You are on page 1of 16

Câu 1 ( 6 điểm ) : Bằng lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam, anh (chị) phân tích,

chứng làm rõ
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lenin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước ? Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh tiến tới thành lập Đảng

Câu 2 ( 4 điểm ) : Anh ( Chị ) hãy phân tích, làm rõ ý nghĩa của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam được thành
lập ngày 3 tháng 2 năm 1930?  Tham khảo câu 3; 67; 98
Câu 3 (6 điểm ) : Bằng kiến thức lịch sử Đảng trong giai đoạn 1939 -1945. Anh ( chị ) hãy phân tích, chứng
minh làm rõ thắng lợi cách mạng Tháng Tám 1945 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam ./.
Câu 4 ( 4 điểm ) : Anh ( chị ) phân tích làm rõ dựa vào cơ sở nào mà trong chỉ thị “kháng chiến kiến quốc
25/11/1945 ” Đảng xác định Thực dân Pháp là kẻ thù của cách mạng Việt Nam ./.

Câu 5 ( 6 điểm ) : Bằng lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam, anh (chị) phân tích, chứng minh làm rõ
Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam ?  Tham
khảo câu 31

Bổ sung thêm:
Câu hỏi 6: Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam?
Câu 9: Sự chuẩn bị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về chính trị, tư tưởng và tổ chức dẫn đến sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam như thế nào?

Câu 12 ( 4 điểm ) : Bằng thực tiễn ở trong nước và trên thế giới anh ( chị ) phân tích làm rõ đổi mới là
yêu cầu khách quan . /. Về động lực, nguồn của đổi mới.

Câu 13 ( 6 điểm ) : Anh ( chị ) hãy phân tích làm rõ nội dung đường lối đổi mới về tư duy lý luận, về cơ cấu
kinh tế, về cơ chế quản lý kinh tế, về vai trò chức năng quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước, về phương thức
lãnh đạo của Đảng được Đại hội Đảng lần thứ VI ( 1986 ) thông qua ./.

TRẢ LỜI:
Câu 1:
Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập
Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
Việt Nam, những công lao của người vô cùng to lớn, đã góp phần đưa cuộc cách mạng của nhân dân ta đến
thắng lợi cuối cùng. Một trong những công lao đó chính là việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm
1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Trong diễn văn kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (03/02/1930 – 03/02/1960), Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã
dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Cộng sản Việt Nam – Chương trình tóm tắt của
Đảng) vào đầu năm 1930“. Điều đó chứng tỏ tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam bào gồm: một là, chủ
nghĩa Mác – Lênin; hai là, phong trào công nhân gắn liền với phong trào yêu nước Việt Nam; ba là, những hoạt
động thực tiễn của Hồ Chí Minh vào những năm cuối của thập niên 20 và đầu năm 1930.

1. Chủ nghĩa Mác – Lênin


C.Mác và V.I.Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa
phương Tây, với nhiệm vụ chủ yếu là lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng vô sản
hay cách mạng xã hội chủ nghĩa, trực tiếp lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng xã hội mới – xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, trong đó không còn áp bức, bóc lột, không còn bất bình đẳng và bất công, cong
người được giải phóng hoàn toàn và được tạo mọi điều kiện cần thiết để tự do phát triển hết những khả năng sẵn
có của mình.
Theo Mác – Lênin, “Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân
phương Tây“. Chủ nghĩa Mác là học thuyết xã hội thực sự nhân đạo và là hệ tư tưởng khoa học của giai cấp vô
sản, có mục tiêu, nguyên lý, quy luật chung cho tất cả các nước và dân tộc. Chủ nghĩa Mác trang bị thế giới
quan, phương pháp luận cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ ra con đường, phương thức tiến hành
thắng lợi cách mạng vô sản. Còn giai cấp công nhân phương Tây là lực lượng tiên tiến trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa; có ý thức tổ chức kỉ luật và tinh thần tự giác cao độ; có tri thức, trình độ khoa học, kĩ
thuật và dễ tiếp thu cái mới; ra đời sớm, đông đảo về số lượng, lại được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa và có vai trò gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước, không thể áp dụng nguyên công thức của Mác – Lênin về thành lập Đảng Cộng sản vào
Việt Nam. Bởi giai cấp công nhân Việt Nam còn nhiều hạn chế như số lượng ít (chiếm 1% dân số) lại phân bố
rải rác trên nhiều khu vực, yếu về kinh tế, thấp bé về chính trị, đại bộ phận xuất thân từ nông dân nên còn mang
nguyên đặc điểm tiểu nông, trình độ còn non kém. Do đó, phải tìm kiếm thêm cơ sở hiện thực từ phong trào
thực tiễn của dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản ở Việt Nam phải là lực lượng tiên tiến trong dân tộc, có khả năng đề ra
đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; có khả năng vận động, quy tụ, tập hợp lực lượng toàn dân tộc,
củng cố khối đoàn kết toàn dân, lãnh đạo, tổ chức quần chúng làm cách mạng và làm cho cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ngày càng mở rộng và mạnh mẽ để đi đến thắng lợi cuối cùng và có khả năng gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng vô sản thế giới.
Hồ Chí Minh đã không vận dụng một cách rập khuôn, giáo điều chủ nghĩa Mác – Lênin mà có sự sáng tạo phù
hợp với hoàn cảnh các nước thuộc địa mà cụ thể là Việt Nam.
2. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước
a, Phong trào công nhân
Đầu thế kỉ XX, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển rộng rãi và mạnh mẽ, là một
trong những yếu tố thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
Giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 – 1914) và tăng
nhanh về số lượng cũng như chất lượng trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông
Dương (1919 – 1929). Tuy còn có những hạn chế như đã nói ở trên, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp
tiên tiến nhất trong hình thức sản xuất xã hội; sống và làm việc tập trung; có ý thức tổ chức và kỉ luật, có tinh
thần tự giác cao độ; có tri thức, kiến thức khoa học, kĩ thuật và dễ tiếp thu cái mới; có mối quan hệ tự nhiên gắn
bó với nông dân nên dễ dàng hình thành liên minh công – nông, chịu ba tầng áp bức bóc lột của thực dân, phong
kiến và tư sản nên là có lòng căm thù thực dân cao độ, có tinh thần cách mạng triệt để nhất lại thừa kế truyền
thống yêu nước quý báu của dân tộc nên có khả năng tiến hành cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi. Đây
là lực lượng giữ vai trò lãnh đạo cách mạng.
b, Phong trào yêu nước
Phong trào yêu nước có ưu điểm đông về lực lượng; hùng hậu về sức mạnh; có nhiều kinh nghiệm và được thử
thách qua các cuộc đấu tranh của dân tộc. Tuy nhiên phong trào còn nhiều hạn chế, chưa có một hệ tư tưởng
cách mạng dẫn đường; sự liên kết lỏng lẻo, thiếu tổ chức và đường lối cách mạng đúng đắn. Từ phong trào Cần
Vương, đến phong trào Đông Du, Duy Tân… và phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, cuối cùng đều thất bại,
“đất nước lâm vào tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”. Người cho rằng con đường của Phan Bội
Châu chẳng khác gì “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Con đường của Phan Châu Trinh cũng chẳng khác
gì “Xin giặc rủ lòng thương”. Con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn còn mang
nặng cốt cách phong kiến. Các phong trào này chưa đáp ứng được yêu cầu của cách mạng, chưa giải quyết được
hai mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội bấy giờ là mâu thuân dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Vào thời điểm đó,
những phong trào yêu nước chưa có lý luận khoa học cách mạng dẫn đường và không có khả năng tiến hành
cuộc cách mạng đến thắng lợi.
c, Sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việc kết hợp phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân với phong trào công nhân ở Việt Nam là
một tất yếu lịch sử, kết hợp điểm mạnh của hai phong trào này mới tạo ra được sức mạnh to lớn, tạo thành tiền
đề lý luận cho việc thành lập Đảng Cộng sản. Nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với phong trào
yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cũng không đủ lực lượng để mở rộng cuộc đấu
tranh và đưa cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi, còn nếu phong trào yêu nước không được dẫn dắt bởi giai cấp
công nhân với đội tiên phong Đảng cộng sản thì cuộc đấu tranh đó cũng không thể đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Việc kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng phải đúng vào thời điểm từ những năm cuối của thập niên 20 đến đầu năm
1930. Hơn nữa, việc kết hợp ấy phải gắn liền với những hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh mới
đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với tính quy luật phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc
và đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
3. Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh tiến tới thành lập Đảng
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không những đã nhận thức
được tầm quan trọng và vai trò của một chính đảng cách mạng, mà còn chuyển nhận thức đó vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng đó phải là quần chúng cách mạng
được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối chính trị đúng đắn thì mới trở thành sức mạnh
to lớn.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênin. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân
tộc và tự do cho đồng bào. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác ngoài con đường cách mạng vô sản“. Cách mạng giải phóng dân tộc được dẫn dắt bằng hệ tư tưởng Mác –
Lênin nghĩa là do Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo để “trong thì vận
động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy“, lãnh đạo thực hiện hai giai
đoạn của cách mạng Việt Nam là làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Đảng phải được vũ trang bằng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và phải được xây
dựng theo những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Với nhận thức đó, từ rất sớm, trong
những hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc tìm kiếm cơ sở hiện thực để thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc đã biểu quyết tán thành Quốc tế
thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Kể từ đó,
Nguyễn Ái Quốc đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, chế độ Xô viết mới ra đời và tích cực tham gia
nhiều hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập năm 1921 có nhiệm vụ tuyên truyền
chủ nghĩa Mác – Lênin về các nước thuộc địa; củng cố tinh thần đoàn kết của nhân dân các nước thuộc địa với
nhau và cổ vũ tinh thần đấu tranh chống thực dân, đế quốc của họ. Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông
thành lập năm 1925. Đó là những tổ chức quốc tế đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc, mà Nguyễn Ái
Quốc vừa là người khởi xướng, vừa là người tổ chức, người lãnh đạo với vai trò chủ yếu nhất.
Để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Người đã tích cực chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức.
Về chính trị tư tưởng, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử cụ
thể của nước Việt Nam thuộc địa, xây dựng nên lí luận cách mạng giải phóng dân tộc, diễn đạt nó thành tiếng
nói của dân tộc Việt Nam để truyền bá cho nhân dân Việt Nam. Những tư tưởng cách mạng của Người được thể
hiện qua nhiều tờ báo và các bài tham luận tại Quốc tế Cộng sản: Các báo ở Pháp từ năm 1921 đến tháng 6 –
1923 như báo Người cùng khổ (của Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari), Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời
sống công nhân (của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp); Các báo ở Liên Xô từ năm 1923 đến năm 1924 như
báo Sự thật (của Đảng Cộng sản Liên Xô), tạp chí Thư tín Quốc tế, qua một số bài tham luận tại hội nghị, đại
hội quốc tế như Hội nghị Quốc tế Nông dân (10 – 1923), nhất là Đại hội V của Quốc tế Cộng sản năm 1924.
Đặc biệt qua hai tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927). Những tư tưởng
đó là ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX đang đi tìm chân lí cứu nước, là
ngọn cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trong thời kì vận động thành lập Đảng, đồng thời cũng đặt
nền móng để xây dựng cương lĩnh cách mạng Việt Nam sau này.
Về mặt tổ chức, tháng 6 – 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đây là tổ chức yêu
nước có khuynh hướng cộng sản, một tổ chức quá độ để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản, một bước chuẩn bị có
ý nghĩa quyết định về tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo một đội
ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Từ năm 1925 đến năm 1927, Người đã mở các lớp huấn luyện chính trị tại
Quảng Châu. Sau các khóa học, một số được cử đi học ở trường Quân sự Hoàng Phố và trường Đại học Phương
Đông, còn phần lớn trở về nước hoạt động, tuyên truyền lí luận cách mạng trong quần chúng và xây dựng hệ
thống tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Những chuẩn bị trên của Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho sự gặp gỡ tất yếu của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại là chủ nghĩa Mác – Lênin,
làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự giác.
Ở Việt Nam, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì vẫn
chưa ra đời được Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1929, nước ta xuất hiện ba tổ chức cộng sản, đó là: Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ba tổ chức này có chung
mục tiêu, lí tưởng nhưng lại hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công kích nhau, làm cho phong trào cách mạng có
nguy cơ bị chia rẽ. Trong khi đó, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã tỏ ra không còn đủ khả năng đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới. Yêu cầu cấp thiết lúc này là phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính
đảng duy nhất.
Trước tình hình đó, cuối năm 1929 Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm sang Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng
sản. Với tư cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản, người có quyền quyết định mọi vấn đề của cách mạng Đông
Dương, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hương
Cảng (Cửu Long, Trung Quốc) đầu năm 1930. Bằng nhãn quan chính trị sắc bén và uy tín tuyệt đối, Người đã
đưa Hội nghị đến thành công, thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, mà trực tiếp là từ học thuyết xây dựng Đảng kiểu
mới của Lênin để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam và tổng kết cơ sở hiện thực ở Việt Nam thành tư
tưởng, lý luận bổ sung vào học thuyết Mác – Lênin. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản ra đời là từ nhu cầu tất yếu
của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc. Từ khi có Đảng, mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Đảng, mà minh chứng rõ nhất là thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như công
cuộc đổi mới sau này.

Câu 2 :
Cách 1: xem câu 3 tài liệu
Cách 2:
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra thời kì mới cho cách mạng
Việt Nam: thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng
được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực
lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức cách mạng tiên phong lãnh
đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về con đường cứu nước: “Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu
thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân. Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần
Vương, phong trào yêu nớc ba mươi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ khởi nghĩa Yên Thế và
các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái… nhưng không thành công
vì thiếu một đường lối đúng”. “Năm 1930, kế thừa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và các tổ chức cộng
sản tiền thân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó nói lên quy luật ra đời của Đảng và cũng chứng tỏ giai cấp
công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để
khẳng định sự đảm nhiệm vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
đánh dấu bước phát triển vế chất của cách mạng Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của dân tộc Việt Nam từ
1930 là con đường cách mạng vô sản. Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc
Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh được thông qua ở Hội nghị thành lập Đảng, từ năm
1930 cách mạng Việt Nam có được đường lối chính trị toàn diện đề ra mục tiêu và phương pháp đấu tranh thích
hợp, giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, đồng thời có được tổ chức Đảng cách mạng để lãnh
đạo và tổ chức phong trào cách mạng. Sự ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề và điều kiện để đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây
dựng đất nước .
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và
đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục
tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".

Cách 3: Tham khảo thêm câu 98


Câu 2.6: Trình bày đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng được đề ra trong Nghị
quyết Trung ương Đảng lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 và ý nghĩa của Nghị quyết?
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ chủ nghĩa thực dân
mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, chính quyền của Tổng thống Mỹ Giôn xơn
quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” (The limited war) là
một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ, biểu hiện là đưa
quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên
chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ và thực hiện bình định. Đồng thời, đế
quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm làm
suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những thách thức nghiêm trọng. Trước
tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc và hạ quyết tâm chiến lược:
“Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ
tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”47.
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa và phát triển sáng tạo
đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960), gồm các
nội dung lớn là:
Quyết tâm chiến lược: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh
lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã
có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường; cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến
hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế
thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể nào cứu vãn
được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền Nam. Từ sự phân tích và nhận định trên, Trung ương khẳng
định chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi chống
Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần phải cố gắng đến
mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng
lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến
công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi
giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. “Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng
quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng”.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững
mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở
mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để
đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước,
miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ
miền Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là
thành quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc
về mọi mặt, nhất là về kinh tế và quốc phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời, vừa
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Hai
nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ
chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu
chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung như trên thể hiện tư tưởng nắm vững,
giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân
tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn
cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Câu 4: Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25/11/2945)  Không tìm được ND trả lời cho câu
hỏi trên:
Tài liệu bên dưới chỉ nên tham khảo:

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Để giải quyết
tình hình “thù trong, giặc ngoài”. Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ngày
25/11/1945. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra những
nhiệm vụ mới, với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết".
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn, uy tín và địa vị của Liên Xô, thành
trì hòa bình của chủ nghĩa xã hội được nâng cao trên trường quốc tế, bên cạnh đó phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng
đang vươn lên mạnh mẽ, điều này có lợi cho các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, ngày 2-9-1945 tại quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố
trước quốc dân và thế giới về nền độc lập của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đem
lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm
quyền, nhân dân ta được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước. Nước ta đứng trước
những khó khăn, thách thức tưởng chừng khó vượt qua của thù trong, giặc ngoài và những khó khăn về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, mà chế độ thực dân phong kiến để lại, nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và
các chính quyền phản động trong khu vực. Nước ta còn chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của các nước xã
hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người chết,
90% số dân mù chữ. Ở miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng ồ ạt tràn qua biên giới, kéo theo là “Việt Quốc, Việt
Cách”, chúng lập chính quyền phản động ở một số nơi, cướp của giết người và chống phá chính quyền cách
mạng. Ở miền Nam: quân Anh với danh nghĩa đồng minh kéo vào nước ta tiếp tay cho thực dân Pháp trở lại
xâm lược nước ta lần thứ hai. “Tổ quốc lâm nguy! Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc!”.
Trước tình hình cấp bách, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị
về “Kháng chiến kiến quốc”. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước
và đề ra những nhiệm vụ mới. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình quốc tế và trong nước sau
chiến tranh. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn trung ương Đảng đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm
chống lại kẻ thù xâm lược, đồng thời giải quyết quyền lợi cho nhân dân. Chỉ thị xác định một số vấn đề cơ bản
về đường lối và nhiệm vụ của toàn Đảng. Khẩu hiệu là Dân tộc trên hết – Tổ quốc trên hết”. “Kẻ thù chính của
nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Nhiệm
vụ riêng trong nước là phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống nhân dân”(1). Nội dung của bản chỉ thị gồm 13 điều, đề cập tới toàn bộ hoàn cảnh trong nước cũng như
quốc tế. Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cấp bách nhất mà cách mạng cần phải làm trong giai đoạn mới. Chỉ thị là
bước chỉ đạo quan trọng khi tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến hết sức phức tạp, không có lợi
cho cách mạng, tựu chung lại chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chính như sau:
+ Về chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng đất nước,
củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn phản quốc, tiến hành tổng tuyển cử để bầu
Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp, có thể cải tổ chính phủ trước khi bầu cử, sửa đổi
cách làm việc của chính quyền nhân dân địa phương.
+ Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh
du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng chiến tranh du kích
ở Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
+Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”. Phương
châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và “muốn ngoại giao được thắng lợi là
phải biểu dương thực lực”. Đối với Tưởng thì chủ trương Hoa – Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về chính
trị, nhân nhượng về kinh tế.
+ Về kinh tế tài chính, mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc
kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham
gia kiến thiết lại nước nhà. Thực hiện khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại
ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh. Đẩy mạng tăng gia sản xuất, chống nạn đói theo khẩu
hiệu: “Tấc đất tấc vàng", “Sẽ cơm nhường áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc”.
+ Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học, cải
cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy nhồi nhét, cổ dộng văn hóa cứu quốc, xây dựng nền văn hoá
mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, dân tộc hoá, đại chúng hoá.
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được
củng cố và phát triển:
+ Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai, tuyển thêm đảng viên mới, chú trọng gây
thêm cơ sở Đảng trong các xí nghiệp, mở rộng các tổ chức nghiên cứu chủ nghĩa Mác bao gồm những ai có
khuynh hướng cộng sản hay có cảm tình với cộng sản, nhưng tổ chức phải do những người cộng sản điều khiển.
Trong việc phát triển đảng viên, tăng cường tổ chức Đảng, bản Chỉ thị chỉ rõ, phải tránh cả hai khuynh hướng:
Chỗ thì tổ chức Đảng hẹp quá, chậm quá, và chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi câu chấp của thời kỳ hoạt động
hoàn toàn bí mật, chỗ thì tổ chức Đảng rộng quá, nhanh quá khiến cho những phần tử phức tạp có thể len vào
Đảng. Đồng thời, Chỉ thị cũng nêu rõ: Các tổ chức Đảng phải giữ vững và duy trì sinh hoạt đều đặn, xây dựng,
củng cố các chi bộ Đảng trong các cơ quan hành chính hay các hội hợp pháp; thành lập chi bộ trong quân đội,
phối hợp sự hoạt động bí mật với hoạt động công khai, trong đó, hoạt động bí mật phải được đặc biệt coi trọng
và không để cho các cơ quan bí mật trở thành xung đột hoặc đối lập với cơ quan công khai.
+Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc, thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn
quố; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới; mở rộng Mặt trận Việt
Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh;
củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Campuchia chống Pháp
xâm lược. Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến ở Nam
Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử...
Chỉ thị là bước đi hợp lý, là biện pháp cần thiết sau khi giành chính quyền nhằm cũng cố chế độ, giải quyết
những khó khăn của quần chúng càng làm tăng cường sự gắn bó chặt chẽ của nhân dân với cách mạng. Chỉ thị
thể hiện sự sáng tạo trong việc giải quyết chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng trong tình hình mới, chiến
lược ở đây được hiểu là chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, còn sách lược ở đây là những biện
pháp cụ thể có tính mềm dẻo, khôn khéo, giải pháp mang tính tạm thời nhưng vẫn hướng tới mục tiêu chiến
lược đó là giải phóng dân tộc.
Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, nhãn quan chính trị của một chính Đảng
mới ra hoạt động công khai chưa bao lâu trên một loạt vấn đề liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ nền độc
lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân - thành quả cao nhất của Cách mạng tháng Tám
1945, tạo tiền đề cơ bản đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Đó là việc xác định rõ tính chất và nhiệm vụ chiến
lược của giai đoạn cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám, xác định và phân loại chính xác kẻ thù,
phương hướng cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, một loạt giải pháp nhằm xây dựng và tăng cường thực
lực cho cuộc kháng chiến, những quan điểm cơ bản về chỉ đạo chiến tranh và những nội dung chính của đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh... Trong tình hình “nước sôi lửa bỏng” lúc bấy
giờ, những chiến lược và sách lược được thể hiện trong bản Chỉ thị lịch sử “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng
Cộng sản Đông Dương thực sự là ánh sáng soi đường cho toàn dân, toàn quân trong cuộc chiến đấu nhằm bảo
vệ sự sống còn của dân tộc./.

Bổ sung thêm
Câu hỏi 6: Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam?
Trả lời:
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã vượt qua một
chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành được những thắng lợi rất vẻ
vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, góp
phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải
qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện
đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối
cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã
trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc
tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ
đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu
đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành được trong hơn 7 thập
kỷ qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng
suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện - một Đảng
cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó Đảng không có lợi ích nào khác. Giành độc lập cho
dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi thách thức,
trong phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng, không run sợ
trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng chất, không hạ thấp vị trí tiên phong chiến đấu
và trách nhiệm của người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một lòng một dạ phục vụ
Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
2. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo đảm vai trò lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính sách của
Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn
dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động của lịch sử,
đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng chính
là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước hết nhờ
có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư
tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận vững chắc, một lý
luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí . Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lịch sử,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể. Vì
vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Một
trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp
nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, đó là điều kiện đảm
bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa
rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự lãnh đạo
của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực công tác, thật sự là những chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí đấu tranh để làm cho Đảng
ngày càng vững mạnh. Đồng thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, đảm
bảo sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng của Đảng, để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh
đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh những ưu điểm, trong Đảng cũng còn những yếu kém,
thậm chí có lúc sai lầm, khuyết điểm, song điều quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những yếu kém của
mình. Đảng công khai tự phê bình nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có
kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo
duy nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam,
không có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của
người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của Đảng không
phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần nâng cao hơn nữa niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi mới giành
thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của mình, thanh niên phải góp phần
tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh;
ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành những đảng viên của Đảng, đem tài năng và sức trẻ cống
hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những thành tựu và truyền thống của Đảng ngày càng phát triển và
phong phú hơn.
Câu 9:
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước với hành trang duy nhất là
lòng yêu nước. Sau khi tìm thấy con đường cách mạng vô sản, Người đã tích cực chuẩn bị các điều kiện
về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng để tiến tới việc hiện thực hóa con đường cứu
nước.
Qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường
cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [3]. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin cần phải thành
lập một chính đảng của giai cấp vô sản và Nguyễn Ái Quốc cũng khẳng định: cách mạng muốn thành công phải
có đảng cách mệnh. Từ đó, Người đã tích cực chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản.
Về tư tưởng: Dưới nhiều phương thức hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất và tội ác của
chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tập hợp lực lượng và tuyên truyền con đường cách mạng vô sản. Người sáng lập tờ
báo “Le Paria” (Người Cùng khổ) và viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng
sản, Tập san Thư tín quốc tế...
Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người đã phác
thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong
tác phẩm “Đường Kách mệnh”.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản của
giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở
Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng.
Nhờ những hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã ra đời là: An
Nam cộng sản đảng; Đông Dương cộng sản Đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn. Ngày 3/2/1930, các tổ
chức này đã hợp nhất lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc bước đầu
được hiện thực hóa trong thực tiễn. Kể từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được
độc lập năm 1945 và khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đánh thắng thực dân Pháp năm 1954 và đế
quốc Mỹ năm 1975, giải phóng hoàn toàn đất nước, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng tiếp tục được khẳng định, nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được
nâng cao. Đặc biệt, trong hoàn cảnh dịch bệnh covid – 19 đang bùng phát trên khắp thế giới, với quan niệm
chống dịch như “chống giặc”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng đoàn kết, đồng lòng chống đại dịch.

Câu 12:
Công cuộc đổi mới 35 năm qua đã thực sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn
bó với mỗi người chúng ta và được bạn bè quốc tế quan tâm đến như một lẽ đương nhiên. Trong các
nhiệm kỳ Đại hội Đảng vừa qua, công cuộc đổi mới luôn được Đảng ta xác định rõ ngay trong chủ đề của
Đại hội. Đại hội XI của Đảng xác định "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới…"(1). Đại hội XII cũng
nhấn mạnh "… đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới"(2). Chủ đề của Đại hội XIII tiếp tục
khẳng định: "…tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới…" (3)
Quan điểm của Đảng ta luôn nhất quán và được toàn thể nhân dân Việt Nam đồng tình, hưởng
ứng nhưng vẫn có một số phần tử ác ý tung ra những luận điệu đả kích, chống phá trắng trợn, hoặc một số
thế lực muốn lái chúng ta đi theo con đường khác. Những luận điệu đen tối đó cho rằng, đổi mới như vậy
coi như đã xong, nay cần xem xét lại vì đã không còn động lực. Ý kiến khác đòi hỏi phải đổi mới mạnh
mẽ hơn về chính trị để tạo thêm động lực, nếu không, trước sau cũng sẽ đưa đến tàn lụi đất nước. Tựu
trung, chủ ý thâm độc nhất cho rằng đổi mới đã cạn kiệt nguồn lực, từ sau Đại hội XIII không đổi mới
nữa, hoặc nếu có đổi mới thì đổi mới về chính trị mà thôi.
Chúng ta có đủ luận cứ để bác bỏ các luận điệu đen tối đó.
1. Trước hết, cần khẳng định bản chất và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới.
Đổi mới là một cuộc vận động mang tính cách mạng không ngừng để thay cái cũ bằng cái mới tốt
hơn. Không phải bây giờ mà trong quá trình cách mạng, chúng ta luôn thực hiện sự đổi mới. Công cuộc
đổi mới lần này mang tính toàn diện, tổng thể, sâu sắc, liên tục và được chuẩn bị có bài bản. Đổi mới là
công việc của chúng ta, theo cách thức và bước đi của ta. Đổi mới là công cuộc sáng tạo mang tính tất
yếu. Công cuộc đó phải được triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ, nhưng phải cân nhắc từng đường
đi nước bước cụ thể, chắc chắn.Đổi mới đồng bộ, hài hòa giữa kinh tế và chính trị với mục tiêu giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đổi mới để phát triển, đồng nghĩa với phát triển, nhưng là sự phát triển trong thế ổn định, sự phát
triển theo đúng định hướng và con đường mà chúng ta đã chọn. Đổi mới là thực hiện bước chuyển từ cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, nhưng trong khi thực hiện cơ chế thị trường, Nhà
nước phải quản lý và điều hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường;
đổi mới để phát triển kinh tế, nhưng sự phát triển đó phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc
phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Đổi mới có yêu cầu và gắn với mở cửa, hội nhập. Đổi mới có yêu
cầu và gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Toàn bộ công cuộc hội nhập, mở cửa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền
vững; là để xây dựng và tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp; là để nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới. Vậy nên đổi mới chính là để hướng tới
chủ nghĩa xã hội, để hiện thực quá độ lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác lập rõ ràng hơn.
Đổi mới và cải cách có cùng nội dung hướng tới cái mới, cái tốt đẹp hơn. Nhưng cải cách thường
được hiểu là những hành động nhất định, những cuộc vận động nhất định nhằm những mục tiêu nhất
định. Khi những hành động cải cách ấy, những cuộc vận động, cải cách ấy đã đạt tới mục tiêu đề ra thì
phải có hành động cải cách mới, cuộc vận động, cải cách mới. Còn đổi mới, theo cách hiểu của chúng ta,
tuy cũng nhằm những mục tiêu nhất định trong những thời kỳ nhất định, song do bản chất và tính tất yếu
của nó, lại là một quá trình lâu dài.
2. Qua 35 năm đổi mới, "đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, là nguồn lực quan trọng,
là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước
trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước"(4).
.Đổi mới tư duy đã khắc phục được những nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan
duy ý chí, từng bước hình thành những quan niệm mới về mục tiêu, bước đi và cách thức phát triển đất
nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Công cuộc đổi mới
đã giải phóng sức sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng của một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - xã hội
được bảo đảm, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường,
an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được đẩy mạnh thêm.
Chính đổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương thực, nay trở thành nước
xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn tới thành
thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách
sống và làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có những nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Đổi
mới đã giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đã đạt được trước đây vừa có cách
nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với tình hình đang phát triển.
Đổi mới đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức đôi chân chúng ta đi thêm những bước dài
trên con đường hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, trong tiến trình đi lên, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, chúng ta không quên rằng
đất nước mình vẫn còn nghèo, sự phát triển của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
còn thấp, còn nhiều yếu tố chưa bảo đảm tăng trưởng cao và lâu bền, còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất
ổn định, mà những nhân tố đó còn có phần tăng thêm. Rõ ràng là phía trước của chúng ta không chỉ có
thuận lợi và thời cơ mà còn có những khó khăn và nguy cơ không thể xem thường. Càng như vậy, càng
phải tiếp tục đổi mới, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để đất nước tiếp tục phát triển bền vững.
3. Về động lực, nguồn của đổi mới.
Nếu quan niệm động lực, nguồn là những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển, thì
động lực của đổi mới bao gồm nhiều yếu tố tiềm ẩn và hiển hiện có thể nhận biết được.
Một là, yếu tố khơi nguồn động lực của đổi mới chính là việc định hướng đúng, phát động đúng
thời điểm. Chúng ta xác định đổi mới phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đúng đắn cho
sự nghiệp đổi mới vừa hợp thời, hợp quy luật, hợp lòng dân, vừa có sự chắc chắn, vững tin. Chuẩn bị kỹ
và phát động đổi mới đúng lúc, đồng thời với mở cửa hội nhập nên chúng ta có thể chủ động và sáng tạo
trong mọi tình huống, đã đứng vững và phát triển trong khi cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Đông Âu bị thất
bại.
Hai là, những thành quả của đổi mới lại tiếp thêm luồng sinh khí mới, tăng thêm động lực cho
nó, tạo cho đất nước ta thế mới, lực mới, gia tốc mới. Thế mới và lực mới là tổng hợp những thành tựu to
lớn về kinh tế - xã hội, là kết quả của việc phát triển mọi mặt với sự thông thoáng trong nước và mở rộng
quan hệ hợp tác với bên ngoài. Gia tốc mới là khả năng vượt trội, là độ tăng trưởng liên tục ở mức khá
cao tạo đà cho giai đoạn kế tiếp. Thế mới, lực mới, gia tốc mới tạo ra tầm vóc và khả năng mới của đất
nước. Đó không chỉ là khả năng đất nước vươn tầm mà còn là năng lực mới mạnh mẽ để tiếp tục thúc đẩy
sự nghiệp đổi mới phát triển. Đổi mới được nạp thêm năng lượng mới.
Ba là, yếu tố quyết định là động lực và những nguồn lực trong nước. Động lực quan trọng phục
vụ và thúc đẩy công cuộc đổi mới là tổng hợp các nguồn lực trong nước, bao gồm không chỉ có vốn, tài
sản đã tích lũy được mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, là lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và
quan trọng hơn hết là nguồn lực con người, bao gồm cả sức lao động trí tuệ và tinh thần gắn với truyền
thống văn hóa của dân tộc ta. Trong các nguồn lực đó, nguồn lực về tài nguyên là khá phong phú; nguồn
lực về đất đai, vị trí địa lý là khá thuận lợi; nguồn lực về truyền thống là sâu sắc, đặc thù; nguồn lực về
con người và trí tuệ vô cùng to lớn.
Bốn là, những nguồn lực từ bên ngoài. Đây là một yếu tố quan trọng, nếu biết cách tranh thủ
cũng sẽ tạo nên động lực cho công cuộc đổi mới đất nước. Nguồn lực bên ngoài bao gồm: vốn, kỹ thuật -
công nghệ, kinh nghiệm quản lý, chất xám, tinh hoa văn hóa nhân loại. Trên cơ sở phát huy mọi nguồn
lực trong nước, chúng ta có đầy đủ điều kiện để có thể thu hút nguồn lực bên ngoài. Với việc mở rộng
nhiều hình thức, có bước đi, biện pháp và chính sách ưu đãi thích hợp, chúng ta nhất định khuyến khích
mạnh mẽ việc hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ; đặc biệt là thu hút đầu tư trực
tiếp của nước ngoài vào nước ta trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Năm là, sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân. Đây là động lực mang tính quyết định đối với sự
nghiệp đổi mới. Động lực đó bắt nguồn từ năng lực sáng tạo, bản lĩnh trí tuệ của Đảng ta và của nhân dân
ta, thể hiện ở trình độ đoán định, nắm bắt những yếu tố và những vấn đề của thời cuộc, dự kiến đúng tình
huống, xác định đường đi nước bước rõ ràng, sẵn sàng tạo lập và nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy cơ,
vượt qua thách thức đưa đất nước đi lên. Do đổi mới là sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân nên khi Đảng
ta phát động nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tạo thành động lực to lớn thực hiện có hiệu quả sự nghiệp đổi
mới đất nước.
Rõ ràng là công cuộc đổi mới của chúng ta không chỉ đạt được những thành tựu to lớn qua 35
năm thực hiện, mà còn tiếp tục được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú và hết sức to lớn, trong
đó có những nguồn lực không bao giờ cạn. Hành trình đổi mới với sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân
đã và đang kết hợp nhuần nhuyễn ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là động lực lớn nhất, là yếu
tố cơ bản nhất tạo nên khả năng thành công của sự nghiệp cao cả trọng đại: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.

Câu 13:
Tham khảo câu 34: Trình bày hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối đổi mới do Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đề ra. ý nghĩa lịch sử của của Đại hội VI (12/1986)?
1.Hoàn cảnh lịch sử
-Về quốc tế: Trong 5 năm nhân dân ta tiếp tục nhận được sự giúp đỡ to lớn và sự hợp tác nhiều mặt
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.
-Về trong nước: Thực trạng xã hội nước ta đang ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội ....
2.Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VI của Đảng.
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VI của Đảng đã họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18 tháng
12 năm 1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu, thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên, ngoài ra còn có 35 đại
biểu quốc tế.
-Đại hội VI đã đánh giá đúng mức những thành tựu đã đạt được trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời với tinh thần nhìn thẳng vào, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã chỉ ra
những mặt yếu kém, những khó khăn gay gắt của kinh tế –xã hội nước ta.
-Đại hội rút ra những bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
+Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân .
Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
+Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện lịch sử mới.
-Đại hội khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
-Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện , trong đó trọng tâm là đổi mới
kinh tế :
-Vấn đề quan trọng trước tiên là phải xác định lại mục tiêu sát hợp với quy luật đi lên chủ nghĩa xã
hội từ sản xuất nhỏ. Đại hội xác định rằng, công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải
trải qua nhiều chặng đường: “Nhiệm vụ bao trùm , mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội , tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”
-Đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
+Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ
+Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất .
+Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển sản xuất .
+Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội .
-Đại hội đã đề ra một hệ thống giải pháp để thực hiện các mục tiêu nói trên:
+Bố trí lại cơ cấu sản xuất , cơ cấu đầu tư về xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới, sử dụng
và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế ....Đại hội nhấn mạnh giải pháp tập trung sức người, sức của
vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: lương thực-thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu.
Đại hội nhấn mạnh ba chương trình mục tiêu đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
+Đại hội khẳng định cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế,coi nền
kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đó là một giải pháp có ý nghĩa chiến
lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất , từng bước xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
+Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế . Đại hội khẳng định dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu
bao cấp , chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ .
Những quan điểm về vấn đề kinh tế quan trọng nói trên là một sự đổi mới rất cơ bản trong tư duy
kinh tế của Đảng.

Tham khảo câu 38:


-Đại hội VI đáp ứng yêu cầu của CMVN là đổi mới (tìm biện pháp, bước đi đúng để xd CNXH có
hiệu quả hơn)
- Nội dung cơ bản của đại hội: kiểm điểm 10 năm xd CNXH trên cả nước báo cáo chính trị của
đại hội đã chỉ ra những thành tựu ta đạt được và chỉ ra tính chất nghiêm trong của khủng hoảng kinh tế
XH, tình trạng lạc hậu về nhận thức lý luận, chậm tổng kết kinh nghiệm về thời kỳ QĐ lên CNXH, trong
công tác chậm thực hiện đổi mới cán bộ, đại hội VI rút ra 4 bài học kinh nghiệm:
* Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, chăm lo xd
và phát huy quyền làm chủ tập thể của ND lao động.
* Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo qui luật là điều kiện đảm bảo sự đúng đắn của Đảng.
* Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
* Chăm lo xd Đảng ngang tầm với đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành CMXHCN.
Chuû tröông ñoåi môùi toaøn ñieän vaø saâu saéc veà con ñöôøng xd CNXH trong thôøi kyø QÑ
ôû nöôùc ta
*Mục tiêu tổng quát: “ổn định mọi mặt tình hình KTXH. Tiếp tục xd những tiền đề cần thiết cho
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá trong chặn đường tiếp theo.”
*Năm mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặn đường đầu tiên là:
- SX đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
- bước dầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý hướng vào việc đẩy mạnh sx nông nghiệp, chủ yếu là
lương thực thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xk.
-XD và hoàn thiện một bước quan hệ sx phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của llsx .
- Tạo ra bước chuyển biến tốt về mặt xh ( trên các lĩnh vực tạo việc làm, công bằng xh, chống
tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương).
- Đảm bảo nhu cầu quốc phòng và an ninh.
Hệ thống giải pháp- những quan điểm mới trong lĩnh vực kinh tế mới:
* Bố trí cơ cấu sx:Điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư tập trung thực hiện ba chương trình về lương
thực thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng XK (đâu cũng là nội dung của đường lối CNH XHCN trong chặn
đường đầu tiên)
* Về cải tạo XHCN: là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH với
hình thức và bước đi thích hợp, xd qhsx phù hợp với tính chất và trinh độ của llsx, luôn luôn có tác dụng
thúc đẩy llsx. Công nhận nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, coi chủ trương phát triển nền kinh tế có
cơ cấu nhiều thành phần là chủ trương chiến lược lâu dài và là một đặ trưng của thời kỳ QDLCNXH.
* Về cơ cấu quản lý kinh tế: Xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, xd cơ chế mới (cơ chế thị trường)
phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế.
* Đổi mới sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý điều hành của nhà nước cho phù hợp với cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần và cơ chế quản lý mới.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện có nề nếp khẩu hiệu” dân biết dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Coi phát huy quyền làm chủ của nhân dân là động lực CNXH, động viên và tổ chức cho
nhân dân tham gia quản lý kinh tế và quản lý xh tham gia cải cách kinh tế.
- Mở rộng hợp tác quốc tế trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
Ý nghĩa của đại hội: đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong quá trình kế thừa và đổi mới
sự lãnh đạo của đảng về chính trị tư tưởng và tổ chức mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện và sâu
sắc, thành công của đại hội là sức mạnh mới, là cơ sở hết sức quan trọng trong việc tăng cường đoàn kết,
thống nhất giữa toàn đảng toàn dân.

Phân biệt chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và thực dân kiểu mới:
Sự khác nhau giữa thực dân kiểu mới và kiểu cũ
Chế độ thực dân kiểu cũ xuất phát từ Anh, Pháp, Tây ban nha và Bồ Đào Nha. Mục tiêu của
chúng là chiếm hữu các quốc gia khác làm thuộc địa, chiếm hữu người dân của nước khác làm nô lệ, làm
tay sai cho mình, phục vụ lợi ích kinh tế và quân sự của quốc gia mẫu quốc.
Lấy ví dụ: Pháp chiếm VN và bắt người dân VN trồng các loại cây Pháp cần, sản xuất các sản phẩm
Pháp cần và khi xảy ra chiến tranh thì chúng huy động người VN ra chiến trường với trang thiết bị thô sơ
(có khi còn không có) để làm bia đỡ đạn cho binh lính người Pháp. Chế độ thực dân kiểu cũ lộ rất rõ bản
chất thông qua các hành động của chúng như đánh chiếm, cai trị trực tiếp, sử dụng vũ lực và đàn áp người
dân đấu tranh...
Chủ nghĩa thực dân kiểu mới thì khác. Chúng xâm chiếm nước người nhưng không trực tiếp mà thông
qua viện trợ vũ khí, viện trợ quân sự, viện trợ kinh tế. Bề ngoài thì các nước bị xâm chiếm chẳng có vẻ gì là bị
lệ thuộc cả vì vẫn có bộ máy hành chính riêng, có các cơ quan chức năng riêng biệt như một nhà nước độc lập.
Tuy nhiên, ẩn sau đó là bàn tay của nước mẫu quốc. Điều này thể hiện rất rõ trong chiến tranh VN của Mỹ.
Chúng xây dựng nên chính quyền Sài Gòn và đứng đằng sau tháo túng. Chỉ huy trực tiếp là người đứng
đầu đại sứ quán của Mỹ tại SG, và đằng sau là bàn tay ẩn của tổng thống Mỹ. Một ví dụ để minh chứng: Khi
Diệm (người được Mỹ đưa lên làm tổng thống cái gọi là nền cộng hoà đầu tiên của VN) đã vững mạnh và bắt
đầu có ý kiến riêng, không nghe theo lời người Mỹ, Mỹ đã kích động để các vị tướng dưới quyền của ông ta làm
dảo chính và lên nắm quyền. Nhưng cái thể chế đó cũng trầy trật mãi đến khi Mỹ chọn được Thiệu thì mới tạm
yên bởi vì không còn chọn ai hơn được nữa và quan trọng nhất là Thiệu biết nghe lời). Bởi vậy, nhìn bề ngoài
thì VNCH là một quốc gia riêng biệt (có tổng thống, có quốc hội) nhưng thực chất chỉ là con rối của Mỹ giật
dây, điều mà chính Thiệu sau này cũng phải thừa nhận: "Người Mỹ chỉ đâu chúng tôi đánh đó, cho bao nhiêu
tiền đánh bấy nhiêu..."
Tổng hợp lại, CN thực dân kiểu cũ khác kiểu mới ở cách thức tiến hành, ở phương thức sử dụng và thủ
đoạn sử dụng. Kiểu cũ thì công khai còn kiểu mới thì ẩn mặt. Tuy nhiên, tất cả cũng chỉ vì lợi ích của nước làm
chủ cái nước bị xâm chiếm đó thôi.

Phân biệt Chiến tranh cục bộ, chiến tranh đặc biệt, Việt nam hóa chiến tranh:
I. GIỐNG NHAU:
– Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu phản
cách mạng của Mỹ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
– Đều chung mục tiêu là chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
– Đều có sự tham gia và chi phối của tiền của, vũ khí và cố vấn quân sự Mỹ.
– Đều bị thất bại.
II. KHÁC NHAU
1. Về lực lượng
(i) Chiến lược chiến tranh cục bộ: Quân Mỹ, quân một số nước đồng minh và quân đội Sài Gòn.
(ii) Chiến lược chiến tranh đặc biệt: Lực lượng chủ lực là quân đội Sài Gòn, có sự hỗ trợ của cố
vấn quân sự Mỹ.
(iii) Chiến lược chiến Việt Nam hóa chiến tranh: Quân đội tay sai là chủ yếu, có sự phối hợp về
không quân, hậu cần của Mĩ do cố vấn Mỹ chỉ huy.
2. Về Phạm vi – quy mô
(i) Chiến lược chiến tranh cục bộ: Toàn Việt Nam.
(ii) Chiến lược chiến tranh đặc biệt: Miền Nam.
(iii) Chiến lược chiến Việt Nam hóa chiến tranh: Toàn Đông Dương.
3. Về Âm mưu của Mỹ
(i) Chiến lược chiến tranh cục bộ: Nhằm nhanh chóng tạo ưu thế về quân sự, giành lại thế chủ
động trên chiến trường, đẩy lùi lực lượng cách mạng tiến tới tiêu diệt.
(ii) Chiến lược chiến tranh đặc biệt: “dùng người Việt đánh người Việt”
(iii) Chiến lược chiến Việt Nam hóa chiến tranh:
– “Dùng người Việt đánh người Việt” và “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
– Tận dụng xương máu của người Việt thay cho quân Mỹ.
4. Về Thủ đoạn của Mỹ
(i) Chiến lược chiến tranh cục bộ:
– Ồ ạt đổ quân viễn chinh Mỹ, quân thân Mĩ và phương tiện chiến tranh hiện đại vào Việt Nam.
– Tiến hành 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967) bằng hàng loạt
cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào “Đất thánh Việt cộng”.
– Kết hợp với chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tiêu hủy tiềm lực kinh tế – quốc phòng miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc,
từ Bắc vào Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
(ii) Chiến lược chiến tranh đặc biệt: “Ấp chiến lược” được coi như “xương sống”
(iii) Chiến lược chiến Việt Nam hóa chiến tranh:
– Tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu trên chiến trường,
quân Mỹ rút dần về nước, thực hiện “dùng người Việt đánh người Việt”.
– Sử dụng quân đội Sài Gòn mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Campuchia (1970), tăng cường
chiến tranh ở Lào (1971) thực hiện “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
– Tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các
nước này đối với nhân dân Việt Nam.
– Sẵn sàng Mỹ hóa trở lại cuộc chiến tranh khi có điều kiện.

You might also like