You are on page 1of 5

Nội dung Luận cương chính trị bao gồm: 

- Chiến lược cách mạng: khẳng định tính chất của cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân
quyền, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên con đường XHCN.
- Nhiệm vụ chiến lược: đánh đổ phong kiến và đế quốc.
- Lực lượng cách mạng: vô sản (công nhân) và nông dân.
- Phương pháp cách mạng: vũ trang bạo động
* Hạn chế: Luận cương còn nặng về đấu tranh giai cấp, chưa thấy rõ khả năng cách mạng của
các tầng lớp khác ngoài công nông.

Trong Chính cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" (1). Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách
mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã hội làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ
bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân
(công, nông, binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết
sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt
của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao
động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của
nhân dân ta.
Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp,
lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa
trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới
để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến,
thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.
Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của
Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ hay
đặc biệt bộ và Trung ương.

Cương lĩnh
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được
hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.

Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận
tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh
quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày
làm tám giờ.

Về văn hoá – xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, …; phổ thông giáo dục
theo công nông hoá.
Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; làm cho các
đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của
bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân
Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến v.v.) thì đánh đổ.

Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Luận cương

Luận cương xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
+ Về mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương: một bên là thợ thuyền, dân cày và các
phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa.
+ Tính chất của cách mạng Đông Dương: lúc đầu “là một cuộc cách mạng tư sản
dân quyền… có tính chất thổ địa và phản đế” sau đó phát triển bỏ qua thời kỳ tư
bản tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
+ Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ các di tích phong kiến để
thực hành thổ địa cách nạng triệt để và đánh đổ đế quốc làm cho Đông Dương
hoàn toàn độc lập.
Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó “Vấn đề thổ địa là cái
cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.
+ Về lực lượng cách mạng: trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai
cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì
cách mạng mới thắng lợi được.
Các giai cấp và tầng lớp khác: tư sản thương nghiệp và công nghiệp đứng về phía
đế quốc; bộ phận thủ công nghiệp trong giai cấp tiểu tư sản có thái độ do dự, tiểu
tư sản thương gia không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức có xu hưỏng cải
lương.
+ Về phương pháp cách mạng: Luận cương nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng
bạo lực cách mạng: “võ trang bạo động”.
+ Về vai trò lãnh đạo của Đảng: “Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng
Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng,
có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải đấu tranh mà
trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Các Mác
và Lênin làm gốc”.
+ Về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Luận cương
chính trị nhấn mạnh: vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế
giới, nhất là vô sản Pháp, với quần chúng cách mạng ở các nước thuộc địa, bán
thuộc địa, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới.
Tính thống nhất và sự khác nhau giữa Luận cương chính trị (10-1930) với Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2-
1930)

Tính thống nhất:


Những nội dung của Luận cương chính trị thống nhất về cơ bản với Cương lĩnh
chính trị đầu liên của Hội nghị thành lập Đảng:
– Cùng xác định phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng là làm cách
mạng tư sản dân quyển và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
– Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng là: chông đế quốc và phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
– Tính chất của cách mạng lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền sau đó
liếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thắng lên con đường xã hội chủ nghĩa
(độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội).
– Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách nạng của quần chúng. Tuyệt đối
không đi vào con đường thoả hiệp.
– Về lực lượng lãnh dạo cách mạng là giai cấp vô sản thông qua đội tiền phong
của mình là Đảng Cộng sản.
– Về mối quan hệ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách mạng Việt
Nam với cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Những điểm chưa thống nhất và là hạn chế của Luận cương:

Nội hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng
Hội nghị thảo luận và thông qua bản Luận cương chính trị của Đảng do đồng chí
Trần Phú chủ trì khởi thảo; thông qua nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông
Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng. Nghị quyết ghi rõ những quyết định quan
trọng của Hội nghị.
Hội nghị phân tích tình hình trước mắt ở Đông Dương, do khủng hoảng kinh tế và
đế quốc Pháp tăng cường bóc lột nên đời sống của nhân dân lao động ngày càng
khổ cực - và cũng vì bị bóc lột nên công nông vùng dậy đấu tranh, phong trào công
nông rầm rộ từ đầu năm 1930. Đối phó với phong trào của quần chúng công nông,
đế quốc Pháp ra sức khủng bố trắng. Đảng Cộng sản đi sâu vào quần chúng và lãnh
đạo họ đấu tranh. Tuy vậy, trong quá trình đó sự lãnh đạo của Đảng còn bộc lộ
nhiều thiếu sót.
Hội nghị kiểm điểm những thiếu sót của Đảng: trong công tác có những chi bộ
không liên lạc mật thiết với quần chúng, chưa thật tin vào sức mạnh quần chúng,
làm những điều trái với chủ trương và phương pháp cách mạng của Đảng như ám
sát cá nhân, bạo động non... Hội nghị phân tích, phê phán khuynh hướng lệch lạc
cho rằng củng cố tổ chức rồi mới đấu tranh, chờ hết khủng bố rồi mới hoạt động;

đồng thời Hội nghị chỉ rõ, phải thông qua đấu tranh hàng ngày của quần chúng mới
phát triển được cơ sở, rèn luyện và thanh lọc được đội ngũ, chấn chỉnh được tổ
chức.
Trước tình hình phong trào cách mạng bị khủng bố trắng, Hội nghị xác định nhiệm
vụ trước mắt của Đảng là phải mở rộng phong trào đấu tranh rộng khắp Đông
Dương nhằm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đấu tranh phải chống
khuynh hướng bạo động, khởi nghĩa non, phải gây thanh thế cho Đảng, tuyên
truyền đường lối của Đảng thông qua việc treo cờ đỏ búa liềm, diễn thuyết, rải
truyền đơn, ra sách báo… Bằng các biện pháp đó, tuyên truyền, giáo dục quần
chúng tin theo Đảng và đấu tranh theo đường lối của Đảng; khi đấu tranh phải chú
ý giữ gìn lực lượng, tránh những tổn thất không cần thiết.
Về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị nhấn mạnh việc thảo luận những nghị quyết
của Đảng và của Quốc tế Cộng sản trong các chi bộ để nâng cao trình độ chính trị
cho đảng viên; phái đảng viên vào các xí nghiệp quan trọng; tăng thêm thành phần
công nhân và phụ nữ trong Đảng; kết nạp đảng viên phải căn cứ vào tinh thần hăng
hái đấu tranh và giác ngộ giai cấp của quần chúng. Hệ thống tổ chức của Đảng,
phải tổ chức ra các xứ ủy, tổ chức giao thông liên lạc.
Về công tác quần chúng, Hội nghị cho rằng phải tăng cường công tác vận động
công nhân mở rộng Công hội, chuẩn bị lập Tổng Công hội Đông Dương, mở rộng
phong trào đấu tranh của nông dân, chuẩn bị lập Tổng Nông hội Đông Dương;
phân công các đồng chí phụ trách Hội Phản đế đồng minh, Hội Cứu tế và Thanh
niên Cộng sản Đoàn; lập Bộ quân sự của Đảng.
Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và cũng xuất phát từ thực tế ba nước Việt,
Lào, Campuchia đều là thuộc địa của Pháp, đều chịu sự thống trị của Pháp, Hội
nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm bảy đồng chí: Trần Phú,
Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, Lê Mao, Trần Văn Lan, Nguyễn Phong Sắc, A
Lầu (Lưu Lập Đạo), đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng1.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1930 có ý nghĩa quan trọng
trong việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trực
tiếp là đối với cao trào cách mạng 1930-1931.

You might also like