến 2015, tăng trưởng GDP năm
2011 đạt 6,24%, năm 2012: 5,25%, năm 2013: 5,42%, năm 2014: 5,98% và năm
2015 đạt 6,68%. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới tại Hội nghị đối tác phát
triển Việt Nam (ngày 05-12-2014), trong giai đoạn khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 - 2013), Việt Nam đạt 4,6%, Trung Quốc là
8,5%, In-đô-nê-xi-a đạt 4,5%, Phi-lip-pin đạt 3,3%, Thái Lan đạt 2,7%, Ma-lai-
xi-a đạt 2,6%. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh so với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển
có thu nhập trung bình trên thế giới.
Năm 2010, GDP) đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ
USD). Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực tế đã đạt 1.047
USD, năm 2010 đạt 1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Năm 2011-
2015, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt
193,4 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD. Chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc
gia và lãnh thổ, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Nước ta đã ra khỏi
nhóm nước có thu nhập thấp.
- Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường.
- Văn hoá, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng lên, một số mặt đạt trình độ của các nước
phát triển trung bình. Chỉ số phát triển con người tăng lên, từ 0,683 năm 2000
lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 100/177 nước tham gia xếp hạng. Thu nhập thực tế
sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và
nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm
2008. Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Đã hoàn thành phần lớn mục
tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra cho năm 2015.
- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống
chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao2.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục
đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
* Hạn chế, khuyết điểm:
- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ
được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực
tiễn. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một
số vấn đề cần phải tổng kết để tiếp tục làm rõ.
- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu
cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô
có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất
lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế còn thấp. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý
xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn
những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ
với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa
ngang tầm nhiệm vụ.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Niềm tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
* Một số kinh nghiệm trong 30 năm đổi mới
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên
cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
2
Tham gia giải pháp chính trị vấn đề Campuchia (1989), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
(năm 1991), với Hoa Kỳ (năm 1995); gia nhập ASEAN (năm 1995); gia nhập WTO (năm 2006); ký
kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP (năm 2015). Đến năm 2015, Việt Nam đã có quan
hệ ngoại giao với 185 nước. Đến năm 2015, Việt Nam đã thu hút hàng chục tỷ USD vốn ODA, trên
250 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài.
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách
nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy
luật, xuất phát, bám sát và coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Bốn là, đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Năm là, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-
xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường quan hệ mật thiết với nhân dân.

Tài liệu tham khảo


1: Những nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị
đầu tiên:
 Hoàn cảnh:
 - 1925_1930, Chủ nghĩa Mac Leenin thâm nhập và
thấm sâu vào công nhân, làm cho thấm nhuần, chuyển
từ đấu tranh tự phát thành tự giác. Lúc này đòi hỏi Đảng
ra đời và lãnh đạo.
 - Trước đòi hỏi này, Việt Nam xuất hiện ba tổ chức:
 + Đông Dương Cộng sản Đảng
 + An Nam Cộng sản Đảng
 + An Nam Cộng sản Liên Đoàn
 - 3 tổ chức này hoạt động riêng rẽ, gây ảnh hưởng đến
phong trào Cách Mạng Việt Nam nên cần thống nhất
làm một
 -Trước tình hính đó, bằng sự nhạy bén của bản thân
bám sát thực tiễn Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm về
Hương Cảng (Trung Quốc) chủ trì hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng
 * Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1/1930 đến ngày 7/2/1930
tại Cửu Long (Hương Cảng -Trung Quốc). Nội dung hội
nghị:
 + Quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một
chính đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam.
 + Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và
chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo. Những văn kiện này hợp thành cương lĩnh
cách mạng đầu tiên của Đảng.
 + Cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời
 * Ngày 24/2/1930, Đông Dương cộng sản liên đoàn
chính thức gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức
cộng sản ở Việt Nam.
 Nội dung:
1. Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam: Chủ
trương làm cách mạng Tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản
a. Các khái niệm
o Cách mạng tư sản dân quyền: là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
o Thổ địa cách mạng: là cuộc cách mạng mang lại
ruộng đất cho nhân dân.
o Xã hội cộng sản: một mô hình xã hội tiến bộ của loài
người (Theo Mac) (chỉ tồn tại theo lý thuyết)
b. Mục đích của cách mạng dân quyền và thổ địa cách
mạng: là nhằm giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong
lòng xã hội Việt Nam đặt ra, đó là:
o Mâu thuẫn dân tộc: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai.
o Mâu thuẫn giai cấp: Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân
dân Việt Nam, trong đó chủ yếu là nông dân và địa
chủ phong kiến.
c. Với phương hướng chiến lược này, cách mạng Việt
Nam phải trải hai cuộc vận động:
o Hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và giải
quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân.
o Đi tới xã hội cộng sản.
Sau khi hoàn thành Cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng (cuộc vận động 1) thì đưa nước ta
đi lên xã hội cộng sản (cuộc vận động 2). Và hai
cuộc vận động này có mối quan hệ tác động, mật
thiết với nhau. Cuộc vận động thứ nhất làm tiền đề,
tạo điều kiện cho cuộc vận động thứ 2 thắng lợi và
ngược lại

2. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng:
Gồm 3 nhiệm vụ chính:
a. Chính trị:
o Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
o Thành lập ra chính phủ công nông binh và tổ chức
quân đội công nông.
b. Kinh tế:
o Quốc hữu hoá: toàn bộ tài sản lớn của đế quốc Pháp
(như công trình giao thông, nhà máy, xí nghiệp, ngân
hàng…) giao cho chính phủ Công Nông Binh quản
lý.
o Tịch thu toàn bộ ruộng đất của đế quốc làm của công
và chia cho dân cày nghèo.
o Giảm sưu thuế cho dân cày nghèo.
o Mở mang công nghiệp, nông nghiệp, thực hiện luật
ngày làm tám giờ.
c. Văn hóa xã hội:
o Dân chúng được tự do tổ chức (như tự do đi lại, hội
họp, ngôn luận, báo chí…).
o Thực hiện nam nữ bình đẳng.
o Phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Như vậy, cuộc cách mang có ba nhiêm vụ nhưng
thực chất là giải quyết hai vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam. Đó là vấn đề chống đế quốc và
chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí
hàng đầu.
3. Lực lượng cách mạng:
 Công nhân và nông dân là lực lượng đông đảo (lực
lượng chính) của cách mạng nên đảng phải thu phục
(đoàn kết) đông đảo công nhân, làm cho họ lãnh đạo
được dân chúng, và đảng phải thu phục (đoàn kết) đông
đảo nông dân và dựa vào dân cày nghèo để làm cách
mạng ruộng đất.
 Đảng lôi kéo, lợi dụng hoặc ít nhất là trung lập đối với
những lực lượng, thành phần chưa lộ rõ mặt phản cách
mạng (như tư sản, trí thức, trung nông, phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam…). Còn đối với những
lực lượng mà họ đã lọ rõ mặt phản cách mạng thì chúng
ta phải đánh đổ (như Đảng Lập hiến…).
 Khi làm cách mạng thì 1 mình giai cấp công nhân là
chưa đủ, họ chỉ giữ vai trò lãnh đạo và để cách mạng
thành công thì công nhân phải liên minh với các lực
lượng khác: nông dân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức, địa
chủ yêu nước…Nhưng nguyên tắc khi liên minh lực
lượng là phải đặt lợi ích của công nhân và nông dân lên
hàng đầu ( không hy sinh lợi ích của công- nông để đi
vào con đường thoả hiệp với kẻ thù ) vì mục tiêu của
cách mạng là mang lại quyền lợi cho đông đảo người
lao động.
4. Lãnh đạo cách mạng:
 Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam và lãnh đạo thông qua đội tiền phong của
mình, chính là Đảng Cộng sản.
 Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, tài tình,
sáng tạo , nhằm giải phóng, đoàn kết toàn thể dân tộc
VN. “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
 Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động.

5. Quan hệ quốc tế:


 Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam gắn
liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết
quốc tế là sự kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, lợi ích dân
tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để
giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới.
 Cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi, Đảng phải
liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô
sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp, kết
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
 Ý nghĩa:
- Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh giải
phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo.
- Đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại mới, thấm đượm tinh thần dân
tộc. Độc lập tự do là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh.
- Giải quyết sự bế tắc về đường lối cách mạng.
- Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng
đất để giành chính quyền về tay nhân dân đi tới xã hội cộng
sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
cốt lõi của Cương lĩnh này.
- Là ngọn cờ tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân đưa
cách mạng VN giành nhiều thắng lợi.
Cương lĩnh phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được
những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình,
còn các đảng phái của các giai cấp khác thì bị phá sản hoặc bị
cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai
cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường. Cương
lĩnh cũng là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn để
Đảng ta tiếp tục kế hoạch định hướng đường lối lãnh đạo và
đưa cách mạng Việt nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
 Hạn chế của cương lĩnh:
- Luận cương đã không vạch ra được đâu là mâu thuẫn chủ yếu
của xã hội thuộc địa coi trọng vấn đề chống phong kiến
không phù hợp với cách mạng Việt Nam.
- Không đề ra được mối liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi
trong cuộc đấu tranh dân tộc và bọn tay sai.
- Đánh giá không đúng vai trò vị trí của các giai cấp tầng lớp
khác do đó không lôi kéo được bộ phận có tinh thần yêu
nước.
- Nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không
hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam hoặc có một số từ
ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau, song với sự bổ
sung của Luận cương Chính trị được thông qua tại Hội nghị
lần thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng, Cương lĩnh
chính trị của Đảng đã được hoàn thiện hơn.
 Giá trị lý luận và giá trị thực tiễn:
1. Giá trị lý luận:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một
cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội
thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20
của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu
của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá
đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, đã xác định đường
lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam,
đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ
cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện
đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.

Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa
nửa phong kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng
đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền
thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta
với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc
biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm
thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng
tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng
đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.

Những nội dung cơ bản ấy đã khẳng định lần đầu tiên


cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản
ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp
ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt
Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến
lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt
Nam.

2. Giá trị thực tiễn:


Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến
nay đã khẳng định sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị
đầu tiên. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt 85 năm qua
dân tộc Việt Nam đã thay đổi cả vận mệnh của dân tộc,
thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước khẳng
định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một
xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia
độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa;
nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi
tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng
rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới.

Khi đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn 80 năm
thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: “Từ
năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân
ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được
những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong
kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các
cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa
Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của
công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới
đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.”
 Kết luận:
Gần một thế kỷ đã trôi qua, Cương lĩnh 1930 cho đến nay vẫn
vẹn nguyên giá trị và điều lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh khẳng định: Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, vẫn là
con đường lựa chọn duy nhất đúng, tiếp tục dẫn dắt toàn dân tộc
tiến lên.
Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý
luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện
đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình
xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ,
các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát
triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa,
gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự
đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều
kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh
các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực,
thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một
cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian
khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo
mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội
chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến
thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự
đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
2: Chủ trương chỉ đạo chiến lược cách mạng của
Đảng giai đoạn 1939–1945?

* Bối cảnh lịch sử


+ Thế giới :
- Ngày 1/9/1939, Đức bất ngờ tấn công Ba lan. Ngày
3/9/1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Như vậy, chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
- Tại nước Pháp, chính phủ Đalađiê (Daladier) thi hành một
loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong
trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
- Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Đờ Gôn (De
Gaulle) bỏ chạy. Chính phủ phản động Pêtanh (Pétain) lên cầm
quyền. Tháng 6-1941, Đức tiến công Liên Xô, chiến tranh lan
rộng. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ.
Quân Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở
trên biển và trong đất liền, cuộc chiến tranh lan rộng ra toàn thế
giới.
+ Trong nước :
- Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị
định cấm cộng sản, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội
họp và tụ tập đông người.
- Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất tàn bạo,
thủ tiêu quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-
1939…
- Lợi dụng Pháp đầu hàng Đức, ngày 22-9-1940 phát xít
Nhật tấn công Lạng Sơn rồi đổ bộ vào Hải Phòng.
- Ngày 23-9-1940, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật.
- Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp –
Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
* Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
+ Thể hiện ở văn kiện  :
- Thông cáo của ĐCSĐD, ngày 29-9-1939, “Hoàn cảnh
Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 6, họp tháng
11-1939, tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định), do đồng chí
Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
- Hội nghị Trung ương 7, thán 11/ 1940, tại làng Đình Bảng
(Từ Sơn, Bắc Ninh).
- Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng vào
tháng 5-1941, ở Pắc Pó Cao Bằng, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
+ Nội dung chủ trương :
1. Chống phong kiến và chống đế quốc
+ Hội nghị Trung ương 6 (11/1939):
- Hội nghị quyết định chuyển hướng chỉ đạo đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Đối với nhiệm vụ chống phong kiến, hội nghị chủ trương
tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” mà thay bằng các khẩu
hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất
của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân
cày, nhằm tập hợp mọi lực lượng để giải phóng dân tộc.
+ Hội nghị Trung ương 8 (5/1941):
- Hội nghị khẳng định : Cách mạng ĐD lúc này không phải
là cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và thổ
địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn
đề cần kíp là “dân tộc giải phóng”. Hội nghị quyết định tiếp tục
chuyển hướng chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu. Nhưng vấn đề dân tộc phải được giải quyết trong
khuôn khổ từng nước Đông Dương, ba nước có thể hỗ trợ lẫn
nhau nhưng không lệ thuộc vào nhau.
- Đối với nhiệm vụ chống phong kiến, Hội nghị quyết định
tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, mà thay bằng
các khẩu hiệu, tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia
cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho nông dân, giảm
tô, giảm tức… nhằm tập hợp mọi lực lượng phục vụ cho mục tiêu
số 1 là giải phóng dân tộc.
2. Chủ trương thành lập MTDTTN nhằm tập hợp mọi lực
lượng, phục vụ cho nhệm vụ giải phóng dân tộc.
+ Hội nghị Trung ương 6 (11/1939): chủ trương thành lập Mặt
trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (thay cho mặt trận dân
chủ ĐD), đoàn kết tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá
nhân yêu nước ở Đông Dương để chống thực dân Pháp và tay sai
giành độc lập cho dân tộc.
+ Hội nghị trung ương 8 (5/1941): từ việc khẳng định vấn đề dân
tộc được giải quyết trong khuôn khổ từng nước ĐD, hội nghị chủ
trương thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng, nhằm
đoàn kết mọi lực lượng, tranh thủ mọi lực lượng để GPDT.
- Mỗi nước thành lập một mặt trận riêng về vấn đề dân tộc
được giải quyết trong khuân khổ từng nước Đông Dương và 3
nước Đông Dương có thể hỗ trợ lẫn nhau chứ không phụ thuộc
vào nhau.
3. Vấn đề khởi nghĩa vũ trang.
+ Hội nghị Trung ương lần 7 (tháng 11-1940) quyết định đưa
khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự.
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941), khẳng định chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân
trong
giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã đưa ra phương châm khởi nghĩa, đi từ
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương thắng lợi, tiến tới một
cuộc tổng khởi nghĩa giàng chính quyền.
- Hội nghị Trung Ương 8 hoàn thiện hơn hội nghị trung ương
7
+ Khởi nghĩa vũ trang là điểm quan trọng trong thời
điểm hiện tại
+ Phương châm lãnh đạo
4. Mô hình nhà nước.
+ Hội nghị Trung ương 6 chủ trương nếu cách mạng thành công
sẽ thành lập Liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương. (Khác nhau
về thi hành chính sách mới về một mô hình nhà nước)
+ Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) khẳng định thi hành chính
sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật, các dân tộc
trên cõi Đông Dương sẽ tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ
hay đứng riêng thành lập một quốc gia độc lập tùy ý. Đối với VN, hội
nghị chủ trương: sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ. Chọn Quốc kỳ
là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh.
5. Vấn đề xây dựng Đảng
Các hội nghị Trung ương của Đảng đều chú trọng công tác xây
dựng Đảng như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuẩn bị cho CMT8. Vì
vậy, trong cách mạng tháng Tám có 5.000 đảng viên và một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
=> Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhận
thức nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên cao hơn hết thảy, tập hợp rộng
rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây
dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị,
xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, nâng cao hơn
nữa năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng là tinh thần chung của quá
trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
* Ý nghĩa của chủ trương
+ Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được hoàn chỉnh
góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là
độc lập dân tộc, đưa đến những chủ trương, sự chỉ đạo đúng đắn để
thực hiện mục tiêu đó.
+ Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giúp cho nhân dân ta có
đường hướng đúng để tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh
Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
+ Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng giúp công tác
chuẩn bị giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương
trong cả nước, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng của
quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.
- Lực lượng cách mạng đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu
quốc của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và
phong trào đấu tranh của quần chúng.
- Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng cách mạng,
từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm cơ sở đưa tới sự
ra đời của Việt Nam Giải phóng quân sau này.

3: Điều kiện khách quan


+ Giữa tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Phát
xít Đức đầu hàng Đồng minh, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan
đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném
hai quả bon nguyên tử xuống các thành phố Hirôsima và Nagazaki.
Chính phủ Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Quân Nhật ở
Đông Dương mất hết tinh thần. Chính quyền do Nhật dựng lên hoang
mang cực độ. Thời cơ cách mạng xuất hiện.
+ Theo quyết định của Hội nghị Pốt xđam (Posdam, 7-1945),
quân đội Trung Hoa dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra
và quân đội của Liên hiệp Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải giáp
quân đội Nhật. Pháp toan tính, với sự trợ giúp của Anh, sẽ phục hồi
bộ máy cai trị cũ ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trung Hoa dân quốc
muốn có một chính quyền người Việt Nam từ Trung Quốc kéo về ở
miền Bắc.
+ Từ chỗ hợp tác với Việt Minh chống quân phiệt Nhật trong
Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Mỹ không ngần ngại quay
lưng lại phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Tại
Hội nghị Ianta (2-1945), Tổng thống Mỹ Rooseveld hoàn toàn “nhất
trí với đề nghị chỉ để các thuộc địa dưới quyền uỷ trị nếu “mẫu quốc”
đồng ý. “Mẫu quốc” của Đông Dương không ai khác là nước Pháp.
Từ đó, Mỹ ngày càng nghiêng về phía Pháp, ủng hộ Pháp trở lại xâm
lược Đông Dương, nhất là sau khi Rooseveld qua đời (12-4-1945) và
Harry Truman bước vào Nhà Trắng. Mùa hè năm 1945, Mỹ cam kết
với De Gaulle rằng sẽ không cản trở việc Pháp phục hồi chủ quyền ở
Đông Dương.
+ Trong khi đó, những thế lực chống cách mạng ở trong nước
cũng tìm cách thay thầy đổi chủ. Một số người trong Chính phủ Bảo
Đại-Trần Trọng Kim quay sang tìm kiếm sự trợ giúp của một số
cường quốc, với hy vọng giữ chế độ quân chủ. Tại cuộc họp ở cung
điện Huế, ngày 17-8-1945, do Bảo Đại làm chủ toạ, Trần Văn
Chương đọc các bản dự thảo thông điệp của nhà Vua kêu gọi sự giúp
đỡ của các nước Mỹ, Anh, Trung Hoa dân quốc, và Pháp để “bảo vệ
nền độc lập giành được từ trong tay Nhật”
Điều kiện chủ quan
1. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc vốn có truyền thống yêu nước
nồng nàn, từng trải qua nhiều cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất
giành độc lập, tự do. Khi Đảng Cộng Sản Đông Dương và Mặt trận
Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên
đấu tranh.
1.1. Phong trào CM 1930 – 1935
PT CM 1930 – 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh
HNTW lần thứ nhất và Luận cương chánh trị của Đảng Cộng
sản Đông Dương.
Từ tháng 1-5/1930, phong trào đấu tranh của công nhân nổ ra
liên tiếp ở nhiều cơ sở nhà máy, đồn điền như Hải Phòng, Sài Gòn,
Nam Định,...và phát triển thành cao trào vào T9/1930, làm cho bộ
máy chính quyền của địch ở nhiều nơi tan rã. KQ là thất bại ; bị đế
quốc và tay sai dìm trong biển máu nhưng cao trào 1930-1931 có ý
nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng VN,
khẳng định quyền và năng lực lãnh đạo của giai cấp vô sản (Đảng ta)
trong thực tế, đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào sức lực
cách mạng vĩ đại. Cao trào bước đầu tạo ra trận địa và lực lượng cách
mạng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước.
Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu: kết hợp
hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong
trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của nông dân,
thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách
mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang…
1.2. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức của Đảng và phong trào cách
mạng 1932-1935
Đây là giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ của cách mạng VN do bị
tổn thất nặng nề từ giai đoạn 1930-1931. Trong thời gian này, Ban
thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra các thông cáo Thông cáo về
việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra đầu thú, vạch rõ thủ đoạn của kẻ
thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
T5/ 1931, Thường vụ Trung Ương đảng vạch ra phương hướng xây
dựng Đảng
- Các cuộc đấu tranh của đảng viên trong nhà tù đế quốc: đấu
tranh chống lại chế độ hà khắc, cải thiện sinh hoạt. Tổ chức bồi
dưỡng huấn luyện đảng viên trong nahf tù
- Tổ chức nhiều chương trình hành động vạch ra nhiệm vụ đấu
tranh như: Chương trình hành động của ĐCS Đông Dương, diễn
đàn công khai tại các hội để tuyên truyền cổ động quần chúng.
Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở
ngoài của Đảng cộng sản Đông Dương được thành lập, hoạt động như
một ban chấp hành trung ương lâm thời.
Đến đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được phục hồi. Đó là
cơ sở để tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao
(Trung Quốc), đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: 1- Củng cố và phát triển
Đảng, 2- Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng, 3- Mở rộng
tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng
hộ cách mạng Trung Quốc… Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị,
Điều lệ Đảng và các nghị quyết về vận động quần chúng. Đại hội bầu
Ban Chấp hành Trung ương mới do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư.
Tuy nhiên, Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) vẫn chưa đề ra một
chủ trương chiến lược phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, chưa
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng toàn
dân tộc. Tuy nhiên, Đại hội lần thứ I đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ
chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng, tạo điều kiện để
bước vào một cao trào cách mạng mới.

1.3. Phong trào vận động dân chủ 1936 – 1939


Hoàn cảnh lịch sử
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 làm cho mâu
thuẫn ở các nước trở nên sâu sắc, chủ nghĩa phát xít muốn gây chiến
để chia lại thị trường thế giới và đe doạ nền hoà bình và an ninh quốc
tế.
Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Mátxcơva (7-1935): xác định kẻ
thù của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Thiết mặt trận nhân
dân chống chủ nghĩa phát xít, tiêu biểu MTND Pháp (5/1935) giành
nhiều thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử 1936.
* Chủ trương của Đảng
Tháng 7-1936, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại
Thượng Hải (Trung Quốc), do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì.
Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến
tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân
chủ, cơm áo và hòa bình.
Chủ trương “lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao
gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng
tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh
đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ”.
Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp
pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công
khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật, bất hợp pháp.
Các Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937) Ban Chấp
hành Trung ương Đảng bàn sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng,
quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt
động để tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản
động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1938 nhấn mạnh “lập Mặt trận
dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai
đoạn hiện tại .
Cùng với việc đề ra chủ trương cụ thể, trước mắt để lãnh đạo phong
trào dân chủ 1936-1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng đặt vấn đề
nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và điền địa. Chỉ
thị của Ban Trung ương Gửi các tổ chức của Đảng (26-7-1936) chỉ
rõ: ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại,
nếu chỉ quan tâm đến sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp, có thể
sẽ nảy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào dân tộc”.
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (tháng 10-1936),
Đảng nêu quan điểm: Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải
kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Giải quyết mối quan hệ hai
cuộc cách mạng đó như thế nào phải phụ thuộc vào hoàn cảnh hiện
thực của Đông Dương. Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu
cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và
bước đầu khắc phục hạn chế trong Luận cương chính trị của Đảng
Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng). Đó cũng là
nhận thức mới, phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc.
o Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên
quy mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với
những hình thức đấu tranh phong phú:
+ Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai của quần
chúng, mở đầu bằng cuộc vận động lập “Ủy ban trù bị Đông
Dương đại hội” nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới
triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương. Hưởng ứng
chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít
tinh, hội họp để tập hợp “dân nguyện”. Trong một thời gian
ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, từ thành thị đến
nông thôn đã lập ra các “Ủy ban hành động” để tập hợp quần
chúng. Riêng ở Nam Kỳ có 600 ủy ban hành động.
+ Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của chính phủ Pháp là
Gôđa (Godard) đi kinh lý Đông Dương và Brêviê (Brévié) sang
nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động hai cuộc
biểu dương lực lượng quần chúng dưới danh nghĩa “đón rước”,
mít tinh, biểu tình, đưa đơn “dân nguyện”.
+ Các báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng, Mặt trận Dân
chủ Đông Dương ra đời. Nhiều sách chính trị phổ thông được
xuất bản để giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới
của Đảng. Cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh)
và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và
phong kiến đối với nông dân và làm rõ vai trò quan trọng của
nông dân trong cách mạng. Cuốn Chủ nghĩa Các Mác của Hải
Triều được in và phát hành năm 1938. Ngoài ra còn một số cuốn
sách giới thiệu về Liên Xô, cách mạng Trung Quốc, Mặt trận
nhân dân Pháp và Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha.
+ Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ
cuối năm 1937 phong trào truyền bá quốc ngữ phát triển mạnh.
+ Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi, bao gồm
các hội tương tế, hội ái hữu. Trong những năm 1937-1938, Mặt
trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận động tranh cử vào các
Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ,
Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương.
+ Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân
Pháp đàn áp cách mạng. Đảng rút vào hoạt động bí mật. Cuộc
vận động dân chủ kết thúc. Đó thực sự là một phong trào cách
mạng sôi nổi, có tính quần chúng rộng rãi, nhằm thực hiện mục
tiêu trước mắt là chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự
do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Qua cuộc vận động dân chủ,
Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người được tập
hợp, giác ngộ và rèn luyện.
+ Phong trào để lại thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh
nghiệm về chỉ đạo chiến lược: giải quyết mối quan hệ giữa mục
tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây dựng một mặt trận
thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị,
phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất; về kết hợp các
hình thức tổ chức và đấu tranh.
+ Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực
lượng cách mạng được mở rộng ở cả nông thôn và thành thị,
thực sự là một bước chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám sau này.
+ Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945
Bối cảnh lịch sử:
+ Thế giới: chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ
- Ngày 1/9/1939, Đức bất ngờ tấn công Ba lan. Ngày 3/9/1939,
Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Như vậy, chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ.
- Tại nước Pháp, chính phủ Đalađiê (Daladier) thi hành một loạt
biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào
cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
- Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Đờ Gôn (De
Gaulle) bỏ chạy. Chính phủ phản động Pêtanh (Pétain) lên cầm
quyền. Tháng 6-1941, Đức tiến công Liên Xô, chiến tranh lan
rộng. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ.
Quân Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh
ở trên biển và trong đất liền, cuộc chiến tranh lan rộng ra toàn
thế giới.
+ Đông Dương :
Thực dân Pháp tăng cường bộ máy đàn áp, lệnh thiết quân luật
được ban bố. Ngày 28-9-1939 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị
định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông
Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội, đoàn, đóng cửa
các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người…
- Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ
máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện
chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người,
sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc.
- Tháng 9-1940, Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp
đầu hàng và câu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân
Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh
“một cổ hai tròng”, mâu thuẫn dân tộc phát triển sâu sắc, đòi hỏi
cần phải giải quyết cấp bách. Vì vậy, Đảng chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược.
* Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
Đảng
+ Thể hiện ở các văn kiện :
- Thông cáo của ĐCSĐD, ngày 29-9-1939, “Hoàn cảnh Đông
Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 6, họp tháng
11-1939, tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định), do đồng chí
Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
- Hội nghị Trung ương 7, thán 11/ 1940, tại làng Đình Bảng (Từ
Sơn, Bắc Ninh).
- Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng vào
tháng 5-1941, ở Pắc Pó Cao Bằng, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
+ Nội dung chủ trương:
1. Đảng khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của CMVN là
đúng đắn và không thay đổi, lúc này Đảng chuyển hướng
chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
còn nhiệm vụ chống phong kiến được thực hiện từng bước
phục vụ cho nhiệm vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
2. Chủ trương thành lập MTDTTN nhằm tập hợp mọi lực
lượng, phục vụ cho nhệm vụ giải phóng dân tộc.
3. Vấn đề khởi nghĩa vũ trang
4. Mô hình nhà nước
5. Vấn đề xây dựng Đảng
b. Đảng Lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền (1941-
1945)
* Phong trào chống Pháp-Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực
lượng cách mạng
* Cao trào kháng nhật cứu nước:
Cuộc kháng chiến chống Nhật cứu nước
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (*)
Điều kiện lịch sử: NN KQ
*Chủ trương của Đảng
+ Nắm bắt được tình hình trên, ngày 12-8-1945, Ủy ban lâm
thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-
1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy
ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi
nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi
nghĩa trong toàn quốc.
+ Ngày 14 và 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở
Tân Trào, tập trung phân tích tình hình và dự đoán:
1. Nhận định: “Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc
Pháp lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương”.
2. Hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi
nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân
Đồng minh vào Đông Dương.
3. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn
toàn độc lập! Chính quyền nhân dân! Hội nghị xác định ba
nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp
thời.
4. Phương hướng hành động trong tổng khởi nghĩa: phải đánh
chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông
thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh
thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy
những căn cứ chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng minh
vào, thành lập ủy ban nhân dân ở những nơi đã giành được
quyền làm chủ…
5. Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính
sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính
quyền.
- Ngày16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Đại hội
có khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các
đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo trong
nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài tham dự. Đại hội tán
thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính
sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt
Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
- Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả
nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy
ở cả thành thị và nông thôn, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho
được độc lập.
o

2. Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương, đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh, đã đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đảng có quá
trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo đặc biệt là lãnh đạo chuẩn bị lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng trong giai đoạn
vận động giải phóng dân tộc 1939-1945 được chuẩn bị kỹ càng. Các
cấp bộ Đảng và Việt Minh từ Trung ương đến địa phương sáng tạo,
linh hoạt chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động nổi dậy giành
chính quyền.

*Ý nghĩa lịch sử
+) Đối với trong nước
– Mở ra bước ngoặt mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, phá tan
xiềng xích nô lệ của Pháp hơn 80 năm và phát xít Nhật gần 5 năm,
chấm dứt chế độ phong kiến thối nát lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Việt Nam từ 1 nước thuộc địa, phụ thuộc, thân phận nô
lệ trở thành người làm chủ đất nước.
– Thắng lợi của cách mạng tháng 8 đánh dấu bước nhảy vọt của cách
mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc. Kỷ
nguyên độc lập tự do , kỷ nguyên nhân dân năm chính quyền, làm chủ
đất nước, kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã
hội, giải phóng nhân dân lao động.
– Đảng Cộng Sản Đông Dương tử chỗ hoạt động bí mật, trở thành
Đảng cầm quyền và hoạt động công khai, từ hoạt động bất hợp pháp,
trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
Khôi
+) Đối với thế giới:
– Thắng lợi cách mạng tháng 8 là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới
một dân tộc nhỏ chủ yếu tự giải phóng khỏi ách thực dân đế quốc và
thắng lợi đầu tiên của Đảng vô sản ở các nước thuộc địa, giành được
chính quyền cách mạng trong cả nước. Do đó, cách mạng tháng 8 góp
phần cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng có
ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Lào và Campuchia.
– Góp phần vào thắng lợi cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít,
chọc thủng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm
suy yếu chúng, tạo điều kiện cho các dân tộc đấu tranh và tự giải
phóng.

4: Đề bài: Làm rõ thành tựu cách mạng 2 miền


trong 1 giai đoạn (cụ thể).
Từ đó Chứng minh mối quan hệ và mục tiêu cuối
cùng là giải phóng miền nam thống nhất đất nước
Lựa chọn giai đoạn 1960-1965
Trong giai đoạn này khởi đầu ta cần chú ý đó là Đại hội đại biểu
lần thứ III của Đảng (9/1960).Lúc này miền Bắc đã hoàn toàn giải
phóng và từ đó phát triển thế tiến công đồng thời hỗ trợ miền Nam.
Đại hội có các nội dung như sau:
● Thời gian họp tháng 9-1960 tại Hà Nội. Mục tiêu đại hội xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình
thống nhất nước nhà.
❖ Nhiệm vụ của cách mạng từng miền
● Miền Bắc : xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng
vững mạnh của cả nước bằng cách đẩy mạnh cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc
● Miền Nam: giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn
thành độc lập và dân chủ trong cả nước bằng cách tiến hành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
❖ Về vị trí, vai trò của chiến lược cách mạng ở mỗi miền:
● Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của
toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà
● Miền Nam giữ vị trí quan trọng trong cách mạng có vai trò
quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước.
❖ Mối quan hệ về cách mạng 2 miền
● Hai chiến lược cách mạng thực hiện ở hai miền nhưng có
mối quan hệ mật thiết, tác động thức đẩy lẫn nhau cùng phát
triển và đều hướng vào mục tiêu chung trước mắt là giải
phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước
❖ Về hòa bình thống nhất Tổ quốc:
● Chủ trương đường lối hoà bình phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân cả nước
● Cảnh giác trước mọi tình hình, sẵn sàng đối phó trước mọi
tình huống có thể xảy ra, kiên quyết đấu tranh nếu kẻ địch
nhắm vào nước ta
❖ Về triển vọng cách mạng:
● Nhận định cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà là thiêng liêng
nhất
● Quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và
lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền
Nam
● Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc
nhất định sum họp một nhà.
❖ Về xây dựng xã hội chủ nghĩa:
● Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải
biến cách mạng về mọi mặt
● Là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường
xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm
đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá
thể về tư¬ liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
● đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền
thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết
với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống
ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành
cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
● sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử
của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần
kinh tế quốc doanh; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa bằng cách ưu tiến phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã
hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại,
văn hóa và khoa học tiến tiến.
⇨ Với những công việc đề ra ở Đại hội Đảng lần thứ 3, nước ta
đã có thành tựu ở cả 2 miền như sau:
❖ Miền Bắc
Giai đoạn này Việt Nam tiến vào thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961-1965) do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra
trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo xã
hội chủ nghĩa (1958-1960).
- Nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi dã diễn ra trên
miền Bắc: Duyên hải, Đại phong, Thành công, Ba nhất, Hai
tốt…, đặc biệt là phong trào Mỗi người làm việc bằng hai vì
miền Nam ruột thịt.
- Nông nghiệp:
+ Thực hiện chủ trương xây dựng hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp bậc cao.
+ Áp dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
+ Hệ thống thủy nông phát triển, nhiều công trình được xây
dựng.
+ Năng xuất tăng cao, vượt 5 tấn thóc trên 1 hécta.
- Công nghiệp:
+ Giai đoạn 1961 - 1965, có 100 cơ sở sản xuất mới được xây
dựng, nhiều nhà máy được mở rộng.
+ Công nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng 93% trong tổng giá
trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc, giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân.
+ Công nghiệp nhẹ cùng với tiểu thủ công nghiệp đã giải
quyết được 80% hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân.
- Thương nghiệp quốc doanh: được Nhà nước ưu tiên phát
triển, chiếm lĩnh được thị trường, góp phần vào phát triển
kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất mới, ổn định và cải thiện đời
sống nhân dân.
- Hệ thống giao thông: được củng cố. Việc đi lại trong nước và
giao thông quốc tế thuận lợi hơn trước.
- Hệ thống giáo dục: từ phổ thông đến đại học phát triển nhanh
- Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe được đầu tư phát triển,
khoảng 6 000 cơ sở y tế được xây dựng.
- Chi viện cho miền Nam vũ khí, đạn dược, thuốc men.Nhiều
đơn vị vũ trang, cán bộ quân sự, y tế giáo dục, bộ đội đưa vào
nam chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xây dựng vùng giải
phóng.
- Tuy nhiên, kế hoạch mới thực hiện được 4 năm nhưng bị bỏ
dở vì phải chuyển hướng đối phó với chiến tranh chống phá
hoại miền bắc của Mỹ
⇨ Giai đoạn này 1961-1965 , miền Bắc chủ yếu tiếp tục phát
triển và tăng cường hơn về mọi mặt.
⇨ Sau 4 năm thực hiên, mục tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm cơ
bản đã hoàn thành
⇨ Trải qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chế độ mới,
“miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng có trong
lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới”.
Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng
cả nước với chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và
quốc phòng lớn mạnh.
❖ Miền Nam
-Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời.
- Tháng 1/1961, Trung ương cục miền Nam thành lập.
- Tháng 2/1961, các lực lượng vũ trang thống nhất thành Quân
giải phóng miền Nam.
- Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Đảng lãnh
đạo nhân dân ta kết hợp đấu tranh chính trị với đầu tranh vũ
trang, nổi dậy tiến công địch trên ba vùng chiến lược (rừng núi,
nông thôn đồng bằng và đô thị), bằng ba mũi giáp công (chính
trị, quân sự, binh vận).
⇨ Giai đoạn này đã hoàn thiện tổ chức lãnh đạo cho cách mạng
miền Nam
- Các cuộc khởi nghĩa tiếp tục nổ ra đẩy lủi nhiều quốc tiến công
của địch.
- Cuộc chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc đã làm phong trào đấu
tranh chống “ấp chiến lược” phát triển mạnh mẽ.
- Các phong trào đấu tranh quân sự và đấu tranh vũ trang diễn ra
mạnh mẽ ở mọi nơi tạo sức mạnh lớn cho cách mạng làm nội
bộ kẻ địch hoảng sợ . Trong đó là là cái chết của anh em Ngô
Đình Diệm, Ngô Đình Nhu.
- Các chiến thắng Bình Giã(12-1964), Ba Gia(5-1965), Đồng
Xoài(7-1965), tạo ra hình thức tấn công mới cho cách mạng.
- Sau 4 năm chủ động và sáng tạo trong cách mạng, lực lượng
cách mạng đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh đăc biệt”
của đế quốc Mỹ. Chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ.
- Năm 1965, các cung cụ chỗ dựa của chiến tranh đặc biệt : nguỵ
quân, nguỵ quyền, ấp chiến lược, đô thị đều bị lung lay tận gốc.
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ hoàn toàn bị phá
sản.
⇨ Với những thắng lợi trong giai đoạn 1960-1965 đã tạo cơ sở
vững chắc đưa cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên
⮚ Mối liên hệ giữa cách mạng 2 miền
- Miền Bắc đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây
dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng
- Miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
=> trong đó giải pháp để đạt được là giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai , thực hiện
thống nhất nước nhà , hoàn thành độc lập và dân chủ cả
nước
Với tình hình 2 miền tạm thời bị chia cắt (miền Bắc hoàn toàn
giải phóng, miền Nam còn dưới sự cai trị của chủ nghĩa đế quốc và
tay sai) thì miền Bắc phải không ngừng lớn mạnh và ổn định hơn
thì mới có thể nâng cao lòng tin và tinh thần hăng hái cho cách
mạng miền Nam, không những thế còn làm lực lượng so sánh giữa
cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi cả nước ta càng
nghiêng về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng
miền Nam phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi cuối cùng
Trong khi đó muốn cho miền Bắc có hoàn cảnh hoà bình ổn
định xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết miền Nam phỉa kiên
quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai, làm thát bại các chính
sách chiến tranh của chúng từ đó mới có thời cơ cho miền Bắc phát
triển củng cố và xây dựng nền kinh tế.
⇨ Với mối quan hệ như vậy 2 miền luôn hỗ trợ nhau từ đó hoàn
thành 2 nhiệm vụ là xây dựng xã hội chủ nghĩa và cách mạng
dân tộc dân chủ. Với vai trò quyết định đối với vận mệnh
nước nhà thì giải phóng miền Nam mới thành hiện thực, có
giải phóng miền Nam mới có thống nhất đất nước. Miền Bắc
với vai trò quyết định sự phát triền của cách mạng trong khi
đó miền Nam có vai trò trực tiếp nhất trong cách mạng
⇨ Qua đó ta thấy 2 nhiệm vụ trên bổ trợ cho nhau và đều hướng
đến nhiệm vụ quan trọng nhất hiện tại đó là giải phóng miền
Nam (hay đưa miền Nam hướng đến cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân), chỉ khi miền Nam giải phóng thống nhất đất
nước thì Việt Nam mới ổn định tiến đến Chủ nghĩa xã hội
được

5: Đề tài : Làm rõ đổi mới kinh tế ở Đại Hội VI ?


*GIỚI THIỆU VỀ ĐẠI HỘI VI :
-Thời gian: 15 đến 18/12/1986

Địa điểm: Thủ đô Hà Nội

Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.129

Số lượng đảng viên trong nước:  gần 1,9 triệu

Có 32 đoàn đại biểu quốc tế đến dự

Đại hội bầu:

+ Tổng Bí thư: Đồng chí Nguyễn Văn Linh

+ Ban Chấp hành TƯ: 124 Ủy viên chính thức và 49 Ủy viên dự


khuyết

+ Bộ Chính trị: 13 Ủy viên chính thức và 01 Ủy viên dự khuyết

+ Cố vấn BCH Trung ương: Đ/c Trường Chinh, Phạm Văn


Đồng, Lê Đức Thọ.

* Hoàn cảnh lịch sử:


Thế giới
- Từ giữa thập kỷ 80, cuộc cách mạng khoa học công nghệ (đặc biệt là
công nghệ thông tin) phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi
mặt đời sống của các quốc gia dân tộc. Khoa học –kỹ thuật, công
nghệ trở thành động lực phát triển của nền kinh tế.

- Trước biến động của bối cảnh quốc tế, các nước XHCN tiến hành
cải cách, cải tổ. Tuy nhiên, hệ thống các nước XHCN lâm vào khủng
hoảng sâu sắc. Chế độ XHCN ở các nước Đông Âu lần lượt sụp đổ,
cuối cùng là Liên Xô dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc
tế.
- Các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình”, nhằm xuyên tạc
chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; lợi dụng
những chiêu bài dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá
chế độ chính trị dưới sự lãnh đạo của ĐCS, tron đó có VN.
Trong nước
- Những năm giữa thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta phổ biến vẫn là
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, hậu quả chiến tranh, thiên tai tàn phá
nặng nề.
- Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ khuyết tật. Đặc biệt
sai lầm của cải cách giá, lương, tiền làm cho kinh tế xã hội khủng
hoảng trầm trọng, lạm phat tăng 774%, đời sống nhân dân thì khó
khăn, lòng tin của nhân dân đối với Đảng thì giảm sút. Tình trạng
tham nhũng, lãng phí tràn lan vv…
Trước những biến động của tình hình thế giới và trong nước, Đảng
khẳng định: phải nhìn thẳng vào sự thật, phải nói rõ sự thật, phải đánh
giá đúng tình hình, phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế.

Đại hội đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm:


+ Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải phải
quán triệt tư tưởng: “lấy dân làm gốc”, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
+ Hai là, Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan.
+ Ba là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại trong điều kiện mới.
+ Bốn là, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một
đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
🡺 Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện.

- Nội dung đường lối đổi mới


1. Nhận thức về thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta:
Đại hội khẳng định thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là
một quá trình lịch sử tương đối lâu dài, phải trải qua nhiều chặng
đường; nước ta đang ở những năm còn lại của chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại
của chặng đường đầu tiên là: ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã
hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
CNHXHCN trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên là:
+) Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy;
+) bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản
xuất;
+) xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới;
+) tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội;
+) đảm bảo nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
2. Đổi mới về kinh tế
Về cơ cấu kinh tế:
Bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý: nông nghiệp - công nghiệp và dịch
vụ, trong đó tập trung thực hiện 3 chương trình mục tiêu: lương thực,
thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa
nội dung công nghiệp hóa ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa
Đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, với những hình thức và bước đi
thích hợp, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất.
Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, thực hiện
nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đại hội VI
khẳng định sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tiểu
sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn
bán và kinh doanh dịch vụ cá thể), kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân.
Về cơ chế quản lý kinh tế:
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh XHCN, kết hợp kế
hoạch với thị trường.

6: Làm rõ 4 nguy cơ mà hội nghị đã xác định trong


Đại hội XII và
biện pháp khắc phục.
Bài làm
1, Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp:
Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những
nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc,
Cu-ba, Lào. Vì toàn cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do
chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối
cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào, nên tác động
tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa lại càng rõ rệt. Về phương diện kinh tế, đây là cuộc cạnh tranh,
đấu tranh hết sức cam go và phức tạp giữa các nước trong bối cảnh
các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối
toàn cầu hóa. Hai thách thức lớn nhất về kinh tế là: Nguy cơ mất độc
lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế
đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện nay.

Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục,
ổn định trong 20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy:
Xét về số tuyệt đối thì GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một
doãng ra với tốc độ rất nhanh so với GDP của Việt Nam. Nếu cách
đây 30 năm, GDP của thế giới hơn GDP của Việt Nam là 3.900 USD
thì nay con số đó là 7.500 USD. Nói cách khác, dù Việt Nam đã đi
được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hâu so
với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi
được những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách thức thực sự, là
một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược tổng
thể, dài hạn để khắc phục.

Biện pháp:
Thứ nhất, phát triển nhanh và bền vững; dựa chủ yếu vào khoa học
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phải đổi mới tư duy và
hành cộng, chủ động nắm bắt cơ hội; phát triển hài hòa 3 trụ cột kinh
tế - xã hội và môi trường.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; lấy
cải cách, nâng cao chất lượng thể chế và thực thi pháp luật hiệu lực,
hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực;
thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, các sản phẩm dịch vụ, mô
hình mới; côi trọng quản lý phát triển xã hội; phát triển nhanh, hài hòa
các khu vực kinh tế, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực
quan trọng của nền kinh tế;..
Thứ ba, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng sức mạnh nội
sinh quan trọng; phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước;…
Thứ tư, xây dựng nền kinh tế tự chủ trên cơ sở làm chủ công nghệ và
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; phát huy nội lực là yếu tố quyết
định gắn lới ngoại lực và sức mạnh thời đại;..
Thứ năm, chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết
chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường
với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương,
an toàn…

2, Nguy cơ sai lầm đường lối, đi chệch định hướng xã hội


chủ nghĩa:
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, một số cán bộ, đảng viên
muốn rập khuôn kinh nghiệm cải tổ, cải cách của nước ngoài, nhất là
trong đổi mới chính trị, đổi mới kinh tế và hoạt động báo chí, văn hóa,
văn nghệ. Đã chớm nở khuynh hướng đòi “dân chủ, công khai" một
cách cực đoan; khuynh hướng phủ nhận quá khứ, bôi đen hiện thực;
khuynh hướng muốn chuyển nhanh nhất loạt sang cơ chế thị trường tự
do, muốn tư nhân hóa hoàn toàn, "thương mại hóa" báo chí, xuất
bản... Những khuynh hướng này đã được ngăn chặn, uốn nắn kịp thời.
Các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã định hướng tư tưởng trong toàn Đảng và xã hội. Thực
sự có cuộc đấu tranh tư tưởng sâu rộng để đổi mới và giữ vững định
hướng XHCN.

Thực tế Đảng ta cũng đã phạm những khuyết điểm, sai lầm.


Điều quan trọng là Đảng ta không che giấu khuyết điểm, sai lầm, mà
công khai thừa nhận, thành tâm lắng nghe ý kiến nhân dân. Và một
khi phát hiện và nhận ra sai lầm thì quyết tâm sửa chữa để phấn đấu đi
lên, từ đó Đảng ngày càng trưởng thành, lớn mạnh.

Có thể khẳng định, có được đường lối chính trị đúng trong hoàn
cảnh phát triển bình thường đã là việc khó; ở những bước ngoặt của
lịch sử, trong bối cảnh đất nước và quốc tế có những diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, thì việc Đảng ta xác định được một đường lối chính
trị đúng và bảo đảm cho đường lối đó thành hiện thực càng khó khăn
hơn. Nó là kết quả của trí tuệ, tài năng, phẩm chất, khí phách. Nó trải
qua một quá trình suy tư gian khổ, tìm tòi, đổi mới tư duy lý luận,
tổng kết thực tiễn, có khi phải làm đi làm lại nhiều lần, thậm chí có
lúc đã không tránh khỏi sai lầm và tạm thời thất bại.
Biện pháp:
Trước hết, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và từng đảng viên cần giữ vững
bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng. Bản chất giai cấp của
Đảng thể hiện trước hết ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Khi định ra
đường lối, chính sách, Đảng phải luôn luôn đứng vững trên lập trường
cách mạng của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng kiên định lập
trường có tính nguyên tắc của mình là lãnh đạo nhân dân xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh theo con đường XHCN. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình hình
trong nước và thế giới dù khó khăn, phức tạp đến đâu, Đảng cũng
vững vàng, không xa rời mục tiêu, lý tưởng của mình, đấu tranh
không mệt mỏi cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.

Hai là, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội VII của
Đảng chính thức khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Đảng ta,
cho đến nay tuy có những vấn đề cần bổ sung và phát triển, nhưng
Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn là học thuyết cách mạng và khoa học nhất,
tiên tiến nhất, không thể bác bỏ, phủ nhận (cả về phương pháp luận
cũng như hệ thống những luận điểm cơ bản). Tư tưởng Hồ Chí Minh
là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-
Lênin vào thực tiễn Việt Nam, kế thừa và phát huy những giá trị văn
hóa của dân tộc và nhân loại. Đó là một hệ thống những luận điểm về
cách mạng Việt Nam gắn liền với những biến động của thế giới, có
quan hệ đến đời sống của giai cấp và dân tộc, xã hội và con người,
quốc gia và quốc tế.

Ba là, giữ vững và bảo vệ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh.
Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất, đoàn kết chặt chẽ "trăm
người tiến đánh chỉ như một người". Xa rời hoặc không thực hiện
nghiêm túc tập trung dân chủ thì Đảng không thể có được sức mạnh.
Bên cạnh đó, thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình, đoàn
kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết
với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.

Bốn là, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Bác
Hồ khẳng định, Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm lãnh
đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lo đến cả "tương cà, mắm
muối” và những thứ cần thiết cho đời sống thường ngày của nhân dân.
Phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải cải
tiến, đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao chất lượng và
hiệu quả lãnh đạo của Đảng; phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân. Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà
nước; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của
hệ thống chính trị.

Quán triệt những nguyên tắc cơ bản trên đây, chúng ta sẽ từng bước
đổi mới, chỉnh đốn Đảng có kết quả, đồng thời tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng ta
thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ;
làm cho Đảng có đủ trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo
đức, đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao, đảm đương sứ mệnh
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi.

“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái
đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết
điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế
là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. 

3, Nguy cơ tham nhũng và tệ quan liêu, lãng phí:


Hệ thống chính sách, pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật về
kinh tế của chúng ta còn thiếu và chưa đồng bộ; không ít văn bản
pháp luật đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa thể áp dụng bởi chưa có
văn bản hướng dẫn; văn bản pháp luật chung chung, thiếu cụ thể, mỗi
nơi áp dụng một kiểu. Thủ tục hành chính còn rườm rà, tốn kém, bất
hợp lý đang là “kẽ hở” để bọn người thoái hóa biến chất lợi dụng
tham nhũng, lãng phí.
Việc kiểm tra, giám sát từ bên trong bộ máy nhà nước để phát hiện
tham nhũng vẫn đang là khâu yếu, không phát huy tác dụng; chế tài
xử lý vi phạm thiếu chặt chẽ, rõ ràng, còn nhiều sơ hở. Biện pháp xử
lý cán bộ, đảng viên khi vi phạm chưa kiên quyết, còn nương nhẹ,
thậm chí còn bao che, dung túng kẻ phạm tội vì “trách nhiệm tập thể
chưa được xác định rõ ràng, vai trò cá nhân phụ trách chưa được đề
cao; kỷ luật không nghiêm”.
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý kinh tế còn yếu về nghiệp vụ,
kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức.
Cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách mặc dù đã được quy định
khá chi tiết trong nhiều văn bản pháp quy, đặc biệt là Quy chế dân
chủ ở cơ sở, ở cơ quan xí nghiệp, đơn vị, xã, phường, thị trấn (nay là
Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở) vẫn cần tiếp tục hoàn thiện bởi vì chế tài
vẫn chưa rõ, rất khó quy trách nhiệm và xử phạt khi sai phạm xảy ra.
Như vậy, do không có cơ chế quản lý chặt chẽ, quyền lực nhà nước đã
bị lợi dụng trở thành quyền lực của cá nhân, hoặc của một nhóm
người. Do cơ chế quản lý yếu kém mà tài sản của Nhà nước, của nhân
dân rơi vào tình trạng “vô chủ”, những cán bộ thoái hóa, biến chất đã
lợi dụng quyền lực trong tay để chiếm tài sản công thành tài sản riêng
của cá nhân hoặc của một nhóm người. Tha hóa về quyền lực nhà
nước, và vô chủ về sở hữu tài sản công là những nhân tố tác động trực
tiếp làm cho sự tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng
viên càng trở nên nghiêm trọng, đòi hỏi cần có biện pháp quyết liệt,
hiệu quả hơn.
Về giải pháp đấu tranh phòng, chống tệ nạn tham nhũng, Đại hội XII
tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm
chính trị trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhận
thức về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được nâng lên
trong các cấp ủy, các ngành, các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính
trị, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân” (11).
Đại hội chỉ rõ: “các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền, và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng
chống tham nhũng... phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra
tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham
nhũng lãng phí, bao che, dung túng tiếp tay cho tham nhũng... ngăn
cản việc chống tham nhũng, lãng phí”(12).
Triển khai sự chỉ đạo của Đảng, Ban Chỉ đạo phòng chống tham
nhũng Trung ương đã thông qua kế hoạch kiểm tra, giám sát khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũngnghiêm trọng trong năm
2016; đã thành lập 7 đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra
vụ việc, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm
trọng phức tạp tại 14 tinh, thành phố.
Để triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII, trước hết cần nhận rõ,
tham nhũng liên quan đến tha hóa quyền lực, kiểm soát quyền lực,
nên để đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả cần tác động
vào chính cơ chế hình thành và nguyên nhân tạo ra tham nhũng trên
hai nội dung lớn: (1) kiểm soát quyền lực công; (2) kiểm soát tài sản
công hữu hiệu. Thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ tài sản công,
đảm bảo nguyên tắc quyền lực công và tài sản công chỉ được sử dụng
vì mục đích công, chứ không được sử dụng vì tư lợicá nhân.
Biện pháp:
Do vậy, để thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp
sau:
Một là, hoàn thiện thể chế, các văn bản pháp luật có liên quan trực
tiếp tới quyền sở hữu tài sản công, theo tinh thần “đảm bảo mọi tư
liệu sản xuất đều có chủ sở hữu”. Triển khai đồng bộ Luật phòng
chống tham nhũng, luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí kết hợp
chặt chẽ với việc xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người
tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch
thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao
che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng.
Hai là, thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính
trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh
nghiệp nhà nước. Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự
án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy
động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công,
công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện kê khai và công khai
tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định. Xây dựng chế
tài xử lý những tổ chức, cá nhân gây thất thoát, lãng phí lớn tài sản
của Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra,
kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng kết hợp với việc có cơ
chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực.Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng
viên thoái hóa biến chất, vi phạm lối sống, đạo đức.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu
khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí với kiên quyết đấu
tranh với tệ nạn bè cánh, ô dù, góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức
và năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bốn là, công tác tuyển chọn, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ phải
đảm bảo nguyên tắc cán bộ phải là người có đức, có tài, “lấy hiệu quả
công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu”; vì công
việc mà bố trí cán bộ chứ không phải vì cán bộ mà bố trí công việc,
tránh tình trạng nể nang, tiêu cực trong công tác cán bộ.

4, Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch,
phản động:
“Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các
nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ
yếu bằng các biện pháp phi quân sự. Như vậy, “Diễn biến hòa bình”
chỉ là sự thay hình, đổi dạng để che đậy bản chất của chủ nghĩa đế
quốc, gây mơ hồ ảo tưởng, dao động về mục tiêu lý tưởng đối với cán
bộ đảng viên và nhân dân lao động để tiến công chủ nghĩa xã hội.

Mục tiêu chiến lược của “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là làm
cho các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đa nguyên chính trị, kinh tế
tư nhân hóa; xã hội phương tây hóa; cuối cùng làm cho chế độ xã hội
chủ nghĩa chuyển hóa thành chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương thức
tiến hành, thực hiện sự thẩm thấu hòa bình, làm cho chủ nghĩa xã hội
mục rỗng từ bên trong, tự sụp đổ theo kiểu chiến thắng không cần
chiến tranh. Chúng thực hiện bằng sự tiến công xâm nhập vào trong
lòng các nước xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh các thủ đoạn phi quân sự
như: Chính trị, tư tưởng, kinh tế, ngoại giao, tâm lý, lối sống... làm
biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trong lòng nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Các thế lực thù địch kết hợp chặt chẽ giữa “Diễn biến hòa
bình” với bạo loạn lật đổ và răn đe quân sự.

Tính chất của “Diễn biến hòa bình” rất độc ác, nham hiểm, tinh vi và
phức tạp. Chúng đánh thẳng vào trong lòng chủ nghĩa xã hội, thực
hiện âm mưu “tự diễn biến” hòng tạo ra sự mất ổn định từ bên trong,
trước hết về chính trị ngay từ nội bộ Đảng cộng sản. Đây là cuộc đấu
tranh hết sức gay go và phức tạp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản, là cuộc đấu tranh không phân tuyến, kẻ thù vừa trực diện vừa
giấu mặt, vừa công khai vừa bí mật, nó len lỏi vào mọi lực lượng, mọi
lĩnh vực, ở mọi lúc mọi nơi đối với cả con người và tổ chức, kết hợp
cả lực lượng bên trong và lực lượng bênngoài.

Chính kẻ thù chỉ ra rằng: “Diễn biến hòa bình” có ưu điểm hơn hẳn
thủ đoạn và phương thức tiến hành chiến tranh ở chỗ nó không khêu
gợi tinh thần cảnh giác của đối phương mà nhiều khi còn ru ngủ tinh
thần đấu tranh của đối phương. Theo họ, điều kiện cần thiết để thực
hiện “Diễn biến hòa bình” là mở rộng tiếp xúc, giao lưu giữa hai hệ
thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Những cơ sở thúc đẩy chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đẩy
mạnh “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá chủ nghĩa
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán của
chủ nghĩa đế quốc là tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, lật đổ sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, bắt các nước xã hội chủ nghĩa phải đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa của chủ nghĩa đế quốc. Khôi phục một thế giới thống
nhất tư bản chủ nghĩa theo một trật tự của chủ nghĩa tư bản. Đó là bản
chất không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc. Kể từ khi nhà nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1917 và hệ thống xã hội
chủ nghĩa ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay, từng giây
từng phút chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ lơi lỏng mục tiêu đó. “Diễn
biến hòa bình” lúc đầu chỉ đóng vai trò thủ đoạn để hỗ trợ các chiến
lược quân sự, đến đầu những năm 50 của thế kỷ XX đã trở thành một
chiến lược quân sự và đến giữa thập kỷ 80, do tình hình thế giới có
những biến động phức tạp, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, chúng đã
đẩy mạnh và thực thi toàn diện “Diễn biến hòa bình” chống phá chủ
nghĩa xã hội.
Trong một thời gian dài, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành nhiều chiến
lược quân sự gây chiến tranh chống phá chủ nghĩa xã hội, nhưng đều
thất bại. Việc chủ nghĩa đế quốc thực hiện ráo riết hơn “Diễn biến hòa
bình” chính là nhằm khắc phục sự hạn chế của các thủ đoạn quân sự,
che đậy bản chất xâm lược của chúng. Họ hy vọng rằng đẩy mạnh
“Diễn biến hòa bình” làm “ruỗng nát” chủ nghĩa xã hội từ bên trong
mà đòn tác động tư tưởng tâm lý tạo nên sự chuyển hóa về lập trường
chính trị là đòn trọng yếu nguy hiểm nhất tạo nên sức “hủy diệt” từ
bên trong, đẩy đối phương đến suy yếu toàn diện, rối loạn nội bộ và
sụp đổ nhanh hơn.

Mặt khác trong vài thập kỷ gần đây, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng
thành công nhiều thành tựu khoa học và công nghệ vào lĩnh vực sản
xuất, tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn. Trong khi đó các nước xã
hội chủ nghĩa có những khó khăn nhất định. Đây là cơ hội để chúng
sử dụng đòn kinh tế tiến công chủ nghĩa xã hội: Viện trợ kinh tế kỹ
thuật của chủ nghĩa tư bản nhằm làm vật mồi chài để xâm nhập,
khống chế, nhượng bộ về chính trị, tiến tới can thiệp vào công việc
nội bộ và lôi kéo các nước xã hội chủ nghĩa vào quỹ đạo tư bản chủ
nghĩa. Họ xác định những khó khăn về kinh tế - xã hội của các nước
xã hội chủ nghĩa là thời cơ có lợi để sử dụng đòn kinh tế trong chiến
lược “Diễn biến hòa bình”.

Lợi dụng xu thế hòa dịu trên thế giới và những sai lầm khuyết điểm
trong cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa để thực hiện ráo
riết hơn “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống chủ nghĩa xã hội.
Cuối 1987 thế giới xuất hiện xu thế hòa hoãn, hòa dịu và đối thoại,
đây là cơ hội cho sự xâm nhập của phương Tây vào các nước xã hội
chủ nghĩa bằng các thủ đoạn phi quân sự. Mặt khác, bước vào những
năm 1980, các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện cải cách, cải tổ
nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra cho phù hợp với quy
luật khách quan. Cải cách, cải tổ là công việc đầy khó khăn phức tạp
trên các bình diện xã hội, do đó không tránh khỏi những sai lầm vấp
váp. Đây chính là cơ hội ngàn vàng cho chủ nghĩa đế quốc luồn lách,
chui sâu, leo cao thực thi toàn diện “Diễn biến hòa bình”, kết hợp nội
công, ngoại kích để triệt phá chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà
bình” diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, trong
đó Việt Nam là trọng điểm, trước hết chúng ra sức phá hoại về mặt
chính trị tư tưởng. Mục tiêu “Diễn biến hòa bình”của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch là thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng cộng
sản, chúng phá hoại làm cho Đảng cộng sản suy yếu mọi mặt, chia rẽ
nội bộ Đảng, làm cho quần chúng xa rời Đảng, mất phương hướng,
rời xa chủ nghĩa xã hội, theo con đường chủ nghĩa tư bản. Đồng thời
các thế lực thù địch tìm mọi cách vô hiệu hoá lực lượng vũ trang, tách
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Quân đội.
Biện pháp:
Để phòng, chống DBHB và CMM của các thế lực thù địch, các cấp,
các ngành, LLVT và toàn dân phải tỉnh táo trước những âm mưu thủ
đoạn DBHB và CMM của các thế lực thù địch, phản động. Kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống Đảng, Nhà nước của các thế
lực thù địch, phản động; đảm bảo an ninh chính trị nội bộ; phòng
ngừa, ngăn chặn không để xảy ra CMM trong mọi tình huống. Nâng
cao ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, từ đó tham gia vào
công tác phòng, ngừa, ngăn chặn làm thất bại ý đồ thực hiện CMM. 
Từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ các nguyên nhân, điều kiện có thể
dẫn đến CMM ở nước ta. Trong đó tập trung giải quyết dứt điểm các
“điểm nóng” về an sinh xã hội như khiếu kiện, đình công, chủ động
triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trên lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, văn hóa, xã hội, kinh tế, tài chính, thông tin truyền thông, an
ninh mạng, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, không để các
thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tập hợp lực lượng, hình thành,
công khai hóa tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, tiến hành các
hoạt động biểu tình, bạo loạn trên quy mô lớn nhằm thực hiện CMM
ở Việt Nam.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố bảo vệ vững chắc an ninh
chính trị nội bộ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn, vi phạm pháp luật, nhất là trong
hàng ngũ cán bộ các cấp. Kiên quyết loại trừ các điều kiện hình thành
tổ chức chính trị đối lập, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập. 
Củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ
XHCN. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng hợp tác quốc
tế tạo nền tảng, sức mạnh chính trị, phục vụ phát triển kinh tế, tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đảm bảo giải quyết triệt để mầm
mống, nguy cơ CMM ở Việt Nam.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước XHCN quản lý, điều hành; kết hợp
chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phòng, chống
DBHB và CMM. Đây là một nguyên tắc chiến lược, quán triệt quan
điểm tổng hợp trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh phòng, chống
DBHB và CMM. Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là
một đặc trưng bản chất và là một ưu thế vượt trội để giành chiến
thắng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Nhờ
đó, chúng ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của các
lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên sthế giới, kết hợp chặt
chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó
khăn, thách thức và giành chiến thắng.

You might also like