You are on page 1of 9

1

Câu 1: Đồng chí hãy phân tích nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng. Giá trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh đối với
cách mạng Việt Nam ?
Đầu năm 1930, trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái
Quốc với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản lại thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị đã
thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là các văn kiện: Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo chỉ 282 chữ nhưng đã
thể hiện cô đọng các luận điểm cách mạng cơ bản, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam
thuộc địa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực
dân xâm lược; xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam được
thực hiện bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Chánh cương đã khái quát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân là được tự do, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục...
Về phương diện chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức ra quân đội công
nông.
Nhiệm vụ chính trị đó giải quyết đúng mâu thuẫn cơ bản, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với địa chủ
phong kiến. Giành được độc lập mới đánh đổ được phong kiến và tay sai; đánh đổ phong kiến là
đánh vào công cụ tay sai của đế quốc. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau,
trong đó đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Cương lĩnh đã chỉ
rõ việc xây dựng chính quyền của nhân dân, tổ chức quân đội công nông là vấn đề cơ bản, là công
cụ hữu hiệu thực hiện sự lãnh đạo của Đảng để tiến hành triệt để cách mạng tư sản dân quyền và thổ
địa cách mạng, đi tới xã hội cộng sản.
Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái. Thâu hết sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng, ...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông
binh quản lý. Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ
sưu thuế cho dân cày nghèo. Mở mang công nghiệp và nông nghiệp. Thi hành luật ngày làm 8 giờ”.
Nhiệm vụ trên nhằm đáp ứng quyền lợi kinh tế, dân chủ thiết thân nhất của người lao động và
cả dân tộc. Đây là động lực mạnh mẽ lôi cuốn đông đao nhân dân làm cách mạng.
Thực hiện nhiệm vụ trên cũng chính là để xóa bỏ cơ sở kinh tế của đế quốc, phong kiến, xây
dựng cơ sở kinh tế của chế độ mới, là cơ sở thực hiện nhiệm vụ chính trị, củng cố thành quả của
cách mạng.
Về phương diện xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức. Nam nữ bình quyền,… Phổ thông
giáo dục theo công nông hóa.
Xác định nhiệm vụ này, Cương lĩnh đã vận dụng đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về vai trò của văn hóa, tinh thần là bộ phận quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện nhiệm vụ này, Cương lĩnh xác định chăm lo đến sự phát triển toàn diện của con
người, nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển của cách mạng.
2

Điều đó cũng thể hiện rằng, Đảng vừa kế thừa truyền thống văn hóa, nhân ái của dân tộc, vừa
chống lại và từng bước xóa bỏ văn hóa, giáo dục của thực dân, phong kiến, xây dựng một nền văn
hóa, giáo dục mới làm động lực cho cách mạng.
Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”. Chủ trương của Đảng là: “thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng
dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”.
Về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế
quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu
tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin. Con đường phát
triển chỉ có thể là cách mạng chứ không thể là cải lương, thỏa hiệp.
Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Cương lĩnh nêu rõ: “...trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị
áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Đồng thời, Cương lĩnh
cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam
gắn liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế là sự kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ
đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới.
Với những nội dung cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam ngay buổi đầu Đảng ra đời,
Cương lĩnh chính trị đầu tiên mang một giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc:
Thứ nhất, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng phù hợp với nguyện vọng của đại đa số quần
chúng lao động và yêu nước Việt Nam.
Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp quần chúng vào cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc. Đó là một thực tế lịch sử. Điều này có được bởi quan điểm và đường lối cách
mạng Việt Nam thể hiện trong các văn kiện đáp ứng được nguyện vọng của đại đa số quàn chúng
lao động bị áp bức đó là độc lập, tự do, hạnh phúc.
Đường lối của Đảng trong Cương lĩnh đầu tiên đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam thể hiện
giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, bước lên vũ đài chính trị. Thông qua đội tiên phong
chiến đấu của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã đảm nhận vai trò
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, từng bước đưa lịch sử dân tộc phát triển theo xu hướng thời đại,
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối lãnh đạo phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc ở Việt
Nam.
Tuy có thời kỳ bị phê phán, bị thủ tiêu, xong quan điểm, đường lối của Đảng ta dần dần trở
lại với Cương lĩnh chính trị đầu tiên, được bổ sung, phát triển trong những năm 1936 - 1939, 1939 -
1941, đặc biệt là khi Hồ Chí Minh về nước (1941), Đảng lãnh đạo Cách mạng tháng Tám 1945
thành công, giành lại nền độc lập dân tộc đã minh chứng cho tính đúng đắn, khoa học, cách mạng
của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta.
Thứ hai, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đặt nền tảng và cơ sở lý luận cho sự kiên định
quan điểm, đường lối của Đảng và cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tuy rất vắn tắt, nhưng về cơ bản Cương lĩnh đầu tiên đã thông qua những nội dung lớn về
đường lối, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là những quan điểm khoa học, cách mạng, là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn Việt Nam, vừa có tính lịch sử, vừa có
tính khoa học cách mạng thời đại. Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, Cương lĩnh đã giải
3

quyết khoa học, thỏa đáng về mối quan hện biện chứng giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế,
độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Chính nhờ có quan điểm tiến hành dân quyền tư sản cách mạng và thổ địa cách mạng, khẳng
định vai trò lãnh đạo của chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân, đánh giá đúng vai trò của
các thành phần giai cấp trong lực lượng cách mạng. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo quần chúng cách mạng vùng lên chiến đấu trong cao trào 1930 - 1931 mà đỉnh cao là
Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Thực tế này cho thấy, đó là đòi hỏi khách quan, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
trở thành đòi hỏi của cả dân tộc, nhờ đó mà nhân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trong Cách
mạng tháng Tám lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, trong cách mạng bảo vệ Tổ quốc, xây dựng
đất nước.
Thứ ba, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là dấu mốc khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
hình thành về cơ bản.
Thành công của Hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, các văn kiện do
Nguyễn Ái Quốc dự thảo hợp thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được Hội nghị thông qua là bước
ngoặt trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành đường lối
cách mạng và đi vào thực tiễn, được bổ sung trong tiến trình cách mạng là nhân tố quan trọng hàng
đầu đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là đòi hỏi của phong trào yêu nước, giải phóng dân
tộc, là kết quả của sự vận động nội tại của phong trào, nhưng gắn liền với những hoạt động, vai trò
to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong 20 năm (1911 - 1930).
Nội dung, tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên đã
được cụ thể hóa thành quan điểm đường lối của Đảng về cách mạng Việt Nam và đi vào thực tiễn,
được thực tiễn lịch sử cách mạng kiểm chứng tính khoa học, đúng đắn, sáng tạo bằng những thắng
lợi. Vì vậy có thể nói Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là dấu son khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam được hình thành cơ bản.
Có thể thấy rằng, thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định sự
đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt 86 năm qua dân tộc
Việt Nam đã thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước
khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu
vực và trên thế giới.
Tóm lại, thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
là bằng chứng không thể bác bỏ tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó sự nghiệp
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp bằng con đường đi lên CNXH. Đó là cương lĩnh đúng
đắn của Đảng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam, mở
ra giai đoạn mới, giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được
rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền
móng đó phát huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam./.
1

Câu 2: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản trong đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp của Đảng. Ý nghĩa của đường lối đó đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam giai đoạn
1945 – 1954 ?
Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã
Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh -
Hàng Bún, Hà Nội. Đồng thời Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta, đòi phải tước hết vũ khí của tự
vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô.
Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ trung ương Đảng ta đã
họp tại Vạn Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối
phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho
rằng khả năng hoà hoãn không còn. Hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc
đời nô lệ. Do đó, hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và
chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh
lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả
nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ
Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là:
cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã
có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía,
chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được
hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các
thành thị lớn ở Miền Bắc.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của
trung ương Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường
Chinh (9/1947).
Về mục đích kháng chiến là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp
xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
Về tính chất thì cuộc kháng chiến chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính
nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
Về chính sách kháng chiến thực hiện liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân
Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn
dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.
Về nhiệm vụ kháng chiến là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống
nhất thật sự cho dân tộc. Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.
Về phương châm tiến hành kháng chiến là tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân làm
nòng cốt… "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người
trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sỹ,
mỗi làng xóm là một pháo đài.
2

Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.
Trong đó:
Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh
chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa
đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ".
Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây dựng
kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công
nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước”.
Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá dân
chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên hiệp với
dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam
độc lập.
Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời
gian để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch
đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ động
xây dựng và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ quốc tế.
Ý nghĩa lịch sử
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự truyền
thống của tổ tiên xưa, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin và kinh
nghiệm nước ngoài vào điều kiện Việt Nam. Đường lối đó là ngọn cờ dẫn dắt và là động lực chính trị
tinh thần đưa quân và dân ta tiến lên chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp xâm lược.
Nội dung cơ bản của Đường lối kháng chiến là: Toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính. Đường lối đó thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, quân sự, kinh tế với nhiều
nội dung cụ thể. Đó là đường lối kết hợp hữu cơ giữa cách mạng và chiến tranh, là sự vận dụng tổng
hợp các quy luật của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và quy luật của chiến tranh cách mạng.
Chiến lược chiến tranh toàn dân là sự kế thừa và phát triển truyền thống "cả nước đánh
giặc", "trăm họ ai cũng là binh" của tổ tiên, chiến lược "toàn dân nổi dậy" cũng là truyền thống từ
thời Bà Trưng và của Cách mạng tháng Tám.
Theo chiến lược này, Đảng động viên toàn dân, đưa lực lượng của 25 triệu đồng bào vào
cuộc đọ sức gay go, ác liệt. Quân xâm lược Pháp phải đương đầu không phải chỉ với một quân đội
mà với cả một dân tộc có tổ chức, có người lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm là Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng những người bạn chiến đấu gần gũi của Người và Đảng Cộng sản.
Theo chiến lược này, Đảng tổ chức toàn dân, tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, đưa
họ vào các đoàn thể kháng chiến, xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu và lực lượng vũ trang vững
mạnh gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, XD hệ thống lãnh đạo, điều hành, chỉ
huy kháng chiến và kiến quốc thống nhất, tập trung, đồng thời phát huy được tính chủ động và sáng
kiến của địa phương, biến cả nước thành dinh lũy kháng chiến và công trường kiến quốc.
3

Chiến lược kháng chiến toàn diện nhằm khai thác và phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh hiện
thực của cả nước và khả năng của từng người, vượt qua mọi khó khăn, làm thất bại mọi âm mưu của
địch. Chúng không chỉ đánh ta về quân sự, mà còn đánh về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng và
tâm lý. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam, tùy theo khả năng, đều được huy động tham gia đấu tranh
trên mọi mặt trận, quân sự, kinh tế, chính trị ngoại giao, văn hóa, tư tưởng. Mỗi mặt trận đều có vị
trí quan trọng góp phần to lớn vào thắng lợi chung. Quân sự là việc chủ chốt của kháng chiến, đấu
tranh vũ trang giữ vai trò quyết định, nhưng không thể tách rời các mặt đấu tranh khác. Chỉ biết
đánh và đánh giỏi chưa đủ. Còn phải có chính sách đối nội, đối ngoại khôn khéo, bảo đảm ăn no
đánh thắng, thực túc binh cường, XD nền văn hóa mới, đời sống mới, động viên mọi người hăng hái
kháng chiến, tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần để kháng chiến thắng lợi. Vì chiến tranh là do
dân, vì dân, toàn dân đánh giặc, cho nên có thể đánh địch toàn diện và cũng do đánh địch toàn diện
mà phát huy được cao nhất sức mạnh của toàn dân.
Chiến lược kháng chiến trường kỳ là quy luật tất yếu của cuộc chiến tranh lấy nhỏ đánh lớn,
lấy ít địch nhiều. do so sánh lực lượng chênh lệch, cần phải có thời gian để chuyển hóa nhỏ thành
lớn, yếu thành mạnh. Đảng ta dự kiến cuộc kháng chiến phải trải qua ba giai đoạn. Do nỗ lực chủ
quan của ta, càng đánh thế và lực của ta càng mạnh, ưu điểm càng tăng, nhược điểm càng giảm càng
chuyển nhanh sang giai đoạn tiếp sau. Vì địch tiến hành chiến lược đánh nhanh thắng nhanh nên ta
phải kháng chiến lâu dài nhằm làm thất bại kế hoạch của địch. Tuy nhiên, đánh lâu dài không phải là
kéo dài vô hạn mà là vận dụng thời gian một cách biện chứng. Có nghĩa là về chiến lược, về toàn
cục thì càn có thời gian tương đối dài để làm chuyển biến so sánh lực lượng; còn về hoạt động cụ
thể thì phải tranh thủ thời gian để làm thất bại các chủ trương, các biện pháp chiến tranh của địch,
nắm thời cơ, đẩy kháng chiến tiến lên với những bước nhảy vọt từ giai đoạn này sang giai đoạn
khác, nhanh chóng giành thắng lợi cuối cùng. Đánh lâu dài là quá trình phát huy cao độ cố gắng chủ
quan, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, hiện thực hóa xu thế càng đánh càng mạnh, càng đánh
càng thắng.
Chủ trương dựa vào sức mình là chính vì Đảng cho rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc nằm
trong tay chính dân tộc mình. Bởi vì có tự lập mới có độc lâp, có tự cường mới có tự do; có độc lập,
tự chủ mới có sáng tạo. Vì thế phải đem sức ta tự giải phóng cho ta, phải dựa vào sức mình là chính
để ứng phó với mọi tình huống, để luôn chủ động. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến lúc ban đầu
chưa nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, ta không có cách nào khác là phải tự lực vừa kháng
chiến vừa kiến quốc. Ta có mạnh, có giành được thắng lợi thì mới có điều kiện tranh thủ được sự
giúp đỡ quốc tế. Đảng ta luôn khẳng định yếu tố độc lập, tự chủ trong đường lối, chủ trương, trong
điều hành cuộc kháng chiến kể cả khi đã nhận được sự trợ giúp từ bên ngoài. Chủ trương tự lực cánh
sinh của đảng nhằm khai thác, tận dụng mọi khả năng vật chất và tinh thần của nhân dân, vừa động
viên vừa bồi dưỡng sức dân, lấy nội lực làm cơ sở chủ yếu để sử dụng có hiệu quả ngoại lực.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên
phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc
đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn thất, hy sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang vì độc lập tự
do, vì chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân
ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 86 năm qua đã khẳng định vai trò, công lao to lớn
của Đảng và để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân
dân ta.
1

Câu 3: Đồng chí hãy phân tích những thành tựu trong thực tiễn sau 30 năm thực hiện
đường lối đổi mới. Liên hệ quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ở địa phương, ban,
ngành học viên đang công tác.
Ba mươi năm đổi mới là mô ̣t giai đoa ̣n lich ̣ sử quan tro ̣ng có ý nghĩa trọng đại trong sự
nghiê ̣p phát triể n của đất nước, đánh dấ u sự trưởng thành về mo ̣i mă ̣t của Đảng, Nhà nước và nhân
dân, là quá trình cải biế n sâu sắ c, toàn diê ̣n, triê ̣t để , là sự nghiê ̣p cách ma ̣ng to lớn của toàn Đảng,
toàn dân vì mu ̣c tiêu “dân giàu, nước ma ̣nh, dân chủ, công bằ ng, văn minh.”
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI (12-1986), với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đạt được những kết quả
sau:
Thứ nhất, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước
được thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và
chế độ phân phối đã phát triển đa dạng, từng bước tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và phù
hợp với điều kiện của đất nước.
Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Nếu như năm 1990, tỷ trọng của khu vực nông-
lâm-ngư nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội là 38,74%, của khu vực công nghiệp là 22,67% và của
khu vực dịch vụ là 38,59%; thì đến năm 2010, nông nghiệp còn 18,89%, công nghiệp 38,23%, dịch
vụ 42,88%; năm 2013, nông nghiệp còn 18,4%, công nghiệp 38,3% và dịch vụ 43,3%1.
Nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng, đạt mức tăng trưởng khá và ổn định: bình quân giai
đoạn 1991-2006 là 7,5%, giai đoạn 2006-2010 là 7%, những năm 2011-2015 tốc độ tăng trưởng bình
quân là 5,6%. Nhờ đó, Việt Nam thoát khỏi tình trạng một nước nghèo để trở thành một nước có thu
nhập trung bình.
GDP bình quân năm 2010 đạt 1.168 USD/người/năm, năm 2015 là 2.200 USD/người/năm.
Thứ hai, Văn hóa - xã hội có sự chuyển biến tích cực; an sinh xã hội được bảo bảo đảm, đời sống
nhân dân ổn định. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 49% năm 2015. Tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị luôn ở mức dưới 4%.Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế năm 2013 là
71,2% đến năm 2015 là 75% dân số.
Công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt: Tỷ lệ nghèo
đói giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 4,5% năm 2015. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt gần 40%.
Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành trên 2/3 mục tiêu thiên niên kỷ.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới, năm 2000 cả nước đạt chuẩn quốc gia về xóa mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến giữa năm 2006 hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.
Thứ ba, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân đã đạt được những kết
quả quan trọng.
Quốc hội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động theo hình thức
nhà nước pháp quyền XHCN. Từ năm 1986 đến năm 2005 Quốc hội thông qua gần 150 luật. Từ
2006 đến nay, thông qua 67 luật.
Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn, bộ máy Chính phủ đã giảm từ
76 đầu mối xuống còn 22 đầu mối (gồm 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ). Ở cấp tỉnh có 35 đến 40 đầu
mối, nay còn 17 đến 25 đầu mối cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân. Ở cấp huyện có 20 đến
2

25 đầu mối, nay còn 8 đến 12 đầu mối cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp
với tình hình mới.
Thứ tư, về đối ngoại, đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa
phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Đến nay, Việt Nam có quan hệ với
167 nước trong số hơn 200 nước trên thế giới.
Xác lập quan hệ ổn định với các nước như: Trung Quốc, Nhật Bản. Ký Hiệp định hợp tác với
EU năm 1995; tăng cường hợp tác với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ, tuyên bố quan hệ hợp
tác chiến lược với Nga năm 2001 và Nhật Bản năm 2008.
Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đảo với các nước liên quan như Trung
Quốc và các nước ASEAN.
Thứ năm, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Thứ sau, từng bước sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước theo hướng
tinh gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất, năng lực của cán bộ.
Từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở coi trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị
quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh, khắc phục tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay.
Qua 30 năm đổi mới, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức
tạp, khó lường, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao, các thế lực thù địch tấn công toàn diện
vào Đảng, vào chế độ, Đảng ta luôn vững vàng, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và
khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới, xứng đáng là lực lương lãnh đạo
Nhà nước và xã hội.
Liên hệ về công cuộc đổi mới ở đia phương, ban, ngành nơi học viên công tác.
Hậu Giang nằm ở phía tây sông Hậu; diện tích tự nhiên 160.772,49 ha; dân số gần 800.000
người. Trong đó, gia đình nghèo là 30.769 hộ chiếm tỷ lệ 18,9% tổng số hộ (trong đó hộ Khmer
nghèo là 2.125 hộ); đối tượng chính sách và người có công trên 30.000 người; nạn nhân chất độc da
cam là 484 người. Đại đa số người dân sống bằng nghề nông, trình độ dân trí còn thấp đặc biệt là đối
với người dân tộc.
Trong 7 năm qua, sau khi được chia tách, dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ,
quân và dân Hậu Giang thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết được Bộ Chính trị đánh giá là
thành tựu toàn diện và rất quan trọng. Trong đó, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 12,44%/năm,
cơ cấu chuyển dịch đúng hướng; tổng mức đầu tư toàn xã hội là hơn 27.000 tỉ đồng; tỷ lệ hộ nghèo
giảm nhanh từ 23,55% xuống còn 10%. Tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh trên 89%; kết
nạp được 8.871 đảng viên (kế hoạch là 7.500-8.000). Đặc biệt trong nhiệm kỳ qua, Hậu Giang đã tổ
chức thành công nhiều sự kiện quan trọng, như vận động Quỹ vì người nghèo và Quỹ an sinh phúc
lợi xã hội hơn 800 tỉ đồng để xây dựng hơn 20 ngàn căn nhà tình nghĩa, tình thương cho gia đình
chính sách và hộ nghèo. Tỉnh cũng đã xây dựng hoàn thành 3 xã nông thôn mới đạt 13 tiêu chí của
tỉnh, nâng thị xã Vị Thanh lên thành phố trực thuộc tỉnh,...
Đạt được kết quả trên là nhờ sự quan tâm kịp thời của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương,
sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, sự đồng thuận và nhất trí cao trong công tác chỉ đạo
3

điều hành, sự phối hợp linh động, nhịp nhàng của các cơ quan tham mưu, tính chủ động của địa
phương, sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, dịch bệnh heo tai xanh còn xảy ra, giá nông sản từng lúc không ổn định; tiến độ thi
công một số công trình, dự án, công tác giải phóng mặt bằng còn chậm; kim ngạch xuất khẩu đạt
thấp; công tác cải cách thủ tục hành chính, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đào tạo nghề
chưa đáp ứng yêu cầu, đời sống người dân còn nhiều khó khăn; giá tiêu dùng cao, tình trạng hàng
giả, hàng kém chất lượng chưa kịp thời xử lý; môi trường bị ô nhiễm, vệ sinh an toàn thực phẩm
kiểm tra thiếu thường xuyên; một số cán bộ công chức chưa có chỗ ở hoặc chỗ ở chưa ổn định đã
làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác; tình hình an ninh trật tự, an toàn giao thông cần quan tâm,
chỉ đạo mạnh hơn nữa.
Bài học kinh nghiệm được rút ra đó là nhờ sự đoàn kết, thống thất trong Đảng và cả hệ thống
chính trị; tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương trong cả nước; kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và các nhu cầu dân sinh: giải quyết việc làm,
xóa đói giảm nghèo...
Mục tiêu chung của nhiệm kỳ mới (2011-2015) là tập trung đầu tư xây dựng thành phố Vị
Thanh ngang tầm với vai trò là thành phố trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh. Phấn đấu đến
năm 2015 có mức phát triển trung bình khá trong khu vực, làm nền tảng đến năm 2020 đạt mức phát
triển bình quân cả nước.
Hậu Giang đề ra 11 nhóm giải pháp chủ yếu, đặc biệt tập trung vào phát triển nông nghiệp và
nông thôn, chính sách phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, huy động vốn đầu tư xây dựng hạ
tầng KT; đẩy mạnh giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng. Chú
trọng việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý điều hành của bộ máy nhà nước các cấp, tạo bước
chuyển biến mạnh mẽ về cải cách thủ tục hành chính;...
Đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng các lĩnh vực y tế, giáo dục, các hoạt động văn
hóa, thể thao. Thực hiện bằng được chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới và phấn đấu giảm nghèo
theo chuẩn khoảng 2-3%/năm nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, nhất là đối
với đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc Khmer. Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về nhiệm vụ then chốt này. Công tác xây dựng
Đảng cần gắn với việc thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” và đổi mới đồng bộ hệ thống chính trị. Làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên; có chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; xây dựng đội ngũ cán bộ có
năng lực và trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

You might also like