You are on page 1of 105

KHỐI KIẾN THỨC 2

(Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam +
Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống
xã hội + Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở + Nghiệp vụ công tác Mặt trận Tổ quốc
và đoàn thể nhân dân ở cơ sở)
MÔN : LỊCH SỬ ĐẢNG
Câu 1: Anh/chị hãy phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)?
Câu 2: Anh/chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa lịch sử của đường lối đổi
mới được hoạch định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1986)?
Câu 3: Anh/chị hãy phân tích những đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong điều kiện đảng cầm quyền?
Câu 4: Phân tích những điều kiện cơ bản đảm bảo vai trò lãnh đạo của
Đảng- Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam?
Câu 5: Phân tích quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc
(1945- 1975)?

MÔN: ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG


Câu 6: Anh/chị hãy cho biết tham nhũng, lãng phí là gì? Phân tích quan
điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Liên hệ với công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện nay.
Câu 7: Anh/chị hãy trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh của nước ta hiện nay?
Câu 8: Theo anh/chị, vì sao Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức? Ngành anh/chị đang công tác đã thực
hiện những giải pháp gì để đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước?
Câu 9: Phân tích đặc trưng mục tiêu, đặc trưng sở hữu, đặc trưng chế độ
phân phối của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo
đồng chí, để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
cần thực hiện những giải pháp nào?
Câu 10: Những thuận lợi và thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng trong
kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới từ năm 1986
tới nay?
Câu 11. Phân tích nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng cộng
sản trong đảng cộng sản từ đó đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc
này, liên hệ với thực tế của bản thân.
Câu 12. Phân tích nội dung nguyên tắc phê bình và tự phê bình trong đảng
cộng sản, liên hệ bản thân
Câu 13. Phân tích nội dung nguyên tắc đoàn kết trong đảng cộng sản,liên hệ
bản thân
2

MÔN: NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG


Câu 14: Anh/chị hãy phân tích ý nghĩa, nội dung công tác quản lý đảng viên
của tổ chức cơ sở đảng hiện nay? Liên hệ thực tiễn công tác quản lý đảng viên ở
chi bộ (đảng bộ) nơi Anh/chị đang công tác?
Câu 15: Vì sao Đảng ta khẳng định công tác tư tưởng là một trong những
phương thức lãnh đạo chủ yếu có vị trí quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng? Phân tích làm rõ tính phức tạp, nhạy cảm của công tác tư tưởng ở tổ
chức cơ sở đảng hiện nay? Liên hệ với việc thực hiện công tác tư tưởng của Đảng
ở chi bộ, đảng bộ, đơn vị cơ sở nơi Anh/chị đang sinh hoạt, công tác?
Câu 16: Trình bày vai trò của nhân dân và tầm quan trọng của công tác dân
vận của tổ chức cơ sở đảng. Để thực hiện tốt công tác dân vận ở tổ chức cơ sở đảng
cần lưu ý những yêu cầu gì? Liên hệ thực thực tế địa phương/cơ quan nơi đồng chí
đang công tác?
Câu 17. Trình bày nội dung, phương thức công tác dân vận của tổ chức cơ
sở đảng. Để thực hiện tốt công tác dân vận của tổ chức cơ sở Đảng cần lưu ý yêu
cầu gì? Liên hệ thực tiễn của địa phương hoặc cơ quan mình.

MÔN: NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ ĐOÀN THỂ


NHÂN DÂN Ở CƠ SỞ
Câu 18: Anh/chị hãy trình bày một số giải pháp chủ yếu tăng cường công
tác vận động công nhân ở cơ sở? Theo anh/chị, trong giai đoạn hiện nay, giải pháp
nào là quan trọng nhất? Vì sao?
Câu 19 : Anh/chị hãy trình bày chức năng và nhiệm vụ của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam? Liên hệ thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ của tổ chức Hội nơi
anh/chị sinh sống?
Câu 20. Phân tích hình thức tổ chức và nội dung hoạt động chủ yếu của
công đoàn cơ sở, Liên hệ thực tiễn.
3

TRẢ LỜI

MÔN : LỊCH SỬ ĐẢNG


Câu 1: Anh/chị hãy phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)?
Câu 2: Anh/chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa lịch sử của đường lối đổi
mới được hoạch định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1986)?
Câu 3: Anh/chị hãy phân tích những đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong điều kiện đảng cầm quyền?
Câu 4: Phân tích những điều kiện cơ bản đảm bảo vai trò lãnh đạo của
Đảng- Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam?
Câu 5: Phân tích quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc
(1945- 1975)?

GỢI Ý TRẢ LỜI


Câu 1: Anh/chị hãy phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với quá
trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)?

Trả lời
Năm 1911, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm tìm
tòi và khảo nghiệm, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ
đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị các điều kiện
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Có thể nói, Hồ Chí Minh là người sáng lập và
rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam bằng các con đường: (1) Qua hoạt động
của Hồ Chí Minh; (2) Qua sách báo; (3) Qua tuyên truyền từ những nhà yêu nước
có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản; (4) Qua các cán bộ được đào tạo, huấn luyện
theo hệ tư tưởng vô sản, đặc biệt là qua những người học tại các trường của Quốc
tế Cộng sản ở Liên Xô, qua các lớp của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; (5)
Qua việc “chuẩn bị đất” để gieo những hạt giống, gieo những tư tưởng vô sản một
cách ngoài ý muốn của chế độ hà khắc thực dân - phong kiến ở Việt Nam.
Các yếu tố trên đây được Hồ Chí Minh tác động bằng sự hoạt động năng nổ
khi Người tìm thấy mục tiêu và con đường cứu nước mới, đúng đắn, con đường
giải phóng dân tộc theo lý luận Mác-Lênin, đưa đất nước tiến đến mục tiêu chủ
nghĩa cộng sản và theo con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa cộng sản. Đó là kết quả của quá trình ra đi tìm mục tiêu và con đường
cứu nước của Hồ Chí Minh từ Sài Gòn năm 1911 đến khi trở thành người cộng sản
từ cuối năm 1920 và sau đó là cả quá trình phấn đấu bền bỉ chuẩn bị về mọi mặt
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đến năm 1930.
Về tư tưởng:
4

Dưới nhiều phương thức hoạt động, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất của
chủ nghĩa đế quốc, tập hợp lực lượng và tuyên truyền con đường cách mạng vô
sản.
Tại Pháp, giữa năm 1921, Hồ Chí Minh cùng một số nhà cách mạng của
các nước thuộc địa khác thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo
Le Paria (Người cùng khổ) vào ngày 1-4-1922. Người viết nhiều bài trên các báo
Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế ...
Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Hồ Chí Minh được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương.
Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào
cách mạng ở các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh tích cực tố cáo, lên án bản chất
áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc
địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp
phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các
nước thuộc địa. Người luôn kiên trì chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác
định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên
truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý
luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân
dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Về chính trị:
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin
về cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đưa ra những luận điểm quan trọng
về cách mạng giải phóng dân tộc.
Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Mặt khác, Người xác định cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính
quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải
phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính
quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích
cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: Trong nước nông nghiệp lạc
hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên
minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc cách mệnh; còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông” 1. Do vậy,
Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người”2.
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.2, tr.288.
22
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.2, tr.283.
5

Về vấn đề Đảng Cộng sản, Người khẳng định: Cách mạng “trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”3.
Những quan điểm đó được truyền bá qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, từng bước được chuyển tải về trong nước (qua phong trào “Vô sản hóa” từ
năm 1928) làm cho phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam
chuyển biến mạnh mẽ.
Về tổ chức:
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản - cho
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh
họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập”4. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế
về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi
có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức
thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực
trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn. Tháng 6-1925, Người thành lập
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là
Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình điều lệ của Hội, mục đích của Hội là
để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau
đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng
sản). Hội mở lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận Mác-Lênin cho những người trong tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Ban lãnh đạo Hội còn cử người đi học Trường Đại học Cộng sản phương
Đông (Liên Xô), Trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc). Hội xuất bản tờ
báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ, ra được 208 số.
Tháng 7-1925, Hồ Chí Minh tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị
áp bức ở Á Đông (cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên,
Inđônêxia...).
Tháng 4-1927, sau sự biến chính trị ở Trung Quốc, Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên chấm dứt hoạt động ở Quảng Châu. Sau đó, các bài giảng của Hồ
Chí Minh trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu nước
tại Quảng Châu được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản
thành cuốn Đường cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng
Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng
đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong trong
tương lai.

31
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.2, tr.289.
42
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.1, tr.209.
6

Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã
bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập.
Ngoài ra, Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan).
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản,
nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công
nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là
tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và cũng là sự
chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công
nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ
sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những
năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản.
Do sự liên hệ tác động bởi các yếu tố trên đây, đặc biệt là sự hoạt động
chuẩn bị của Hồ Chí Minh, đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, 3 tổ chức cộng
sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng;
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Cuối năm 1929, nhận được tin các tổ chức cộng sản đã ra đời và nhận thức
rõ những điều kiện thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi,
“với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi
vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương” 5, Nguyễn Ái Quốc từ
Xiêm (sau này được gọi là Thái Lan) đến Hồng Kông triệu tập và chủ trì Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đây là bản cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nêu lên những vấn
đề cơ bản thuộc về đường lối chiến lực và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi mới
Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và của toàn
thể dân tộc Việt Nam.

Câu 2: Anh/chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa lịch sử của đường lối
đổi mới được hoạch định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1986)?
Trả lời
Khái quát bối cảnh lịch sử:
Nửa đầu thâ ̣p niên 80 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và trong nước diễn
biến hết sức phức tạp:
Trên bình diện quốc tế, mô hình chủ nghĩa xã hô ̣i ở các nước xã hội chủ
nghĩa bô ̣c lô ̣ những khuyết tâ ̣t. Nhằm khắc phục những hạn chế, tìm kiếm giải pháp
khắc phục những mâu thuẫn vốn có của mô hình chủ nghĩa xã hô ̣i, nhiều đảng
cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa chủ trương tiến hành công cuô ̣c
51
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.3, tr.13.
7

cải cách, mở cửa và cải tổ.


Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế đối thoại thay cho đối đầu. Toàn cầu hóa
trở thành xu thế khách quan. Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về
bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn
có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng
những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế,
chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, xuất hiện hình
thái kinh tế mới của thời đại công nghệ thông tin là kinh tế tri thức, tác động sâu
sắc đến sự phát triển của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Các nước đang phát
triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống
tình trạng đói nghèo, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp áp đặt và xâm lược để bảo vệ
độc lập, chủ quyền quốc gia - dân tộc. Nhân dân thế giới đứng trước những vấn đề
toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Các nước cần thiết phải
hợp tác với nhau để chống nguy cơ chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh, biến đổi khí
hậu và suy thoái môi trường sinh thái.
Công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa diễn ra trong điều kiện các nước với chế độ xã hội và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Trên thực tế, cơ hội, thuận lợi đan xen với
những khó khăn, thách thức. Đổi mới và phát triển đất nước đòi hỏi phải giải
quyết những mối quan hệ lớn, đồng thời, nhạy bén nắm bắt những vấn đề mới
nảy sinh bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Ở trong nước, Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Sản xuất kém phát triển, các chỉ tiêu cơ bản như: lương thực, thực
phẩm, điện, than, xi măng, phân bón, gỗ, vải, hàng xuất khẩu không đạt, hiệu quả
sản xuất thấp.
Bên cạnh đó, phân phối, lưu thông rối ren do Nhà nước áp dụng chính sách
“ngăn sông, cấm chợ”. Các công cụ đòn bẩy kinh tế như chính sách giá cả, tiền tệ,
tài chính, tiền lương... đều không phát huy tác dụng, dẫn đến lạm phát gia tăng
(trên 300% năm 1985 và lên tới 774,7% năm 1986). Những khó khăn về sản xuất
và phân phối, lưu thông dẫn đến mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và
cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, giữa thu và chi,
giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Trong xã hội, xuất hiện nhiều tiêu cực, pháp luật, kỷ cương không nghiêm.
Một số cán bộ, công chức, viên chức nhà nước lộng quyền, tham nhũng. Đời sống
của nhân dân, nhất là nông dân, công nhân, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang gặp nhiều khó khăn. Nhiều nhu cầu chính đáng của người dân như ăn, ở,
thuốc men không được đáp ứng. Trước tình hình đó, niềm tin của các tầng lớp
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước bị giảm sút
nghiêm trọng.
Lợi dụng những khó khăn của Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức kích
8

động, lôi kéo người vượt biên trái phép. Trong xã hội xuất hiện làn sóng người
vượt biên trái phép đến các nước, các vùng trong khu vực như Malaixia, Hồng
Kông để từ đó đi tiếp những nước khác.
Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải ổn định kinh tế - xã hội, từng bước đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng. Đó là tiền đề để đưa đất nước phát triển, thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu và tình trạng kém phát triển. Yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi cơ
chế, chính sách, cơ cấu kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng
đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và những đặc điểm riêng của đất nước, khắc phục những biểu hiện của chủ
nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội và cả những biểu hiện bảo thủ,
trì trệ trong tư duy, quan điểm và hoạt động thực tiễn.
Nội dung: 6 vấn đề
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại
Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội đã thẳng thắn chỉ ra những
hạn chế, khuyết điểm trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong những năm 1975-1985, trong đó, có cả những sai lầm, khuyết điểm về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Trên cơ sở
phân tích sâu sắc những thành công và hạn chế sau 10 năm cả nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Nội dung đường lối đổi
mới được xác định trên những vấn đề cơ bản:
* Đổi mới cơ cấu kinh tế: Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của
V.I.Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ”6. Các thành phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể);
kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước;
kinh tế tự nhiên tự túc, tự cấp. Nhận thức và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3
chương trình kinh tế lớn.
* Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, hành chính, bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa
với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là “xóa bỏ
tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách
quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế” 7. Trong cơ chế quản lý đó, tính kế
hoạch là đặc trưng thứ nhất và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc
trưng thứ hai. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa
theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ.
* Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, t.47, tr.389-390.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H.1987, tr.63.
9

tế: Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thành một thể
thống nhất, có sự phân biệt rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp
theo nguyên tắc tập trung dân chủ: “Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính -
kinh tế của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương với chức năng quản
lý sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở” 8. Thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, thực hiện cơ chế “Quản lý đất nước bằng
pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý” 9.
* Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại: Trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc công
bố chính sách khuyến khích đầu tư với nhiều hình thức, nhất là những ngành đòi
hỏi kỹ thuật cao và làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho người
nước ngoài và Việt kiều về nước đầu tư, hợp tác kinh doanh,
* Đổi mới chính sách văn hóa - xã hội: Ban hành các chính sách xã hội cơ
bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng
trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Chú trọng phát huy yếu tố con
người và lấy việc phục vụ con người là mục đích cao cả nhất.
* Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng: Trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận,
vận dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo
thủ trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế
trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế
thừa tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng phải quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, phải nắm vững thực tiễn và không ngừng nâng cao trình độ trí
tuệ và đổi mới phong cách, phương pháp làm việc.
Ý nghĩa
- Với tầm nhìn đúng đắn thực trạng của đất nước, tổng kết được những kinh
nghiệm thành công và thất bại trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, với trách nhiệm
trước toàn Đảng, toàn dân, dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm trên tinh thần
đoàn kết nhất trí cao, Đại hội VI đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử: đề ra đường lối
đổi mới toàn diện, tìm ra lối thoát khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt nền
tảng cho việc hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Điều này có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu
bước ngoặt trong sự nghiệp Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Những quan điểm về ba vấn đề kinh tế quan trọng (bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế) là những sự đổi mới rất cơ bản trong tư duy kinh tế của Đảng, có ý
nghĩa định hướng cho việc tiếp tục thực hiện đẩy mạnh đổi mới kinh tế trong
những năm tiếp theo.
- Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra thể hiện sự phát triển tư duy lý luận,
khả năng tổng kết thực tiễn và tổ chức thực tiễn của Đảng, mở ra thời kỳ mới của
sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên CNXH.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, t.47, tr.398.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, t.47, tr.455.
10

Câu 3: Anh/chị hãy phân tích những đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong điều kiện đảng cầm quyền?
Trả lời
Khái niệm “đảng cầm quyền” được dùng ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa
và các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng cầm quyền là khái niệm để chỉ đảng chính trị
trong thời kỳ giành được quyền thiết lập và sử dụng bộ máy chính quyền để thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ của đảng cầm quyền theo hiến pháp, pháp luật.
Đảng Cộng sản cầm quyền là đảng đã giành được địa vị cần quyền thông
qua cuộc đấu tranh cách mạng vô sản hoặc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
lật đổ bộ máy chính quyền của giai cấp bóc lột, thiết lập một nhà nước kiểu mới –
nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để thực hiện mục đích cao
cả của đảng là xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền: Từ sau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng ta đã
trở thành đảng cầm quyền và là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội . Đảng thường xuyên nâng
cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò,
tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị”.
Đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền sau quá trình
Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã là lực lượng lãnh đạo cách
mạng đấu tranh giành lại độc lập cho Tổ quốc và lật đổ chế độ thực dân phong kiến
giành chính quyền về tay nhân dân lao động. Trong suốt quá trình đấu tranh lâu
dài, gian khổ đó, các tầng lớp nhân dân lao động luôn thừa nhận đường lối cách
mạng do Đảng đề ra là đúng đắn và các cán bộ, đảng viên luôn đi đầu trong đấu
tranh cách mạng, chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và quyền lợi của các giai
cấp, tầng lớp nhân dân lao động, gắn bó mật thiết với nhân dân. Vì thế, khii giành
được chinshq uyền, Đảng đương nhiên là Đảng cầm quyền, đảng viên được nhân
dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và đảm nhiệm các cương vị chủ
chốt trong bộ máy cơ quan nhà nước.
Hai là, nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi căn bản.
Tư chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của
cách mạng, là một bước phát triển mới về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Khi chưa giành được chính quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh
đạo nhân dân đấu tranh lật đổ chế độ cũ, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp bóc
lột; kh giành được chính quyền, nhiệm vụ đầu tiên của Đảng là thiết lập nhà nước
cách mạng của nhân dân và xây dựng xã hội mới, bao hàm cả nhiệm vụ bảo vệ
những thành quả cách mạng đã đạt được. Nếu trước đây nhiệm vụ hàng đầu của
11

Đảng là lãnh đạo quân sự, thì khi có chính quyền, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là
lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội.
Sự nghiệp xây dựng một xã hội mới – xã hội chủ nghãi, trên lý luận cũng
như trong thực tiễn rõ ràng là khó khăn gian khổ. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam diễn ra ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, lại đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa càng khó khăn, phức tạp đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và phải có nội dung, phương
thức lãnh đạo phù hợp.
Ba là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cục chủ yếu, sắc bén, thông
qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa – từ trong bản chất của mình – là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Trong hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước giữ vị trí trung
tâm và có vai trò cực kỳ quan trọng.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện tập trugn ở sự lãnh đạo đối với Nhà nước;
đường lối, chủ trương của Đảng được thực hiện chủ yếu thông qua Nhà nước. Nhà
nước cũng là tổ chức thể hiện tập trung nhất quyền làm chủ của nhân dân, là tổ
chức sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, thực hiện quyền lực
của nhân dân, nhân danh nhân dân để quản lý xã hội.
Có chính quyền, trừ những vấn đề thuộc về nội bộ Đảng, tất cả đường lối,
chủ trương, chính sách lớn của Đảng đều được thể chế hóa, cụ thể hóa thành chủ
trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Quyền lãnh đạo và uy tín của Đảng
trước hết được thực hiện thông qua hoạt động của Nhà nước. Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực la điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện có hiệu
quả vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội. Sức mạnh của Đảng cầm quyền
không phải chỉ là sức mạnh của bản thân Đảng, mà là sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà nước do Đảng lãnh đạo.
Có chính quyền, cán bộ, đảng viên được bố trí vào các cương vị, chức vụ
trong bộ máy nhà nước. Đó là việc làm cần thiết để thực hiện vai trò lãnh đạo của
Đảng. Nhưng, khi có chức, có quyền, một bộ phận cán bộ, đảng viên dễ lợi dụng,
lạm dụng chức quyền để làm điều sai trái như quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng, hối lộ, ức hiếp nhân dân, thoái hóa biến chất, vi phạm nghiêm
trọng quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân oán ghét, uy tín của Đảng bị
giảm sút. Hiện tượng này không gắn với bản chất của Đảng, của Nhà nước, nhưng
nếu không có biện pháp phòng ngừa và khắc phục có hiệu quả, nếu kỷ luật của
Đảng, pháp luật của Nhà nước thiếu nghiêm minh sẽ gây hậu quả khó lường. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng tham nhũng,
lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức
xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến
12

phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích
động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”;
“nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm là do xây dựng Đảng cầm queyenf
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và
khó, phài vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.
Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới”.
Bốn là, phương thức lãnh đạo của Đảng thay đổi căn bản.
Có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng đối với toàn xã hội là lãnh
đạo phát triển kinh tế- xã hội và các lĩnh vực khác của đất nước. V.I.Lênin đã chỉ
rõ: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc
loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của
ngày hôm qua”. V.I.Lênin đã cảnh báo những người cộng sản rằng: ai muốn dùng
phương pháp cũ trong cuộc đấu tranh giành chính quyền để giải quyết những
nhiệm vụ tổ chức của một đảng cầm quyền thì người đó sẽ phá sản hoàn toàn với
tính cách là nhà chính trị, là người xã hội chủ nghĩa.
Có chính quyền, nhiệm vụ xây dựng đất nước đòi hỏi Đảng phải có những
cách thức, phương pháp, hình thức lãnh đạo mới phù hợp. Đảng cầm quyền cần
đặc biệt chú trọng đến phương pháp lãnh đạo thông qua Nhà nước, phát huy vai
trò, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối,
chính sách của Đảng thành chinhs ách và pháp uật, bằng các hình thức, biện pháp
quản lý của Nhà nước. Đồng thời, Đảng phải thường xuyên coi trọng và phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội trong việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”. Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, nhưng Đảng là thành viên
của hệ thống đó. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; mọi biểu
hiện thiếu tôn trọng hoặc làm trái Hiến pháp, pháp luật đều dẫn đến nguy cơ làm
suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Năm là, Đảng ta là đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Đây là đặc điểm nổi bật chi phối mọi hoạt động của Đảng. Trước hết, nhân
dân ta chỉ chấp nhận Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời cho đến nay
là lực lượng lãnh đạo duy nhất của mình. Nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng. Tuy nhiên, là đảng duy
nhất cầm quyền, Đảng có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, thử
thách vần được khắc phục, nhất là biểu hiện quan liêu, xa dân, bao biện, làm thay,
lấn sân chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị- xã hội, đảng viên lợi dụng chức quyền tham nhũng, lãng phí…
Sáu là, Đảng lãnh đạo đất nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, là vấn đề mới mẻ, khó khăn và
13

phức tạp. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải tìm tòi, thử nghiệm để hình thành và lãnh
đạo Nhà nước, xã hội vận hành đúng đắn thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; phải có những quyết sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện lịch sử,
cụ thể trong từng thời kỳ phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, kinh tế quốc tế
và khu vực. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, trình độ quản lý,
nhất là các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực, còn thiếu.
Phát triển kinh tế thị trường nếu không có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước thì sẽ bị lệch hướng, đất nước có thể giàu nhưng
không mạnh, sự phân hóa giàu nghèo sẽ càng lớn, sẽ không có công gằng, dân chủ,
văn minh. Yêu cầu đặt ra là phát triển kinh tế thị trường, nhưng không được làm
mất đi tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, không dẫn tới sự phân hóa chính trị, kinh
tế, xã hội và mất đi những đặc trưng quý giá của văn hóa và con người Việt Nam.
Đảng lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện Nhà nước ta
đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, cần đề phòng kẻ xấu lợi dụng sơ hở của pháp luật để mưu cầu lợi
ích cá nhân, làm giàu bất chính; coi thường pháp luật, đặt mình lên trên pháp luật,
nhất là đội ngũ cán bộ nắm chức, nắm quyền, nắm tiền.
Nguy cơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Từ rất sớm, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã rất quan tâm và cảnh báo nguy cơ xuất hiện, phát triển các căn bệnh ở các đảng
cộng sản cầm quyền. Khi trở thành đảng duy nhất cầm quyền, Đảng rất dễ rơi vao
quan liêu, duy ý chí, xã rời quần chúng dẫn đến sai lầm về đường lối, lấn sân, bao
biện, làm thay Nhà nước, thậm chí dẫn đến “Đảng trị”, hoặc buông lỏng sự lãnh
đạo của Đảng làm suy yếu bản thân Đảng, vi trò của Nhà nước và các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1994) đã chỉ
ra 4 nguy cơ, thách thức của đất nước: thứ nhất, chệch hướng xã hội chủ nghĩa;
thứ hai, tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới; thứ
ba, tình trạng lợi dụng chức quyền tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí của cán
bộ, đảng viên; thứ tư, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống
phá Đảng, Nhà nước ta, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội XII của Đảng khẳng định bốn nguy cơ, thách thưc nêu trên vẫn tồn
tại, có mặt diễn biến phức tạp, nghiêm trọng hơn, như tình trạng tham nhũng, lãng
phí, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới
nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng internet để chống
phá ta; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; vấn đề “lợi
ích nhóm”; niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng,
của chế độ có mặt bị giảm sút. Chính vì thế, Đại hội XII đòi hỏi Đngr ta phải “tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đầy lùi suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ; tập trung thực hiện mục tiêu “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” trên nguyên tắc giữ vững và nâng cao vai trò
lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
14

Câu 4: Phân tích những điều kiện cơ bản đảm bảo vai trò lãnh đạo của
Đảng- Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam?
1. Khái niệm: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (theo điều 4 Hiến pháp 2013)
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện thông qua việc hoạch định đường lối,
chính sách; việc tập hợp, đoàn kết quần chúng thông qua MTTQ, các tổ chức CT-XH;
luôn luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chú trọng công tác kiểm
tra, giám sát.
a) Hoạch định đường lối, chính sách: Đảng đề ra đường lối, chủ trương cách
mạng, tập hợp, tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng, đưa đường lối, chủ
trương vào quần chúng, tổ chức quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Điều đó, lịch sử đã minh chứng bằng những chiến thắng vẻ vang
trong quá trình giành độc lập dân tộc của nước nhà. Đảng như người cầm lái vững
vàng giúp con thuyền cách mạng đến bến bờ thành công. Hiện tại, Đảng đang nỗ lực
đổi mới để nâng cao sức chiến đấu, phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình trong tình
hình mới thông qua những chủ trương, đường lối bám sát tình hình thực tế tại các chỉ
thị, nghị quyết gần đây. VD: Nghị quyết hô ̣i nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 3/6/2013 về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới",Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban
Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới…
b) Tập hợp, đoàn kết quần chúng thông qua MTTQ, các tổ chức CT-XH
- Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc.Đảng từ Nhân dân mà ra và vì Nhân dân phục vụ. Do vậy,
Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, luôn tôn trọng, phát huy
quyền làm chủ, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình. Đoàn kết, thống nhất là một nguyên tắt trong Đảng mà
điều lệ Đảng đã ghi rõ “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động,
lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, …đoàn kết trên cơ sở Cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng”.
- Đảng luôn chú trọng đến công tác tập hợp, đoàn kết quần chúng thông qua
MTTQ, các tổ chức CT-XH (đặc biệt là: Hội Cựu chiến binh, Công đoàn, Hội liên
hiệp Phụ nữ, Hội nông dân và Đoàn thanh niên). Đây là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân
dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thông
qua đó, Đảng kịp thời phát hiện và giải quyết các vấn đề khó khăn của Nhân dân, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Không những chăm lo đời sống của Nhân dân mà qua MTTQ và các tổ chức CT-XH
15

Đảng đã thực hiện tốt vai trò tập hợp, đoàn kết Nhân dân, tăng cường dân chủ và đồng
thuận xã hội từ khi chuẩn bị, xây dựng, thực thi và tổng kết chính sách, quyết định,
giúp người dân tham gia nhiều và thực chất hơn vào công cuộc xây dựng đất nước.
c) Luôn luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Để tạo dựng,
bảo vệ và đưa đất nước phát triển đạt được những thành quả quan trọng, mở rộng
quan hệ và nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế như hiện nay, Đảng
ta luôn luôn coi trọng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng kết hợp
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội của nhân dân thế giới. Trước tình hình phức tạp, ảnh hưởng nặng nề của biến
đổi khí hậu, sự gia tăng, diễn biến khó lượng của dịch bệnh, sự phát triển nhanh chóng
của khoa học, công nghệ ở trong và ngoài nước, Đảng - Nhà nước - Nhân dân ta đứng
trước nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Để tận dụng, phát huy tốt nhất
thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
cần đoàn kết một lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, các chỉ tiêu và nhiệm
vụ mà Đảng đã đề ra, gần đây nhất là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Do vậy,
mỗi chúng ta cần chủ động, tích cực tìm hiểu các chủ trương, đường lối của Đảng và
thường xuyên cập nhật các văn bản chỉ đạo của Đảng để làm kim chỉ nam cho hoạt
động của bản thân. Trong thời đại bùng nổ về thông tin mỗi chúng ta cần tự trang bị
cho mình hành trang để tăng khả năng chống chọi, miễn dịch với nạn “tin giả”, “tin
rác”, “tin gây nhiễu” và nâng cao khả năng phòng, chống sự tấn công phá hoại khối
đại đoàn kết thống nhất trong Đảng ta, khối đại đoàn kết của toàn dân tộc ta.
d) Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát có vị trí quan trọng trong hoạt động
của Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Hoạt động kiểm tra, giám sát là hoạt
động cần thiết đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức trong xã hội nhất là đối với Đảng. Điều
lệ Đảng quy định rõ “Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng”. Tổ
chức Đảng phải thực hiện công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức Đảng cấp dưới,
đối với đảng viên. Giám sát là hoạt động theo dõi việc thực hiện để bảo đảm công
việc thực hiện đúng đường hướng, đúng quy định. Kiểm tra là để nhận xét, đánh giá
giúp thúc đẩy hoặc kịp thời điều chỉnh hoạt động cho đúng quy định, sát thực tiễn.
Kiểm tra, giám sát gắn liện với sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua hoạt động kiểm tra,
giám sát giúp việc thực hiện đường lối, chính sách Đảng đề ra một cách hiệu quả,
đồng thời, giúp kiểm chứng thực tế chính bản thân của đường lối, chính sách đó để
kịp thời điều chính. Kiểm tra, giám sát là công việc của toàn Đảng, toàn dân. Nhân
dân có quyền kiểm tra, giám sát tổ chức đảng. Đảng đã và đang quan tâm việc nâng
cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội của
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) và tăng cường sự tham gia trực tiếp
của người dân để Nhân dân có điều kiện tốt hơn thực hiện quyền kiểm tra, giám sát
của mình.
3. Vai trò lãnh đạo của Đảng - Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam cần có bốn điều kiện cơ bản sau: công tác cán bộ, hoạch định đường
lối, củng cố niềm tin của Nhân dân và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
a) Cán bộ là “gốc” của công việc. Việc thành hay bại chính nhờ ở công tác cán
bộ tốt hay không. Nếu cán bộ có đủ năng lực, vững chuyên môn, phẩm chất đạo đức
16

tốt, biết phối hợp, giúp đỡ đồng nghiệp (khi cần) được đảm trách công việc đúng
chuyên môn, sở trưởng và đúng thời điểm thì tất việc sẽ thành công và tổ chức sẽ phát
triển. Theo Bác “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”. Do vậy, công
tác cán bộ hết sức tránh việc lựa chọn, phân công, bố trí chưa đúng người, đúng việc
sẽ làm thui chột tài năng, công việc thất bại. “Nhân vô thập toàn” do vậy dùng người
phải khéo và hãy đảm bảo đồng thời đủ 4 chữ đúng: đúng người - đúng việc - đúng
nơi - đúng lúc. Đặc biệt, chú ý đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ tâm để làm nguyên
khí quốc gia hưng thịnh và đủ tầm để dẫn dắt đất nước. Muốn vậy, mỗi chúng ta hay
quan tâm hơn đến việc nhận xét, đánh giá khi bình bầu cán bộ, lãnh đạo ở ngay chính
bộ phận, cơ quan, đơn vị mình.
b) Cán bộ tốt chưa đủ để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo
bằng chủ trương, đường lối vậy điều kiện tiếp theo để đảm bảo vai trò lãnh đạo của
Đảng là phải có chủ trương, đường lối đúng, hợp lòng dân và sát thực tiễn. Muốn có
chủ trường, đường lối như vậy Đảng tăng cường kết hợp công tác nghiên cứu lý luận
với công tác tổng kết thực tiễn và phát huy cao độ sự tham gia của Nhân dân. Nhân
dân hiện nay đang tham gia vào việc xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng thông
qua hình thức đại diện hoặc hình thức trực tiếp. Hình thức đại diện là qua MTTQ và
các tổ chức CT-XH. Hình thức trực tiếp như bỏ phiếu, điện thoại, gửi thư, góp ý trực
tiếp vào văn bản của Đảng thông qua bộ phận phụ trách hay Cổng thông tin điện
tử/website của tổ chức Đảng các cấp. Với ý thức về vai trò của người đảng viên bản
thân tôi nhận thấy cần chủ động và tích cực học tập, làm theo chỉ thị, nghị quyết của
Đảng về công tác cán bộ chẳng hạn như gần đây là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
19/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
c) Nếu chỉ dừng ở cán bộ tốt, đường lối đúng, chủ trương hay mà không đi vào
được thực tiễn thì vai trò lãnh đạo của Đảng chưa tròn. Muốn vào thực tiễn thì có sức
dân. Nhân dân chỉ thực hiện đường lối, chính sách của Đảng vạch ra khi có niềm tin
đủ lớn để thôi thúc hành động. Bởi vậy, điều kiện quan trọng cơ bản đểm đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Đảng là phải củng cố niềm tin của Nhân dân. Dân tin yêu Đảng, coi
Đảng là lẽ sống của mình thì tất nhiên đường lối, chủ trương của Đảng đề ra sẽ được
thực hiện thắng lợi và hoàn thiện vẹn tròn. Đảng muốn giữ vững vị trí là “niềm tin, lẽ
sống” của Nhân dân thì cần quyết liệt hơn để đảm bảo thực quyền của Nhân dân.
Đảng cần thực sự mạnh về năng lực, mạnh về sức chiến đầu, vững về tinh thần và cao
về chí hướng. Đảng phải gần dân, hiểu dân, thân thiết, gắn bó và yêu thương Nhân
dân. Mỗi tổ chức Đảng, đảng viên hãy thực hiện “Lo đi trước dân, hưởng đi sau dân”.
Khi Nhân dân lo lắng, khó khăn Đảng phải đi trước để gỡ khó cho Nhân dân. Khi
Nhân dân vui hưởng, an nhàn thì Đảng phải hưởng sau Nhân dân. Đất nước bình ổn
thì phải hết lòng dưỡng sức dân khi có nguy cấp dân mới có sức để tận tâm với nước.
d) “Niềm tin của Nhân dân” - sức dân - nội lực rất cần sự ủng hộ của bạn bè
quốc tế để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong kháng chiến giành độc lập dân
tộc để thành lập và thống nhất đất nước Việt Nam. Bên cạnh, sức lực trong nước của
17

toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta còn có sự ủng hộ, giúp đỡ thiết thực của bạn bè
quốc tế, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) anh em là một điều kiện quan
trọng, bảo đảm cho cuộc chiến đấu của quân và dân ta giành thắng lợi. Bác khẳng
định: "Mọi thắng lợi của Ðảng ta và của nhân dân ta không thể tách rời sự ủng hộ
nhiệt tình của Liên Xô, Trung Quốc và cả phe XHCN, của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, của phong trào hòa bình và phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới". Hiện nay, chính sách ngoại giao Đổi mới của Việt Nam được triển khai theo
tinh thần “là bạn, là đối tác tin cậy, và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế”. Tinh thần đó vừa khẳng định quyết tâm phát huy những giá trị truyền
thống, vừa xuất phát từ mong muốn của ngoại giao Việt Nam được đóng góp cho
hòa bình, thịnh vượng ở khu vực và thế giới. Với sự ủng hộ của bạn bè quốc tế,
Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng quan hệ đối ngoại.Đến nay Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với trên 180 nước trên thế giới, trong đó có 2 đối tác chiến lược
toàn diện, 13 đối tác chiến lược và 11 đối tác toàn diện. Trong quan hệ chính trị -
ngoại giao với các đối tác, mức độ hiểu biết và sự tin cậy lẫn nhau ngày càng được
nâng cao. Quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư không ngừng phát triển nhanh
chóng với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ.Việt Nam hiện là thành viên chính
thức của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực. Quan hệ hợp tác với các nước, các tổ
chức quốc tế và nhiều tổ chức phi chính phủ là những nguồn lực quan trọng đưa
nền kinh tế - xã hội Việt Nam không ngừng phát triển, từng bước hội nhập quốc tế
và khu vực. Việt Nam đang nỗ lực đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu,
phát triển quan hệ với các đối tác chủ chốt và các nước bạn bè truyền thống. Trong
ngoại giao đa phương, Việt Nam tiếp tục giữ vai trò thành viên chủ động, tích cực
và có trách nhiệm của ASEAN, đồng thời tham gia tích cực hơn nữa vào các cơ
chế đa phương khác, trước hết là Liên hợp quốc. Trong bối cảnh tình hình thế giới
và khu vực không ngừng diễn biến phức tạp, việc triển khai một cách hiệu quả
chính sách đối ngoại với định hướng nêu trên đang đặt ra những thách thức mới
đối với ngoại giao Việt Nam. Liên hệ viết thêm về nCoV nhé.

Câu 5: Phân tích quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong 30 năm đấu tranh giải phóng
dân tộc (1945- 1975)?
Trả lời:
1. Giai đoạn 1945-1954
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp,Đảng đã sớm nhận thấy xu
thế mới nổi lên trên thế giới là công nhận quyền tự quyết, quyền độc lập, quyền
bình đẳng của các quốc gia nên đã tranh thủ thành công xu thế đó phục vụ công
cuộc “kháng chiến, kiến quốc” nhằm mục tiêu của dân tộc là độc lập, tự do.  
Sức mạnh lớn nhất của dân tộc lúc này là đã có chính quyền hợp pháp được
đông đảo nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên, chính quyền đó chưa được quốc tế công
nhận. Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã chủ trương “thống nhất bên trong, tìm bạn bên
ngoài”, giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, chỉ ra “Bạn của ta là tất cả những nước
nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục đích ấy, cùng ta
18

chung một ý chí ấy”, đồng thời tranh thủ các xu thế và chuẩn mực mới hình thành
trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh để khẳng định sự tồn tại và bảo vệ thành quả
cách mạng của Đảng. Ta đã gửi thư, công hàm cho người đứng đầu chính phủ các
nước Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc, Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc,
thông báo về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và khẳng định
tính hợp pháp của nhà nước đó. Trong đấu tranh ngoại giao, ta đã triệt để khai thác
các cam kết của Đồng Minh nêu ra trong thời gian chiến tranh, trước hết là Hiến
chương Đại Tây Dương (8-1941), Hội nghị Teheran (12-1943), những nguyên tắc
pháp lý của quan hệ quốc tế nêu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc (6-1945).
Khi quân Tưởng tràn vào Miền Bắc, quân Anh tràn vào miền Nam kéo theo
quân Pháp trở lại Đông Dương, Đảng đã lãnh đạo thực hiện sách lược “Hòa Tưởng
để đánh Pháp”, sau đó “Hòa Pháp để đuổi Tưởng”, nhờ đó khai thác được mâu
thuẫn giữa Pháp và Tưởng, bảo toàn được chính quyền cách mạng non trẻ, kéo dài
được thời gian xây dựng và chuẩn bị lực lượng phục vụ kháng chiến.
Bài học thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh
đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần làm nên những thành tựu
cách mạng của dân tộc, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Có thể đưa ra các
bài học như sau:
Thứ nhất, trong xu thế toàn cầu hóa quốc tế đời sống các dân tộc hiện nay,
sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc, không thể tách rời sự tồn tại phát triển của
khu vực và quốc tế. Thế giới là một thể thống nhất, buộc các quốc gia dân tộc liên
kết, gắn bó với nhau. Quá trình gắn bó ấy, vừa phát huy tính độc lập tự chủ, sáng
tạo của mỗi nước, vừa tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau của các quốc gia dân
tộc. Nhận rõ điều đó, Đảng ta chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Việt
Nam là bạn, là đối tác tin cậy cùng các nước. Đây là quy luật của sự vận động phát
triển, càng có ý nghĩa khoa học đối với chúng ta rút ra từ kinh nghiệm Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Thứ hai, trong thời đại khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay,
chúng ta chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước sớm trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Chúng ta chỉ có thể đạt được mục tiêu, phát triển đất nước khi học
hỏi, tiếp thu, kế thừa, phát huy những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới.
Bởi lẽ lực lượng sản xuất, sức sản xuất của con người hiện nay ngày càng được xã
hội hóa mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu. Chỉ có như vậy chúng ta mới đi tắt, đón
đầu phát triển bền vững, thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển.
Thứ ba, trong thời đại ngày nay, nhiều vấn đề mang tính toàn cầu buộc
chúng ta phải kết hợp sức mạnh đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại mới có thể
giải quyết được. Đó là những vấn đề chiến tranh và hòa bình; khủng bố, xung đột
và chống khủng bố xung đột; vấn đề môi trường; chống bệnh tật; chống tội phạm;
về biến đổi khí hậu… Đây là những vấn đề đặt ra đe dọa sự ổn định và phát triển
của mọi dân tộc. Do vậy chúng ta không thể thờ ơ, đứng ngoài cuộc mà phải chung
tay giúp sức cùng nhân dân thế giới tạo sức mạnh giải quyết. Để đất nước ta ổn
định và phát triển bền vững, chúng ta không thể không kết hợp sức mạnh dân tộc
19

với sức mạnh thời đại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì thế bài học
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của thắng lợi Cách mạng tháng
Tám năm 1945 có giá trị lịch sử lớn lao, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối
với mọi thời đại.
Từ những năm 1948 - 1949, bối cảnh tình hình thế giới đã có những biến
chuyển hết sức sâu sắc. Cục diện thế giới hai cực Xô - Mỹ bắt đầu hình thành; nhà
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, hệ thống xã hội chủ nghĩa dần hình
thành trên thế giới. Đảng đã nhanh chóng nắm bắt thời cơ đó, gắn chặt hơn nữa
cách mạng độc lập dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đẩy mạnh
hoạt động đối ngoại với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác,
tranh thủ được sự đồng tình, công nhận và nguồn chi viện to lớn phục vụ công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời, Đảng chủ trương mở rộng mặt
trận đoàn kết với các dân tộc mới giành được độc lập như In-đô-nê-xi-a, Ấn Độ,
Mi-an-ma và lãnh tụ các phong trào giải phóng ở các dân tộc khác; tạo liên minh
đoàn kết chiến đấu Việt - Miên - Lào, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến
bộ và yêu chuộng hòa bình ở Pháp và trên thế giới, cử đoàn tham gia Hội nghị Hòa
bình thế giới tại Pari (1949), Vácxava (1950), Bắc Kinh (1952), lên án đế quốc và
gây sức ép chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
2. Giai đoạn 1954-1975
Thành công của Đảng là đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ hòa nhập dòng
chảy chính của những biến đổi cách mạng toàn cầu, đấu tranh cho những mục tiêu
cao cả của thời đại, vì hòa bình, dân sinh, dân chủ và Chủ nghĩa xã hội, nhờ vậy
công cuộc cách mạng của dân tộc đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới. Chiến thắng của Hiệp định Giơ-ne-vơ đã đem lại cho
dân tộc miền Bắc hoàn toàn giải phóng, độc lập, tự chủ, hợp pháp, được thế giới
công nhận và tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh mới này của dân tộc là nền tảng
để tiến tới mục tiêu cách mạng cao nhất là thống nhất đất nước. Trước một đế quốc
lớn và mạnh nhất thế giới như Mỹ, chiến lược của Đảng là mở rộng quan hệ đối
ngoại và tranh thủ sự giúp đỡ của các nước phục vụ công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, làm “hậu thuẫn vững mạnh” cho miền Nam, đồng thời tranh
thủ tối đa sự ủng hộ quốc tế trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Quán triệt
lời căn dặn của Bác: “Ngoại giao của ta là cốt tranh thủ nhiều người ủng hộ cuộc
đấu tranh chống Mỹ cứu nước”, ta đã triển khai hoạt động ngoại giao với phương
châm “làm sao vui lòng được mọi người, làm vui lòng từ người binh nhất, binh
nhì... tuy không được vừa lòng họ 100% nhưng không được làm mất lòng ai 100%,
vì cách mạng của ta phải dựa vào họ giúp đỡ...”14, ta đã đưa cuộc đấu tranh của
dân tộc vào Liên Hợp Quốc, Phong 14 Học viện Ngoại giao, Bác Hồ nói về ngoại
giao, Hà Nội, 1994, tr. 25, 27. trào Không liên kết và các tổ chức khu vực, là
những đặc điểm mới của trật tự thế giới hậu Chiến tranh thế giới lần hai mà các
nước vừa và nhỏ có thể tận dụng để bảo vệ lợi ích của mình. Đảng ta đã triệt để
thực thi chính sách “thêm bạn, bớt thù”, “gạn đục, khơi trong”, tranh thủ tập hợp
lực lượng trên các diễn đàn quốc tế quan trọng này để tạo ra các chuyển biến tập
hợp lực lượng quốc tế có lợi cho ta. Nhận thức rằng bên cạnh vai trò quan trọng
của nhà nước, vai trò của đông đảo nhân dân thế giới, nhất là các lực lượng tiến bộ
20

yêu chuộng hòa bình trên toàn cầu cũng làm thành một lực lượng hết sức quan
trọng ta có thể tranh thủ, hoạt động ngoại giao nhân dân, ngoại giao tâm công được
Đảng ta hết sức chú ý, nhờ vậy đã thu hút được đông đảo tầng lớp lao động, giới
trẻ, kể cả các nhân vật hoạt động chính trị, xã hội nổi tiếng thế giới ủng hộ. Hình
ảnh Thủ tướng Thụy Điển Olof Palmer dẫn đầu đoàn biểu tình phản đối Mỹ ném
bom Hà Nội là hình ảnh tiêu biểu. Bên cạnh đó còn nhiều Hội nghị, phiên tòa quốc
tế về tình hình Việt Nam và tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Cùng với các
biện pháp khác như đoàn kết hợp tác toàn diện và chặt chẽ giữa Việt Nam với Liên
Xô, Trung Quốc và các nước khác trong khối xã hội chủ nghĩa; đoàn kết và hợp tác
trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế; quan hệ hữu nghị, chặt chẽ với
Vương quốc Cam-pu-chia, Lào và nhân dân Pháp; tăng cường tình đoàn kết chiến
đấu với các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á-Phi và quan
hệ hữu nghị, hợp tác với các nước mới giành độc lập ở châu Á; tham gia vào
phong trào của các lực lượng tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống
các thế lực đế quốc, thực dân, Đảng ta đã huy động được sức mạnh và tạo được
môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc kháng chiến trong nước.
Sau thất bại tại Điện Biên Phủ (5/1954), thực dân Pháp buộc phải ký kết
Hiệp định Geneve (21/7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, rút quân về nước. Nhưng ngay sau đó, đế quốc
Mỹ tìm cách thay chân thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược nhằm biến
miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho
chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền
với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền
Nam còn nằm dưới sự cai trị của chủ nghĩa đế quốc, tay sai.
Thông qua các hình thức viện trợ, Mỹ đã dựng lên chính quyền, quân đội Sài
Gòn làm công cụ, ra sức đàn áp phong trào yêu nước của đồng bào miền Nam. Đặc
biệt, từ năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh
cùng nhiều loại vũ khí, trang bị cùng phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp
tham chiến ở miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam. Nhân dân ta phải đương đầu với kẻ thù có
tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần (Mỹ đã chi cho cuộc chiến tranh
Việt Nam 676 tỷ USD; huy động lúc cao nhất gần 55 vạn quân viễn chinh, 7 vạn
đồng minh, trực tiếp chiến đấu và làm nòng cốt cho khoảng 1 triệu quân đội Sài
Gòn; sử dụng 7,8 triệu tấn bom đạn - nhiều hơn lượng bom đạn trong bất cứ cuộc
chiến tranh nào trước đó).
Sau một thời gian tìm tòi, thể nghiệm về đường lối, trên tinh thần độc lập, tự
chủ, vượt qua những tác động tiêu cực từ bối cảnh quốc tế, tháng 1/1959, Hội nghị
lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định con
đường phát triển cơ bản của cách mạng nước nhà là: phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy
mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện mục tiêu
chung là giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tạo điều đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đường lối này sau được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960)
21

chính thức thông qua, đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết của đồng bào cả nước,
có ảnh hưởng quyết định đến thắng lợi cuối cùng của chiến tranh.
Trên cơ sở đường lối kháng chiến đúng đắn, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, Trung ương Đảng đề ra phương thức tập hợp quần chúng rất sáng tạo, đó
là thành lập các mặt trận dân tộc thống nhất riêng phù hợp với đặc điểm, điều kiện
ở từng miền, lấy liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng (Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ở miền Bắc; Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Liên minh các lực
lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình... ở miền Nam). Tuy mục tiêu, cương lĩnh cụ
thể không giống nhau, hình thức tổ chức cũng như cơ cấu, thành phần có nhiều
điểm khác nhau nhưng đều hướng đến mục đích tập hợp toàn dân thành một khối
thống nhất theo tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là cơ sở bảo đảm cho
sự lãnh đạo vững bền của Đảng, đồng thời phân hóa, cô lập cao độ kẻ thù. Chính
Bộ Quốc phòng Mỹ sau này thừa nhận rằng nhờ chiến lược đoàn kết đa dạng, phía
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nắm được các ngọn cờ dân tộc và chống thực dân,
do đó Mỹ và chính phủ Việt Nam cộng hòa (chính quyền Sài Gòn) chỉ còn lại có
độc ngọn cờ chống cộng.
Từ khối đại đoàn kết thống nhất, sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam
được nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua những phong trào thi
đua sôi nổi khắp cả nước, diễn ra trong mọi hoàn cảnh ác liệt bởi chiến tranh. Điển
hình như các phong trào: đơn vị vũ trang “Ba nhất,” thanh niên “Ba sẵn sàng,” phụ
nữ “Ba đảm đang,” giáo viên và học sinh thi đua “Hai tốt,” thiếu niên nhi đồng
“Làm nghìn việc tốt”... ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng,” “Một tấc
không đi, một li không dời,” “Thi đua giết giặc lập công,” “Tìm Mỹ mà đánh, tìm
ngụy mà diệt”... ở miền Nam.
Bằng sức mạnh đó, nhân dân miền Bắc vừa kiên cường chiến đấu, đánh bại
hoàn toàn hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc
Mỹ trong những năm 1965-1968 và 1972-1973 (bắn rơi gần 4.000 máy bay các
loại; bắn chìm, bắn cháy 268 tàu chiến, tàu biệt kích), vừa đẩy mạnh sản xuất, ra
sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Toàn bộ cuộc chiến tranh, miền Bắc đã
chuyển vào chiến trường hàng triệu tấn vật chất cùng hàng triệu thanh niên bổ sung
cho lực lượng chiến đấu. Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam không chỉ tạo nên
sức mạnh, phục vụ tốt nhiệm vụ chiến đấu, mà còn đáp ứng yêu cầu xây dựng
vùng giải phóng trên tất cả các mặt: kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế...
và chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải phóng khi chiến tranh kết thúc. Đó thực
sự là một trong những biểu tượng rõ nét cho tình đoàn kết của nhân dân miền Bắc
đối với miền Nam, tô đậm thêm sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Được miền Bắc tích cực chi viện, quân dân ta trên chiến trường miền Nam
anh dũng đấu tranh, phối hợp cùng nhân dân hai nước bạn (Lào, Campuchia) lần
lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ thù: “chiến tranh một phía” (1954-
1960), “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), “chiến tranh cục bộ” (1965-1968),
“Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1973), buộc chính phủ Mỹ phải ký kết Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1/1973), rút hết
quân viễn chinh về nước (3/1973), mở ra bước ngoặt mới cho kháng chiến.
22

Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, chớp thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, đề ra “Kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền
Nam”, ra lời kêu gọi động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ở cả hai miền đẩy mạnh đấu tranh tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa
giành toàn thắng.
Thực hiện quyết tâm Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa
Xuân 1975 lịch sử, mở đầu là chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3-3/4), tiếp đến là
đòn tiến công giải phóng Huế-Đà Nẵng (từ ngày 26-29/3) và cuối cùng là chiến
dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26-30/4). Sức mạnh đại đoàn kết từ hơn 20 năm được
dồn lại cho thời khắc lịch sử này.
Chỉ trong 55 ngày đêm, quân dân ta diệt, làm tan rã hơn 1,1 triệu quân địch,
đập tan bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn, giải phóng miền Nam, kết thúc
thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ
vang chặng đường 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc
(1945-1975), mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: cả nước độc lập, thống
nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sức
mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời đại Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc không phải ngẫu nhiên, mà là kết
quả hợp thành bởi nhiều nhân tố, nhưng nhân tố quyết định nhất là chủ nghĩa yêu
nước nồng nàn và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, đúng như Đại tướng
Văn Tiến Dũng đã từng khẳng định với các nhà báo phương Tây (năm 1985): “Sức
mạnh cách mạng là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm
chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay. Và Ban lãnh đạo Việt Nam biết tổ
chức khai thác, biết phát huy tất cả những sức mạnh đó để chiến thắng."
Rọi chiếu vào sức mạnh đại đoàn kết của đối phương, bản thân người Mỹ
cũng tự rút ra được nhiều bài học quý giá. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã
gây ra sự chia rẽ nước Mỹ mạnh mẽ nhất, sâu sắc nhất kể từ sau cuộc nội chiến
(1861-1865). Nhân dân trong nước phản đối, người lính ra trận thiếu động cơ, lý
tưởng chiến đấu. Đó thực sự là những khó khăn to lớn, như tướng Mỹ Bruce
Palmer thừa nhận: “Cuộc chiến tranh đã cho chúng ta (người Mỹ) thấy rằng, đất
nước không thể tiến hành chiến tranh trong sự lạnh nhạt của dân chúng, gửi những
chàng trai, cô gái đi chiến đấu trên chiến trường mà không có sự động viên của
mọi người."
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam với đỉnh cao
là Đại thắng mùa Xuân 1975 trở thành một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và mang tính thời đại sâu sắc. Làm nên Chiến thắng lịch sử ấy, toàn thể nhân dân
Việt Nam nêu cao tinh thần yêu nước đoàn kết một lòng xung quanh Đảng, bền
tâm vững chí, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược vì nền tự do, độc lập và
vẹn toàn sông núi, bờ cõi, biên cương... Việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc không chỉ là bài học lớn đối với thắng lợi cuộc kháng chiến năm xưa,
mà nó vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai
đoạn hiện nay.
23

MÔN: ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG


Câu 6: Anh/chị hãy cho biết tham nhũng, lãng phí là gì? Phân tích quan
điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Liên hệ với công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện nay.
Câu 7: Anh/chị hãy trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh của nước ta hiện nay?
Câu 8: Theo anh/chị, vì sao Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức? Ngành anh/chị đang công tác đã thực
hiện những giải pháp gì để đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước?
Câu 9: Phân tích đặc trưng mục tiêu, đặc trưng sở hữu, đặc trưng chế độ
phân phối của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo
đồng chí, để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
cần thực hiện những giải pháp nào?
Câu 10: Những thuận lợi và thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng trong
kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới từ năm 1986
tới nay?
Câu 11. Phân tích nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng cộng
sản trong đảng cộng sản từ đó đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc
này, liên hệ với thực tế của bản thân.
Câu 12. Phân tích nội dung nguyên tắc phê bình và tự phê bình trong đảng
cộng sản, liên hệ bản thân
Câu 13. Phân tích nội dung nguyên tắc đoàn kết trong đảng cộng sản,liên hệ
bản thân

GỢI Ý TRẢ LỜI


Giáo trình “ Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về
các lĩnh vực của đời sống xã hội”
Câu 6: Anh/chị hãy cho biết tham nhũng, lãng phí là gì? Phân tích quan
điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Liên hệ với công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện nay.

Trả lời: Trang 279-311và Giáo án của thầy Trường( Học viên in ra)
* Tham nhũng, lãng phí là gì?
+ Tham nhũng là khái niệm được dùng để chỉ một nhóm các hành vi nguy
hiểm cho xã hội của những người làm việc cho nhà nước thông qua quá trình thực
hiện các chức năng của nhà nước nhằm mục đích vụ lợi”.
Tham nhũng có những dấu hiệu cơ bản sau:
- Tính nguy hiểm cho xã hội
- Tính sử dụng quyền lực nhà nước
- Tính vụ lợi
24

+ Lãng phí được định nghĩa là làm tốn kém, hao tổn một cách vô ích; là
hành vi của con người làm hao tổn sức lực, của cải hoặc thời gian trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Lãng phí xảy ra phổ biến và gây tác hại lớn là lãng phí trong
hoạt động nhà nước và của các tổ chức sản xuất kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, lãng phí là việc quản lý, sử dụng
vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và các nguồn tài nguyên không hiệu quả.
Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thâ,r
quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước , vốn nhà
nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và các
nguồn tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã
định.
*Phân tích quan điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
(tr309-311)
Mục tiêu:
Quan điểm chỉ đạo:
Giải pháp chủ yếu:
*Liên hệ với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt
Nam hiện nay. (tr 299-309)
Hoặc trình bày ngắn gọn như slide của thầy Trường.

Bài 2 Thực trạng và một số giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay
Tham nhũng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn nhận được sự quan
tâm đặc biệt của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tham nhũng được nhận
diện là một quốc nạn, một trong bốn nguy cơ làm suy giảm niềm tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; công tác phòng, chống tham
nhũng được xác định là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và phức tạp. Bài viết
phân tích, đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới.

1. Thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
Theo số liệu do Tổ chức Minh bạch thế giới (TI) công bố, Chỉ số cảm nhận
tham nhũng (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên, thể hiện
một chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong công tác
phòng, chống tham nhũng (PCTN). Cụ thể, năm 2018, Việt Nam đạt 33/100 điểm,
xếp hạng 117/180 toàn cầu. Trong năm 2018, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ
lực đẩy mạnh công tác PCTN, điển hình là việc nhanh chóng, kiên quyết xử lý các
vụ án tham nhũng lớn và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PCTN. Tháng 11/2018,
Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương
với 96 điều. Chính phủ đã chỉ đạo tăng cường kiểm tra và tổ chức thực hiện
nghiêm các biện pháp PCTN như: đề cao tính liêm chính trong khu vực công, thực
hiện hiệu quả công tác kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công
25

chức... Vì vậy, chỉ số CPI của Việt Nam năm 2019 đạt 37/100 điểm, tăng 4 điểm
so với năm 2018, đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng
toàn cầu, tăng 21 bậc so với năm 2018. Đây là mức điểm cao nhất mà Tổ chức
Minh bạch thế giới đánh giá đối với Việt Nam và là năm có mức tăng điểm cao
nhất từ trước đến nay; cũng là sự khẳng định những kết quả tích cực trong công tác
PCTN ở Việt Nam.
Những kết quả nêu trên thể hiện quyết tâm chính trị cùng với những hành
động quyết liệt, thực hiện những giải pháp hiệu quả của Đảng và Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương trong công tác PCTN. Cụ thể, Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập “với mong muốn
đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng thêm một bước”(1). Trong nhiệm kỳ
Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, có 56.572 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 16.259
cấp ủy viên các cấp. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức
đảng và 33 đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có
khuyết điểm, vi phạm, trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách
3 tổ chức đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6). Ủy ban
kiểm tra các địa phương, đơn vị đã kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng
viên, trong đó số tổ chức đảng có vi phạm là 10.478, phải thi hành kỷ luật 791 tổ
chức đảng; số đảng viên có vi phạm là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ luật
20.344 trường hợp(2). 
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đến cuối năm 2018,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45 nghị quyết,
chỉ thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống
tham nhũng; Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua, ban hành 45
luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 511 nghị định, 413 nghị
quyết, 160 quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi
hành kỷ luật 53.306 đảng viên với hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý,
trong đó có 16 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng,
trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị(3).
Trong năm 2019, công tác PCTN đã có bước tiến mạnh mẽ với nhiều chủ
trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, do đó tham nhũng được kiềm chế, từng
bước ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần quan trọng giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên
trường quốc tế. Nổi bật là đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế trên các lĩnh
vực đời sống: “Cụ thể là Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 30
văn bản về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN. Quốc hội đã thông qua 18
luật, 20 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 100 nghị định,
119 nghị quyết, 37 quyết định, 33 chỉ thị. Như vậy, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội
ĐBTQ lần thứ XII đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung
ương quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng
vũ trang”(4). Những tháng đầu năm 2020, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN yêu
26

cầu tập trung đưa ra xét xử sơ thẩm 10 vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận
xã hội quan tâm.
Có thể khẳng định rằng, công tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được nâng lên. Có thể
khái quát một số đặc điểm của công tác PCTN ở Việt Nam như sau: 
- Không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, không chịu
sự tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào;
- Làm từng bước, rõ đến đâu xử lý đến đó; 
- Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc; 
- Nhân văn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; 
- Lấy phòng ngừa là chính, cơ bản, phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác PCTN ở Việt Nam vẫn còn một số hạn
chế như: công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN hiệu quả chưa cao, hiện tượng
phải hối lộ, bôi trơn hoặc tác động bằng hình thức khác để được thuận lợi hơn
trong giải quyết công việc còn phổ biến; một số cơ chế, chính sách còn thiếu chặt
chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn; thực thi pháp luật có lúc, có nơi chưa nghiêm.
Công tác tổ chức, cán bộ, kiểm soát tài sản, thu nhập còn nhiều hạn chế, vướng
mắc; vấn đề phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tự phát
hiện, xử lý tham nhũng trong nội bộ...
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam 
Để nâng cao hiệu quả công tác PCTN trong thời gian tới, cần triển khai thực
hiện một số giải pháp sau:
Một là, giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng viên trong
từng giai đoạn cách mạng.
Chỉ có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối cách mạng của Đảng mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định đúng mục
tiêu, lý tưởng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Thực hiện
giáo dục liêm chính, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về phòng, chống
tham nhũng: “Liêm” là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; trong
sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, không cậy quyền thế mà đục
khoét, ăn của dân, dìm dập người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình.
“Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó
học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi những
khuyết điểm. Đối với người: không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Ðối với
việc: đặt việc công lên trên việc tư, làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, không
ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân, cho nước. 
27

Hai là, coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên.
Có thấm nhuần đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên mới giữ gìn được lối
sống trong sạch, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng và
mọi tệ nạn xã hội. Chính phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên là sức “đề kháng” mạnh mẽ chống lại mọi suy thoái, biến chất. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên và những
giải pháp cơ bản để khắc phục, ngăn ngừa. Trong tình hình hiện nay, cùng với việc
thực hiện quyết liệt các giải pháp nêu trên, cần bổ sung thêm những biện pháp,
những cách làm mới, thiết thực. Đổi mới công tác quản lý, kê khai tài sản của đảng
viên đối với chi bộ; tăng cường các biện pháp giáo dục, kiểm tra, giám sát cán bộ,
đảng viên. Nếu như những biểu hiện “lệch chuẩn”, sự suy thoái về đạo đức, lối
sống sớm được phát hiện, chấn chỉnh từ nơi đảng viên công tác, thì sự tha hóa,
tham nhũng sẽ được ngăn chặn kịp thời.
Ba là, xác định tiêu chí và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về
đạo đức, kết hợp hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
4 (khóa XI) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII của Đảng gắn
với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức bao gồm toàn bộ các hoạt động, từ giáo
dục cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân
và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xử lý theo pháp luật và kỷ luật
đảng đối với cán bộ, đảng viên vi phạm; rèn luyện lập trường quan điểm, bồi
dưỡng tư tưởng, lý tưởng cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực
hành đạo đức, lối sống theo chuẩn mực tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, đến xây dựng tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, đảng viên, cụ
thể hóa thành tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ; phát huy tính tiền
phong gương mẫu, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên… Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4
khóa XII của Đảng chỉ phát huy hiệu quả nếu mỗi cán bộ, đảng viên và cơ quan,
đơn vị kiên trì, kiên quyết từng bước đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. 
Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần chú trọng công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
Từng tổ chức cơ sở đảng cần hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là của bí thư cấp ủy các
cấp. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đề
cao tinh thần tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại
đấu tranh với những biểu hiện vi phạm. Đồng thời, có cơ chế bảo vệ, khuyến khích
người dám đấu tranh, bảo đảm ngăn chặn kịp thời mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” ngay từ cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cần tích cực, chủ
28

động và kịp thời bổ sung những nội dung phù hợp; phối hợp chặt chẽ với công tác
bảo vệ chính trị nội bộ trong phát hiện, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm. Từng cấp
ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp nắm rõ thực trạng và nguy cơ của tình
hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong tổ chức mình; kịp thời phát hiện
sớm và ngăn chặn hiệu quả mọi biểu hiện vi phạm. Tăng cường hơn nữa vai trò,
hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, các
cơ quan nội chính, ủy ban kiểm tra các cấp cũng như các cơ quan pháp luật.
Về cán bộ và công tác cán bộ, Đảng ta đã luôn khẳng định: công tác cán bộ
là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Cuộc đấu
tranh PCTN có thành công vững chắc hay không phụ thuộc một phần quan trọng
vào việc có làm tốt công tác cán bộ hay không. Vì vậy, trong thời gian tới cần thực
hiện nghiêm Quyết định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm
soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền.
Năm là, phát huy vai trò tích cực của báo chí, truyền thông, kiểm soát, quản
lý tốt các hoạt động báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí, truyền thông trong
đấu tranh với các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Các cơ quan báo chí, truyền thông phải phản ánh trung thực, kịp thời,
góp phần đưa chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống và là
kênh thông tin quan trọng phát hiện những mặt tiêu cực trong xã hội, những biểu
hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Bên cạnh đó, báo chí,
truyền thông đóng vai trò giám sát và phản biện xã hội; nâng cao hiệu quả  tuyên
truyền, nêu gương người tốt, việc tốt, lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực, chú
trọng việc giáo dục đạo đức bằng cách nêu gương của cán bộ, đảng viên, thực hiện
nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương
quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
Sáu là, hoàn thiện chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ để từng bước
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích thiết thân của đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với
công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện đẩy mạnh cải cách tiền
lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công
chức để góp phần PCTN. Ngoài sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức thì trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền, người
đứng đầu cơ quan, đơn vị các cấp phải thật sự quan tâm đến điều kiện làm việc, thu
nhập và cuộc sống cho họ. Chống đặc quyền, đặc lợi, đồng thời có những chính
sách, quy định chế độ khen thưởng cả về vật chất và tinh thần, bảo đảm công khai,
dân chủ, công bằng giữa các cấp quản lý cán bộ và giữa cán bộ, công chức với
nhân dân./. 
Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020( Phần này
tham khảo)
Trên cơ sở nhận định tình hình đất nước với những thành tựu đã đạt được
29

sau 20 năm đổi mới cũng như nhiều nguy cơ phải đối mặt, trong đó có tệ tham
nhũng, ngày 21-5-2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP “Chiến
lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020”.
Theo đó, Chính phủ khẳng định những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
trong phòng, chống tham nhũng: chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành,
các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề
cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân; là nhiệm vụ
quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới; sử dụng
tổng thể các giải pháp chống tham nhũng; vừa tích cực, chủ động trong phòng
ngừa, vừa kiên quyết trong phát hiện, xử lý với những bước đi vững chắc, có trọng
tâm, trọng điểm, trong đó phòng ngừa là cơ bản, lâu dài; gắn chống tham nhũng
với thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí; xây dựng lực lượng chuyên
trách đủ mạnh, có phẩm chất chính trị, bản lĩnh đạo đức nghề nghiệp làm nòng cốt
trong công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng theo hướng chuyên môn
hóa với các phương tiện, công cụ, kỹ năng phù hợp, bảo đảm vừa chuyên sâu, vừa
bao quát các lĩnh vực, các mặt của đời sống kinh tế - xã hội; đặt quá trình chống
tham nhũng trong điều kiện hội nhập, chủ động hợp tác hiệu quả với các quốc gia,
các tổ chức quốc tế; chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của nước ngoài trong công tác chống tham nhũng.
Thông qua các mục tiêu cụ thể, Chính phủ đặt mục tiêu trong 10 năm sẽ
ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần các cơ hội, điều kiện phát
sinh tham nhũng, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính; lành mạnh hóa các quan
hệ xã hội thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện và
xử lý tham nhũng; củng cố lòng tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chính phủ nêu các nhóm giải pháp: Tăng
cường tính công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực
hiện pháp luật; hoàn thiện chế độ công vụ, công chức, nâng cao chất lượng thực thi
công vụ; hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh
tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện, xử lý
tham nhũng; nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong phòng,
chống tham nhũng.
Chính phủ xác định lộ trình thực hiện Chiến lược qua 3 giai đoạn. Giai đoạn
1 (đến 2011): Thực hiện đồng bộ các giải pháp như nâng cao năng lực phát hiện,
xử lý các hành vi tham nhũng. Đẩy mạnh việc xử lý những vụ việc tham nhũng nổi
cộm, gây bức xúc trong dân. Giai đoạn 2 (từ năm 2011-2016): Tiến hành mở rộng
các biện pháp phòng ngừa như kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
Tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, làm căn cứ cho việc sửa
đổi, bổ sung luật này phù hợp với tình hình mới. Giai đoạn 3 (2016-2020): Tiếp tục
làm tốt các giải pháp đã đề ra và đã thực hiện từ các giai đoạn trước. Tổng kết việc
30

thực hiện Chiến lược vào năm 2020.


Chính phủ chịu trách nhiệm chỉ đạo các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, ban hành kế hoạch cụ thể thực hiện
các nhiệm vụ được xác định trong Kế hoạch thực hiện Chiến lược. Thanh tra Chính
phủ có nhiệm vụ giúp Chính phủ theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chiến
lược. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát hệ thống
văn bản luật, nghị quyết, pháp lệnh để Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung, ban hành nhằm thực hiện Chiến lược. Các cơ quan
của Chính phủ phối hợp với cơ quan, tổ chức khác thực hiện những nội dụng liên
quan đến phạm vi trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đó được nêu trong Chiến lược.
Chính phủ kiến nghị các cấp ủy đảng quan tâm lãnh đạo, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện Chiến lược.

Câu 7: Anh/chị hãy trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh của nước ta hiện nay?
Trả lời:
trang 359-366 trong Giáo trình và tài liệu của thầy giáo( Học viên tự in ra)
2.1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VỚI TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH
Ở VIỆT NAM:
2.1.1: Khái niệm:
Kết hợp kinh tế với Quốc phòng, an ninh là sự gắn kết giữa kinh tế với Quốc
phòng và an ninh trong một thể thống nhất nhằm bổ sung, tạo điều kiện, thúc đẩy
cùng nhau nhịp nhàng phát triển với hiệu quả kinh tế xã hội cao, kinh tế phát
triển, Quốc phòng, an ninh vững mạnh góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh
tổng hợp của đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc
gia và trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nếu chiến tranh xảy ra
thì đánh thắng.
Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên, gắn liền với sự tồn tại
của xã hội loài người. Đó là toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra
của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các
hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực : kinh tế, chính trị, quân sự,
văn hoá, xã hội... nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
An ninh, trạng thái ổn định an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm để đe doạ
sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực
hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực lượng an ninh
làm nòng cốt ; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng.
Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh ở nước ta là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong
31

việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trong một
chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy
nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, chúng ta phải kết hợp phát triển kinh tế –
xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong một chính thể thống
nhất. Quan điểm trên là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, có cơ sở lí luận và thực tiễn 
2.1.2: Cơ sở lí luận của sự kết hợp
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc
gia, dân tộc độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động
riêng và chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối
quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng
quyết định đến quốc phòng - an ninh ; ngược lại, quốc phòng - an ninh cũng có tác
động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng, an
ninh. Lợi ích kinh tế, suy cho đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn
và xung đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phòng, an
ninh.
Bản chất của chế độ kinh tế - xã hội quyết định đến bản chất của quốc
phòng-an ninh: Xây dựng sức mạnh quốc phòng, an ninh vì mục đích bảo vệ và
đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội, xã
hội chủ nghĩa quy định; còn tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh vì mục
đích bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược
là do bản chất của chế độ kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp nhân lực, vật lực cho hoạt động
quốc phòng - an ninh. Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Không có gì phụ thuộc vào
kinh tế tiên quyết hơn là chính quân đội và hạm đội" ; "Thắng lợi hay thất bại của
chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,...". Vì vậy, để xây dựng quốc
phòng, an ninh vững mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực, vật lực cho quốc phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của
lực lượng vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng - an ninh. Để
xây dựng chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia của mỗi nước, phải căn cứ vào
nhiều yếu tố, trong đó tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang và vào trang bị binh
khí kĩ thuật hiện có là căn cứ đặc biệt quan trọng. Những yếu tố này đều phụ thuộc
vào nền kinh tế.
Quốc phòng - an ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở
lại với kinh tế – xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực. Quốc phòng - an ninh
vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển kinh tế – xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh
trong thời bình, ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển.
32

Tiêu dùng cho hoạt động quốc phòng, an ninh, một mặt, đặt ra cho nền kinh tế phải
sản xuất ra sản phẩm, hoặc thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của nó; mặt khác, sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm của
nền kinh tế.
Hoạt động quốc phòng, an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực,
vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I. Lênin đánh giá, là tiêu
dùng "mất đi", không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu
dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động quốc
phòng - an ninh còn ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế.
Hoạt động quốc phòng - an ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái,
để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế
những tác động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh với phát triển kinh tế – xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực
hoạt động đều có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục
đích chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, cần
phải nhận thức rõ mỗi lĩnh vực có quy luật phát triển đặc thù, do đó, việc kết hợp
phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài hoà.
2.1.3: Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp
Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù
là nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính
trị như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh
tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, kể cả những nước mà hàng trăm
năm nay chưa hề xẩy ra chiến tranh.
Tuy nhiên, các nước khác nhau, với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, điều
kiện hoàn cảnh khác nhau thì sự kết hợp đó cũng có sự khác nhau về mục đích, nội
dung, phương thức và kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát
triển thì sự kết hợp cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử. Dựng nước đi đôi với
giữ nước đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Đứng trước nguy cơ thường xuyên bị đe dọa, xâm lược và thôn tính của các
thế lực thù địch, để xây dựng và phát triển đất nước, ông cha ta đã có những chủ
trương, kế sách thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng, an ninh trong quá trình dựng nước và giữ nước. Các triều đại
phong kiến Việt Nam luôn lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ
nước với tư tưởng : "nước lấy dân làm gốc", "dân giàu, nước mạnh", "quốc phú
binh cường" ; thực hiện "khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc", chăm lo xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc để "yên dân" mà "vẹn đất". Thực hiện kế sách "ngụ
binh ư nông", "động vi binh, tĩnh vi dân", “bách tính gia binh” để vừa phát triển
kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
33

Trong xây dựng, phát triển kinh tế, đã sử dụng nhiều chính sách như khai
hoang lập ấp ở những nơi xung yếu để "phục binh sẵn, phá thế giặc dữ" từ xa ; phát
triển nghề thủ công để vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất, vừa sản xuất ra các vũ
khí, phương tiện phục vụ cho toàn dân đánh giặc; chăm lo mở mang đường sá, đào
sông ngòi, kênh rạch, xây đắp đê điều để vừa phát triển kinh tế, vừa tạo thế trận
đánh giặc, cơ động lực lượng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm
vững quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp
phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh một cách
nhất quán bằng những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kì của cách
mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) Đảng
ta đề ra chủ trương "Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "Vừa chiến đấu, vừa tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm"; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương
vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp; "Xây dựng làng kháng chiến", địch
đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo
thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp.
Ở miền Bắc, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn
cho miền Nam đánh giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương: "Trong
xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như trong
củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh
tế". Theo tinh thần đó, miền Bắc đã xây dựng, phát triển chế độ xã hội mới, nền
kinh tế, văn hoá mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời kết hợp
chặt chẽ với chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, đánh thắng chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi
viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mĩ xâm
lược.
Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch
với củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh. Đây
chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
Ở thời kì này, chúng ta phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, nên việc kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh được thực hiện dưới nhiều
hình thức phong phú, sinh động và thiết thực, đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh
thắng giặc Mĩ xâm lược và để lại nhiều bài học quý giá cho thời kì sau.
Thời kì cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến
nay) kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy mô
rộng lớn, toàn diện hơn. Từ năm 1986 đến nay, với tư duy mới về kinh tế và quốc
phòng, an ninh, việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc
34

phòng, an ninh trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban ngành có
bước chuyển biến cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết
quả quan trọng.
Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng
cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là
chăm lo củng cố tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy, khi đất nước
bị xâm lược chúng ta đã động viên được "cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc";
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để
chiến thắng kẻ thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho đến
ngày nay.
2.2: NỘI DUNG KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VỚI TĂNG
CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.2.1: Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh phải được thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của
quốc gia. Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội nước ta
từ năm 2006 - 2010 là "... Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế thế giới; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".
Như vậy, trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã bao quát
toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó nổi lên ba vấn đề lớn là: tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh và mở rộng
quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài hoà hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng,
an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch
định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và
thực hiện các giải pháp chiến lược.
Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh sẽ
phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng
hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lực lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành
thắng lợi mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
2.2.2: Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng - an ninh trong phát triển các vùng lãnh thổ
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh theo vùng lãnh thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược,
với xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, an ninh, nhằm tạo ra thế bố trí chiến
35

lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên địa
bàn tỉnh, thành phố, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
vững trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng chiến
lược, các quân khu (sự phân vùng chiến lược quốc phòng, an ninh là sự phân vùng
theo ý đồ phòng thủ và tác chiến bảo vệ Tổ quốc trên từng chiến trường, từng
hướng chiến lược của đất nước). Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển
kinh tế và chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, về lâu dài đều phải quan
tâm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với xây dựng lực lượng,
thế trận quốc phòng - an ninh trên từng vùng lãnh thổ và giữa các vùng với nhau,
trong thế trận phòng thủ chung.
Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu
nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên nội dung kết hợp cụ thể
trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song việc kết hợp phát triển kinh tế – xã
hội với quốc phòng, an ninh ở các vùng lãnh thổ, cũng như ở địa bàn mỗi tỉnh,
thành phố phải được thể hiện những nội dung chủ yếu sau :
Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng
tỉnh, thành phố.
Hai là, kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh
tế địa phương với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu
liên hoàn, các xã phường chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh, thành phố, huyện,
quận.
Ba là, kết hợp trong quá trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại
dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp bố trí lại lực lượng quốc
phòng, an ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có
biển, đảo là ở đó có dân và có lực lượng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo
vệ Tổ quốc.
Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các công
trình quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường... Bảo đảm tính
"lưỡng dụng" trong mỗi công trình được xây dựng.
Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng
khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phương
vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có chiến
tranh xâm lược.
Trên cơ sở kết hợp quan điểm toàn cục nói trên, xuất phát từ sự phân tích
đặc điểm tiềm năng phát triển kinh tế cũng như vị trí địa lí, chính trị, quân sự, quốc
phòng, an ninh của các vùng lãnh thổ trong cả nước, hiện nay Đảng ta xác định
phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng
biên giới.
 Đối với các vùng kinh tế trọng điểm
36

Hiện nay, nước ta xác định 3 vùng kinh tế trọng điểm: phía Bắc (Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh); phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa -
Vũng Tàu); miền Trung (Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Dung Quất Quảng Ngãi). Các
vùng kinh tế trọng điểm nói trên đều là nòng cốt cho phát triển kinh tế của từng
miền và cho cả nước (theo tính toán đến năm 2010, GDP của 3 vùng kinh tế trọng
điểm chiếm khoảng 60% tổng thu nhập quốc dân của cả nước).
Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính chất
đô thị hoá cao, gắn liền với các khu công nghiệp lớn, đặc khu kinh tế, các liên
doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nơi tập trung các đầu mối giao thông
quan trọng, các sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ...
Về quốc phòng - an ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong
các khu vực phòng thủ và phòng thủ then chốt của đất nước, nơi có nhiều đối
tượng, mục tiêu quan trọng phải bảo vệ; đồng thời cũng là nơi nằm trên các hướng
có khả năng là hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm lược của
địch; hoặc đã và đang là địa bàn trọng điểm để địch thực hiện chiến lược "diễn
biến hoà bình", bạo loạn lật đổ với nước ta. Vì vậy, phải thực hiện thật tốt phát
triển kinh tế gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên các vùng này.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau :
 - Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp
cần lựa chọn quy mô trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không nên
xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an
ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi có
chiến tranh.
- Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ
tầng của nền quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây
dựng các công trình phòng thủ, các thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ
dân sự...Về lâu dài, ở các thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung, cần có quy
hoạch từng bước xây dựng hệ thống "công trình ngầm lưỡng dụng". Phải bảo vệ,
bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá trị về phòng thủ, khi bố trí các cơ
sở sản xuất, các công trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu tư nước ngoài. Khắc phục
tình trạng chỉ chú ý quan tâm đến lợi thế, hiệu quả kinh tế trước mắt mà quên đi
nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và ngược lại khi bố trí các khu vực phòng thủ, các
công trình quốc phòng, chỉ chú ý đến các yếu tố bảo đảm quốc phòng, an ninh mà
không tính đến đến lợi ích kinh tế.
- Trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế
phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng- an ninh, các tổ
chức chính trị, đoàn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu tư,
bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu
công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
- Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm
đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu
cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển kinh tế
tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn
37

sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an toàn khi có tình huống chiến tranh xâm
lược.
Đối với vùng núi biên giới
Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài tiếp giáp với Trung Quốc, Lào,
Cămpuchia. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người, mật
độ dân số thấp (trung bình khảng 20 - 40 người/1km 2), kinh tế chưa phát triển,
trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư còn nhiều khó khăn. Vùng núi biên giới có
tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Trước đây các
vùng này đã từng là căn cứ địa kháng chiến, hậu phương chiến lược của cả nước.
Ngày nay, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các vùng núi biên giới vẫn là vùng
chiến lược hết sức trọng yếu. Trong khi đó, ở đây còn nhiều khó khăn, yếu kém về
kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh dễ bị kẻ thù lợi dụng để lôi kéo, kích
động đồng bào, thực hiện âm mưu chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ,
nhiều nơi tình hình rất phức tạp. Vì vậy, trước mắt cũng như lâu dài, việc kết hợp
phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh ở vùng núi biên giới là cực kì quan
trọng.
Việc kết hợp cần tập trung vào các nội dung sau :
- Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh ở các
vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước.
- Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp
để động viên, điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới
- Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Trước hết, cần tập trung xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và
nâng cấp các tuyến đường dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế.
- Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát
triển kinh tế - xã hội đối với các xã nghèo
- Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa phương
để cùng lo, cùng làm.
- Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có
chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng
cốt xây dựng các khu kinh tế quốc phòng, hoặc các khu quốc phòng - kinh tế,
nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế xã hội và tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh.
 Đối với vùng biển đảo.
Nước ta có vùng biển vừa dài vừa rộng, với diện tích hơn 1 triệu km 2 (gấp
hơn 3 lần diện tích đất liền). Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản
và khoáng sản, là cửa ngõ thông thương giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước
ngoài, có khả năng phát triển một số ngành mũi nhọn của đất nước trong tương lai.
Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế đó của ta còn nhiều hạn chế, đặc biệt vùng biển
đảo của ta hiện nay đang có nhiều tranh chấp rất phức tạp, chứa đựng nguy cơ đe
doạ chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc và rất dễ bùng nổ xung đột. Trong khi đó,
38

chúng ta lại chưa có chiến lược tổng thể hoàn chỉnh về phát triển kinh tế biển và
bảo vệ biển, đảo. Lực lượng và sức mạnh tổng hợp trên biển còn quá mỏng. Vì
vậy, việc quan tâm thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
quốc phòng, an ninh trên vùng biển, đảo là đòi hỏi bức bách và rất quan trọng cả
trước mắt cũng như lâu dài, nhằm nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ sức bảo vệ, làm
chủ toàn diện vùng biển, đảo, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế biển phát triển
nhanh làm giàu cho Tổ quốc.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau :
- Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế
và xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới,
làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng, an ninh một
cách cơ bản, toàn diện, lâu dài.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các
tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, trụ bám phát
triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc, lâu dài.
- Nhà nước phải có cơ chế chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra
đảo trụ bám làm ăn lâu dài.
- Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám
trụ, sinh sống, làm ăn.
- Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế
ở vùng biển, đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển, nhằm tạo ra các
đối tác đan xen lợi ích và đối tượng chống lại sự lấn lướt của các nước lớn. Thông
qua đó, vừa thể hiện chủ quyền của nước ta, vừa hạn chế âm mưu bành trướng lấn
chiếm biển đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hoà bình các
tranh chấp trên biển, đảo.
- Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây
dựng lực lượng dân quân biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát
biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền
biển, đảo của nước ta,... Xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng mạnh trên
biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thế bảo vệ biển, đảo
vững chắc.
- Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển,
đảo nước ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng thủ
trên biển, đảo, trước hết là phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải Quân nhân dân
Việt Nam để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển, đảo.
2.2.3: Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng,
an ninh trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu
- Một là, kết hợp trong công nghiệp
Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy móc,
nguyên nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho chính nó cũng như cho công
nghiệp quốc phòng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục vụ xuất khẩu;
39

sản xuất ra vũ khí, trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu của hoạt động quốc
phòng, an ninh.
Nội dung kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong
phát triển công nghiệp là :
+ Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành công
nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng
xa, vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn.
+ Tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc
phòng như cơ khí, chế tạo, điện tử, công nghiệp, điện tử kĩ thuật cao, luyện kim,
hoá chất, đóng tàu để vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có
thể sản xuất ra một số sản phẩm kĩ thuật công nghệ cao phục vụ quốc phòng, an
ninh.
- Phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có
thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp trong đầu
tư nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng cao
trong các nhà máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng.
- Các nhà máy công nghiệp quốc phòng trong thời bình, ngoài việc sản xuất
ra hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao, phục vụ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Theo hướng trên, từ nay đến năm 2020, Nhà nước
cần tập trung xây dựng một số nhà máy mũi nhọn, có thể tham gia nghiên cứu,
sáng chế và sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng trang bị cho lực lượng vũ
trang, trong đó tập trung vào một số ngành như cơ khí luyện kim, cơ khí chế tạo,
điện tử, tin học, hoá dầu.
- Mở rộng liên doanh, liên kết giữa ngành công nghiệp nước ta (bao gồm cả
công nghiệp quốc phòng) với công nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới; ưu
tiên những ngành, lĩnh vực có tính lưỡng dụng cao.
- Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng
vào công nghiệp dân dụng và ngược lại.
- Phát triển hệ thống phòng không công nghiệp và phát triển lực lượng tự vệ
để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến.
- Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến;
thực hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất quân
sự.
Hai là, kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp
Hiện nay nước ta vẫn còn hơn 70% dân số ở nông thôn và làm nghề nông,
lâm, ngư nghiệp. Phần lớn lực lượng, của cải huy động cho xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc là từ khu vực này.
Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong
các lĩnh vực này cần tập trung chú ý các vấn đề sau:
- Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển, đảo và
lực lượng lao động để phát triển đa dạng ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp theo
40

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm ra nhiều sản
phẩm hàng hoá có giá trị cao phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và có lượng
dự trữ dồi dào về mọi mặt cho quốc phòng, an ninh.
- Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp phải gắn với việc giải quyết tốt các
vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền
ơn đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông
thôn mới văn minh và hiện đại. Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nông thôn,
góp phần tạo thế trận phòng thủ, "thế trận lòng dân" vững chắc.
- Phải kết hợp gắn việc động viên đưa dân ra lập nghiệp ở các đảo để xây
dựng các làng, xã, huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tư xây dựng phát triển
các hợp tác xã, các đội tàu thuyền đánh cá xa bờ, xây dựng lực lượng tự vệ, lực
lượng dân quân biển, đảo; phối hợp chặt chẽ với lực lượng Hải quân và Cảnh sát
biển để bảo vệ biển, đảo.
- Phải đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn với công tác định canh định cư,
xây dựng các cơ sở chính trị vững chắc ở các vùng rừng núi biên giới nước ta, đặc
biệt là ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Ba là, kết hợp trong giao thông, bưu điện, y tế, khoa học - công nghệ, giáo
dục và xây dựng cơ bản
Trong giao thông vận tải
- Phát triển hệ thống giao thông vận tải đồng bộ cả đường bộ, đường sắt,
đường không, đường sông, đường thuỷ, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng
hoá trong nước và mở rộng giao lưu với bên ngoài.
- Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp các
tuyến trục đường Bắc - Nam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn, đường Hồ Chí
Minh. Từ các tuyến đường này phải phát triển các tuyến đường ngang, nối liền
giữa các tuyến trục dọc với nhau và phát triển đến các huyện, xã trong cả nước,
nhất là đến các xã vùng cao, vùng sâu, miền núi biên giới, xây dựng các tuyến
đường vành đai biên giới.
- Trong thiết kế, thi công các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các
tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời
chiến, nhất là cho các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và
lưu lượng vận chuyển lớn, liên tục. Ở những đầu nút giao thông, những nơi dự kiến
địch có thể đánh phá trong chiến tranh, phải có kế hoạch làm nhiều đường vòng
tránh. Bên cạnh các cây cầu lớn qua sông, phải làm sẵn những bến phà, bến vượt
ngầm. Ở những đoạn đường có địa hình cho phép thì làm đường hầm xuyên núi,
cải tạo các hang động sẵn có dọc hai bên đường làm kho trạm, nơi trú quân khi cần
thiết.
- Phải thiết kế, xây dựng lại hệ thống đường ống dẫn dầu Bắc - Nam, chôn
sâu bí mật, có đường vòng tránh trên từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an toàn
cả thời bình và thời chiến.
41

- Ở các vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ,
cần chú trọng cải tạo, phát triển đường sông, đường biển, xây dựng các cảng sông,
cảng biển, bảo đảm đi lại, bốc dỡ thuận tiện.
- Việc mở rộng nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở sâu
trong nội địa, sân bay giã chiến và có kế hoạch sử dụng cả đường cao tốc làm
đường băng cất hạ cánh máy bay khi cần thiết trong chiến tranh.
- Trong một số tuyến đường xuyên á, sau này được xây dựng qua Việt Nam,
ở những nơi cửa khẩu, nơi tiếp giáp các nước bạn phải có kế hoạch xây dựng các
khu vực phòng thủ kiên cố, vững chắc, đề phòng khả năng địch sử dụng các tuyến
đường này khi tiến công xâm lược nước ta với quy mô lớn.
- Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.
Trong bưu chính viễn thông
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành bưu điện quốc gia với ngành thông tin
quân đội, công an để phát triển hệ thống thông tin quốc gia hiện đại, đảm bảo
nhanh chóng, chính xác, an toàn thông tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, điều
hành đất nước trong mọi tình huống, cả thời bình và thời chiến.
- Có phương án thiết kế xây dựng và bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc một
cách vững chắc trong mọi tình huống.
- Các phương tiện thông tin liên lạc và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật
và có khả năng chống nhiễu cao, phòng chống chiến tranh thông tin điện tử của
địch.
- Khi hợp tác với nước ngoài về xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin
điện tử phải cảnh giác cao, lựa chọn đối tác, có phương án chống âm mưu phá hoại
của địch.
- Xây dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc: chuẩn bị nhân lực và vật
lực ngay từ trong thời bình phải tổ chức luyện tập chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cao
đề có thể huy động cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết.
Trong xây dựng cơ bản
Đây là lĩnh vực sẽ có nhiều phát triển cả quy mô và trình độ trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những công trình này không dễ gì có thể
phá đi làm lại, cho nên việc thực hiện kết hợp trong ngành xây dựng phải được tiến
hành ngay từ đầu, từ khảo sát điều tra, thiết kế, quy hoạch dự án đầu tư đến thi
công xây dựng.
- Khi xây dựng bất cứ công trình nào, ở đâu, quy mô nào cũng phải tính đến
yếu tố tự bảo vệ và có thể chuyển hoá phục vụ được cả cho quốc phòng, an ninh,
cho phòng thủ tác chiến và phòng thủ dân sự.
- Khi xây dựng các thành phố đô thị, phải gắn với các khu vực phòng thủ địa
phương, phải xây dựng các công trình ngầm (nhà cao tầng có tầng ngầm, giao
thông có đường giao thông ngầm).
- Khi xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các nhà máy, xí nghiệp lớn,
quan trọng đều phải tính đến khả năng bảo vệ và di dời khi cần thiết. Nếu điều kiện
cho phép, phải biết tận dụng các địa hình, địa vật sẵn có để tăng tính bảo vệ cho
42

công trình. Hạn chế xâm phạm các địa hình có giá trị về phòng thủ quân sự, quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc.
- Đối với các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong nghiên
cứu sáng chế, chế tạo những vật liệu siêu bền, có khả năng chống xuyên, chống
mặn, chống bức xạ, dễ vận chuyển phục vụ xây dựng các công trình phòng thủ,
công sự trận địa của lực lượng vũ trang và của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
- Khi cấp phép đầu tư xây dựng cho các đối tác nước ngoài, phải có sự tham
gia ý kiến của cơ quan quân sự có thẩm quyền.
Trong khoa học và công nghệ, giáo dục
Đây là lĩnh vực đóng vai trò là nền tảng, động lực, là quốc sách hàng đầu đối
với sự phát triển của quốc gia. Vì vậy, sự kết hợp là tất yếu, không chỉ là vấn đề cơ
bản lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào :
- Phải phối hợp chặt chẽ và toàn diện hoạt động giữa các ngành khoa học và
công nghệ then chốt của cả nước với các ngành khoa học của quốc phòng, an ninh
trong việc hoạch định chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lí sử dụng phục vụ
cho cả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đề
tài khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ
cho nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vừa phục vụ nhu cầu quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, có chính sách đầu tư thoả đáng cho
lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự, khoa
học kĩ thuật quân sự.
- Coi trọng giáo dục bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài của đất nước, đáp
ứng cả sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế xã hội, cả quốc phòng - an ninh. Thực
hiện có hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng – an ninh cho các đối tượng, đặc
biệt là trong các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc gia.
 Trong lĩnh vực y tế
- Phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với y tế quân sự trong
nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, trong khám chữa bệnh cho
nhân dân, bộ đội và cho người nước ngoài.
- Xây dựng mô hình quân dân y kết hợp trên các địa bàn, đặc biệt là ở miền
núi, biên giới, hải đảo.
- Xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh
xảy ra.
- Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phòng chống, khám chữa bệnh cho
nhân dân thời bình và thời chiến.
2.2.4: Kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh trong bảo vệ Tổ quốc là xuất phát từ mục tiêu, lực lượng và phương thức bảo
vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia trong tình hình mới.
43

Nội dung kết hợp cần chú ý:


- Tổ chức biên chế và bố trí lực lượng vũ trang phải phù hợp với điều kiện
kinh tế và nhu cầu phòng thủ đất nước.
- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật
trong huấn luyện, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.
- Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của quân đội, công an cho phát
triển kinh tế xã hội. Xây dựng, phát triển các khu kinh tế quốc phòng, các khu quốc
phòng kinh tế trên các địa bàn miền núi biên giới, giúp đỡ nhân dân địa phương ổn
định sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh
trên địa bàn. Tận dụng khả năng của công nghiệp quốc phòng trong thời bình để
sản xuất hàng hoá dân sự phục vụ dân sinh và xuất khẩu. Thành lập các tổ, đội
công tác trên từng lĩnh vực đưa về giúp đỡ các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng cũ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh...
- Phát huy tốt vai trò tham mưu của các cơ quan quân sự, công an các cấp
trong việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư có vốn
nước ngoài.
2.2.5: Kết hợp trong hoạt động đối ngoại
Mục tiêu chung của mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế là giữ vững
môi trường hoà bình, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ; tận
dụng ngoại lực, phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế,
bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc và an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Sự phối hợp giữa hoạt động đối ngoại với kinh tế, quốc phòng, an ninh là
một trong những nội dung cơ bản của chủ trương đối ngoại trong thời kì mới. Đó
là sự cụ thể hoá quan điểm kết hợp giữa phát triển kinh tế xã hội và giữ vững an
ninh quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá, sự phát triển của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Việc mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về kinh tế, chính trị, văn
hoá, khoa học, quốc phòng, quân sự của nước ta với các nước và vùng lãnh thổ,
các trung tâm chính trị kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực phải
hướng vào việc phục vụ cho phát triển kinh tế trong nước; đồng thời phải giữ vững
nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong mở
rộng quan hệ đối ngoại.
Nội dung kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh
trong lĩnh vực đối ngoại cần tập trung vào các lĩnh vực sau:
- Mở rộng hoạt động đối ngoại phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; giải quyết các tranh chấp
bằng thương lượng hoà bình.
44

- Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, phải kết hợp từ khâu lựa chọn đối tác.
Phải lựa chọn được đối tác có ưu thế chế ngự cạnh tranh với các thế lực mạnh bên
ngoài, làm hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch.
- Kết hợp trong việc phân bổ đầu tư vào ngành nào, địa bàn nào có lợi cho
phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh của quốc gia. Khắc phục tình trạng
chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài và nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc.
- Kết hợp trong xây dựng và quản lí các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế
liên doanh, liên kết đầu tư với nước ngoài, bảo vệ chủ quyền an ninh đất nước, Chú
trọng xây dựng các đoàn hội, lực lượng tự vệ trên cơ sở Nhà nước có luật pháp quy
định rõ ràng. Đồng thời phải chú trọng bồi dưỡng ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần
cảnh giác đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia cho cán bộ, nhân
viên là người Việt Nam làm việc trong các cơ sở đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
- Phát huy vai trò của cán bộ, nhân viên các đại sứ quán, lãnh sự quán của
nước ta ở nước ngoài trong việc quảng bá sản phẩm hàng hoá, truyền thống Việt
Nam; đồng thời nắm vững đường lối đối ngoại, đường lối quân sự của nước ngoài
cung cấp tình hình giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách đối ngoại đúng
đắn.
2.3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN KẾT HỢP PHÁT
TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI GẮN VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QP - AN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY:
2.3.1: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lí nhà nước của
chính quyền các cấp trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh:
Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng trong việc kết hợp được thể hiện ở chỗ
:
- Thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra
những quyết định lãnh đạo ngành, địa phương mình, thực hiện kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh một cách đúng đắn.
- Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính
quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp
phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh.
- Tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung chủ
trương và chỉ đạo thực thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh đạo của các
cấp uỷ đảng.
Để nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước của chính quyền các cấp trong kết
hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng -  an ninh phải :
- Từng cấp phải làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật
và Nghị định 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành ngày 11/5/2004.
45

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển
kinh tế xã hôi với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ở ngành, bộ, địa
phương cơ sở của mình dài hạn và hàng năm.
- Đổi mới nâng cao quy trình, phương pháp quản lí, điều hành của chính
quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lí thông
tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn chỉ đạo cấp dưới và kiểm tra ở mọi
khâu, mọi bước của quá trình thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng - an ninh ở ngành, địa phương mình.
2.3.2:Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế
– xã hội với tăng cường củng cố QP - AN cho các đối tượng:
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu và đang là đòi hỏi cấp thiết đối với cán
bộ và nhân dân cả nước ta hiện nay.
- Đối tượng bồi dưỡng: phải phổ cập kiến thức quốc phòng – an ninh cho
toàn dân nhưng trước hết phải tập trung vào đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, các bộ,
ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, cơ sở.
- Nội dung bồi dưỡng : phải căn cứ vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra
để chọn lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm
nâng cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm
nhiệm với từng loại đối tượng và quần chúng nhân dân.
- Hình thức bồi dưỡng : phải kết hợp bồi dưỡng tại trường với tại chức, kết
hợp lí thuyết với thực hành. Thông qua sinh hoạt chính trị, qua các cuộc diễn tập
thực nghiệm, thực tế ở các bộ, ngành, địa phương cơ sở để nâng cao hoàn thiện sự
hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn
quân về kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh trong tình hình mới.
2.3.3: Xây dựng chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong thời kì mới
Hiện nay, nước ta đã và đang xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
gắn với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh đến năm 2020. Thực tiễn cho
thấy, sự vận dụng tính quy luật kinh tế, quốc phòng, an ninh và quán triệt quan
điểm kết hợp của Đảng đã đề ra còn nhiều mâu thuẫn và bất cập do thiếu định
hướng chiến lược cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy, muốn kết hợp ngay từ
đầu và trong suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước một
cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục
xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch và kế hoạch chiến lược tổng thể quốc gia
về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Coi đó
là một trong những khâu quan trọng hàng đầu để chỉ đạo, quản lí nhà nước, về kết
hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh một cách có
hiệu lực, hiệu quả.
Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về kết hợp phát
triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong
thời kì mới, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu
khảo sát, đánh giá các nguồn lực (cả bên trong và bên ngoài). Trên cơ sở đó xác
46

định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn, như :
chính sách khai thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính
sách điều động nhân lực, bố trí dân cư; chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ
lưỡng dụng....
2.2.4: Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có liên quan đến
thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - 
an ninh trong tình hình mới
Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta có liên quan
đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế xã hội
với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đều phải được thể chế hoá thành luật
pháp, pháp lệnh, nghị định, văn bản dưới luật một cách đồng bộ, thống nhất để
quản lí và tổ chức thực hiện nghiêm túc có hiệu lực và hiệu quả trong cả nước.
Đảng và Nhà nước phải có chính sách khai thác các nguồn lực và vốn đầu tư
cả trong và ngoài nước để thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh; nhất là đối với các công trình trọng điểm, ở
những địa bàn chiến lược trọng yếu như miền núi biên giới và hải đảo.
Việc xác lập cơ chế chính sách, bảo đảm ngân sách cho kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cần được xây dựng
theo quan điểm quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Các ngành, các cấp, các
cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, các đoàn thể xã hội đều
phải có nghĩa vụ chăm lo cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng như sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Việc phân bổ ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển kinh tế - xã
hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh phải theo hướng tập trung cho
những mục tiêu chủ yếu, những công trình có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả cho
phát triển kinh tế xã hội và củng cố quốc phòng – an ninh cả trước mắt và lâu dài.
Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ
chức, cá nhân, các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học, các
dự án công nghệ sản xuất, xây dựng có ý nghĩa lưỡng dụng hoá cao phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới.
2.3.5:Củng cố kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên
trách quốc phòng, an ninh các cấp
Căn cứ vào Nghị định 119/2004/NĐ-CP ngày 11/5/2004 của Chính phủ về
Công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ và
các địa phương. Cần nghiên cứu bổ sung mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan chuyên trách quản lí nhà nước về quốc phòng, an ninh nói chung và về
kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh
nói riêng trong thời kì mới.
Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng
nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm
tham mưu cho Đảng, Nhà nước về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn
với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kì
mới.
47

Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh là một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển
đất nước của Đảng ta, nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và
có sự phối hợp của các ngành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà
nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng
- an ninh.
Để thực hiện tốt việc kết hợp, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải
pháp, trong đó phải quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam cho toàn dân, nhất là cho học sinh, sinh viên - những người quyết định tương
lai của đất nước. Quá trình kết hợp phải được triển khai có kế hoạch, có cơ chế
chính sách cụ thể, chặt chẽ, đồng bộ.
Kết luận
   Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với
an ninh và đối ngoại là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp củng
cố quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, thực chất là thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược cách mạng của nước ta. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng
với kinh tế, quốc phòng với an ninh và đối ngoại là đường lối, quan điểm xây dựng
nền quốc phòng toàn dân thông qua các hoạt động kinh tế – xã hội, xây dựng đất
nước lấy ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội làm nền tảng. Đây là một
vấn đề trở thành truyền thống của dân tộc, phù hợp với đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân.
   Kết hợp với kinh tế quốc phòng, quốc phòng với kinh tế quốc phòng với
an ninh và đối ngoại là nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế
củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn đất
nước và an ninh quốc gia, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và mọi
thành quả cách mạng.
Trong tình hình hiện nay có nhiều vấn đề đặt ra phải giải quyết đòi hỏi
chúng ta phải phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường và tranh thủ điều kiện
quốc tế để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, bảo đảm ngày càng tốt hơn cho củng cố quốc phòng vững
mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội  chủ nghĩa. đó là nhiệm vụ của toàn dân,
toàn quân, của mọi ngành, mọi cấp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của
Nhà nước.

Quan điểm của Đảng về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng - an ninh trên các địa bàn chiến lược
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng -
an ninh nói chung, trên các địa bàn chiến lược nói riêng được thể hiện trong
48

Văn kiện Đại hội XII của Đảng. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm này của
Đảng có ý nghĩa quan trọng trong tình hình hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm chỉ đạo ở các kỳ đại hội trước, nhất là Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội
với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong
từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng
sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong
việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến
lược”1. Đây là quan điểm cơ bản của Đảng thể hiện sâu sắc vấn đề có tính nguyên
tắc về mối quan hệ biện chứng trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong thực tiễn, kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng - an ninh trên các địa bàn chiến lược đã, đang đạt hiệu quả
thiết thực, trở thành điều kiện tiên quyết bảo đảm huy động tổng hợp mọi nguồn
lực, tiềm năng, lợi thế,… để xây dựng, phát triển từng khu vực, địa bàn và đất
nước nhanh, bền vững.
Thực ra, quan điểm trên không hoàn toàn mới, mà đã được Đảng ta nêu
trong các kỳ đại hội trước. Việc Đại hội XII tiếp tục khẳng định là xuất phát từ tình
hình và yêu cầu cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, cũng như
tính cấp thiết của việc kết hợp giữa kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, nhất
là trên các địa bàn chiến lược. Nhưng nói như vậy không có nghĩa quan điểm trên
của Đảng không có gì mới. Trái lại, điểm mới mấu chốt là thể hiện tư tưởng nhất
quán, sự nhạy bén, sáng tạo của Đảng về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng - an ninh trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu
vực và trong nước. Một điểm mới nữa được thể hiện ngay trong nội hàm quan
điểm; tức là Đảng ta đề cập tổng quát, toàn diện, sâu sắc hơn và xác định rõ đó là
sự kết hợp cần thiết, xuyên suốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của quân và dân
ta. Như vậy, nội hàm của quan điểm mà Đảng ta đưa ra được hiểu là toàn bộ sự kết
hợp của các yếu tố cả về tự nhiên, lịch sử, xã hội cũng như chính trị, kinh tế,… với
quốc phòng - an ninh có liên quan đến sự ổn định trên từng khu vực, địa bàn, trong
đó có các địa bàn chiến lược. Điều đó cho thấy sự biến chuyển mau lẹ, phức tạp,
khó lường của tình hình, cùng sự đan xen, hòa quyện các yếu tố, cả chủ quan,
khách quan, trong nước và quốc tế tác động tới nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới. Đồng thời, thể hiện tư duy nhạy bén, tầm nhìn chiến
lược và khả năng vận dụng sáng tạo của Đảng, nhằm tạo ra một trong những động
lực có tính nền tảng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân
dân vững chắc, ngày càng hiện đại. Không những thế, quan điểm của Đảng còn là
phương hướng để các cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương thực hiện tốt việc kết hợp
này, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc từng khu vực, địa bàn và cả nước.
Trong những năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, việc
kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh luôn được Đảng, Nhà nước quan
tâm chăm lo. Nhờ đó, ở hầu hết các địa bàn chiến lược, chính trị - xã hội ổn định,
kinh tế có bước phát triển khá, đời sống nhân dân được cải thiện, quốc phòng - an
ninh được tăng cường, góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước.
49

Tuy nhiên, hiện tại, nơi đây vẫn là địa bàn còn nhiều khó khăn, hạn chế so với các
vùng, miền khác của cả nước, nhất là hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi chưa
vững chắc, kinh tế phát triển chậm, quốc phòng, an ninh có mặt chưa đáp ứng yêu
cầu đề ra. Ở một số địa bàn còn tồn đọng những bức xúc trong nhân dân mà chưa
được giải quyết một cách thấu đáo, như: vấn đề đất đai, đói nghèo, đạo giáo, lòng
tin, chính sách xã hội, v.v. Trong khi đó, khu vực này đã, đang tồn tại nhiều nguy
cơ có thể gây mất ổn định; là trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch cả ở
trong nước và từ nước ngoài. Vì thế, quan điểm kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế
- xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh nói chung, trên các địa bàn chiến
lược nói riêng phải tiếp tục được quán triệt và thực hiện nghiêm túc; trong đó, tập
trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
1. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh
phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa bàn chiến lược. Về cơ bản, việc
kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh thường lấy
mục tiêu kinh tế làm trung tâm để từ đó tăng cường các mặt cho quốc phòng. Tuy
nhiên, do tính đặc thù của các địa bàn chiến lược - nơi rất nhạy cảm về quốc phòng
- an ninh, nên trong sự kết hợp này phải hết sức linh hoạt, thậm chí ở một số địa
bàn phải lấy mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh làm chủ yếu. Vì thế, kết
hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược, muốn có
hiệu quả, phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa bàn, nhất là địa bàn
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Theo đó, việc kết hợp ở các địa bàn này cần
căn cứ vào yêu cầu của quốc phòng - an ninh để xây dựng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, nhằm tăng cường quốc phòng - an
ninh nhưng không coi nhẹ mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong đó, việc kết hợp giữa
các ngành, nghề phải bảo đảm tính lưỡng dụng cao để vừa tham gia xóa đói, giảm
nghèo cho nhân dân, vừa tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng lực lượng, thế trận
quốc phòng - an ninh và phát triển công nghiệp quốc phòng ở địa bàn chiến lược.
Cùng với đó, trong triển khai kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế - xã
hội trên địa bàn chiến lược, phải hướng tới tăng cường các nguồn tiềm lực phục vụ
cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trước hết là sự vững mạnh về chính trị, tăng cường
dự trữ cơ sở vật chất để sẵn sàng huy động cho các nhiệm vụ quốc phòng - an ninh;
đồng thời, tạo điều kiện mở rộng hợp tác quốc tế về kinh tế và phát triển công
nghiệp quốc phòng cho từng địa bàn. Thông qua sự kết hợp này, sẽ tạo ra những
điều kiện cần thiết để xây dựng và phát triển lực lượng quốc phòng - lực lượng của
nền quốc phòng toàn dân - bằng các chiến lược, kế hoạch kinh tế, nhằm điều chỉnh,
bố trí lại dân cư, nhất là đối với địa bàn chưa có dân hoặc mật độ dân cư thưa thớt.
Tiếp tục chú trọng phát triển các khu kinh tế - quốc phòng cả về bề rộng và chiều
sâu, ở những vùng đặc biệt khó khăn, nhằm không chỉ thu hút lao động, tạo việc
làm cho người dân, mà còn thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, các công trình quốc
phòng, thành phần của khu vực phòng thủ,… để hình thành thế trận quốc phòng -
an ninh vững chắc.
2. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh
phải hướng vào mục tiêu cụ thể mang tính cấp thiết và mục tiêu tổng quát mang
tầm chiến lược, cơ bản, lâu dài của địa bàn chiến lược. Đặc điểm nổi bật của địa
50

bàn chiến lược là nơi có giá trị đặc biệt về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh
và đối ngoại, nhưng cũng là nơi tồn tại nhiều nguy cơ có thể gây mất ổn định cho
đất nước. Vì vậy, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng -
an ninh ở địa bàn chiến lược, cần hướng vào mục tiêu cụ thể, có ý nghĩa thiết thực
là giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra, khắc phục những thiếu sót, yếu kém tồn
tại lâu nay, tạo điều kiện để các địa bàn này phát triển bền vững. Để làm được điều
đó, trước hết, phải trên cơ sở kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh để
đẩy mạnh xây dựng hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp,
nhất là năng lực cụ thể hóa, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước đến với nhân dân. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
quần chúng trong đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, cùng các biểu hiện mất
dân chủ, xa dân của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, phải hướng tới an dân để xây
dựng “thế trận lòng dân”, củng cố lòng tin, sự đồng thuận của nhân dân với cấp ủy,
chính quyền các cấp. Các cấp, ngành, lực lượng và địa phương phải tập trung giải
quyết các mâu thuẫn trong nhân dân, nhất là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và những
vấn đề còn nan giải ở các địa bàn chiến lược, đặc biệt là vấn đề nâng cao dân trí,
vướng mắc về đất đai, xóa đói giảm nghèo và chênh lệch mức sống giữa các vùng.
Bên cạnh đó, phải chủ động tham gia chấn hưng văn hóa, tôn giáo trên tinh thần
tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; đồng
thời, kiên quyết loại bỏ các tôn giáo có dụng ý xấu, xâm hại tự do, tín ngưỡng của
nhân dân, trái với thuần phong mỹ tục và đi ngược lại các quan điểm của Đảng và
Nhà nước. Thông qua các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, phải hướng cho
đồng bào các dân tộc ở địa bàn chiến lược thấy rõ chủ trương đúng đắn, chính sách
tốt đẹp của Đảng và Nhà nước ta; trên cơ sơ đó, tích cực đấu tranh với các luận
điệu phản động, xuyên tạc, góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”,
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ của các thế lực thù địch. Cùng với
đó, việc kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh cần hướng tới mục tiêu
tổng quát, mang tầm chiến lược, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với các địa bàn
chiến lược, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
3. Hoàn thiện cơ chế liên kết vùng để nâng cao hiệu quả kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược. Địa
bàn chiến lược là một vùng lãnh thổ có tính đặc thù, gồm nhiều tỉnh nhưng không
có cơ cấu tổ chức hành chính chung, nên việc phối hợp hoạt động của các địa
phương trên địa bàn chiến lược gặp khó khăn. Do vậy, để thống nhất và tạo sức
mạnh chung của cả vùng, cần có cơ chế hợp lý nhằm liên kết hoạt động của các
tỉnh trong một chỉnh thể thống nhất của địa bàn chiến lược. Những năm gần đây,
ngoài cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tham mưu chung, Đảng, Nhà nước ta đã
tổ chức ra ban chỉ đạo ở các địa bàn chiến lược. Theo đó, cơ chế chung liên kết
vùng ở các địa bàn chiến lược là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, điều hành, ban
chỉ đạo ở các địa bàn chiến lược, tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh (thành phố), cơ
quan Quân sự, Công an,… làm tham mưu và tổ chức thực hiện thống nhất theo
51

chức năng nhiệm vụ, bảo đảm kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh có
hiệu quả ở từng địa phương và cả địa bàn.
Trong cơ chế này, Đảng, Nhà nước phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành chặt chẽ quan điểm kết hợp nêu trên; trong đó, phải dành sự ưu tiên và có
chính sách phù hợp với tính chất đặc thù của địa bàn chiến lược, thậm chí phải có
các nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng,
an ninh ở các địa bàn quan trọng này. Đối với ban chỉ đạo ở các địa bàn chiến lược,
cần nâng cao khả năng nắm bắt tình hình, năng lực làm tham mưu cho Đảng, Nhà
nước ở tầm nhìn chiến lược trong khuôn khổ một địa bàn chiến lược. Đồng thời,
chủ động xây dựng cơ chế phối hợp, kết hợp hoạt động giữa các tỉnh trong địa bàn,
tạo sự thống nhất chung cho cả vùng chiến lược. Các tỉnh ủy, ủy ban nhân dân và
cơ quan, ban, ngành của các địa phương thuộc địa bàn chiến lược, cần chủ động
tham mưu đề xuất các vấn đề chủ yếu về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh với tầm nhìn tổng thể về sự phát triển chung của
cả địa bàn. Ngoài ra, cần coi trọng việc phối hợp giữa lực lượng các bộ, ngành
đứng chân trên địa bàn chiến lược, nhất là lực lượng của các ngành kinh tế và quốc
phòng - an ninh, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Câu 8: Theo anh/chị, vì sao Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức? Ngành anh/chị đang công tác
đã thực hiện những giải pháp gì để đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước?
Trả lời:
trang 61-70 trong Giáo trình .
Khái niệm
*CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao
* Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng
cao chất lượng cuộc sống. Trons nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác
động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các
thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên
công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành
kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa
học, công nghệ cao.
a)    Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp
52

lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ
thể. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo
nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
b) Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này
được Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được
phát triển, bổ sung qua các Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng . Dưới đây khái quát
lại những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi
mới:
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri
thức đã phát triển. Chúng có thể và cần thiết không trải qua các bước phát triển
tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri
thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng vội duy ý chí. Vì vậy,
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của
công neghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta liiện nay diễn ra trong
bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tể đối ngoại nhằm thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm
quản lý tiên tiến của thế giới… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển. Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ
các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác,
đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói
chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu
tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố
chủ yếu là: vốn; khoa học và công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế chính
trị và quản lý nhà nước, trong đó con người là yếu tố quyết định. Để phát triển
53

nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hỏa đất nước
cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phàn kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý
cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân
lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu
và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của thể giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Đại hội XI chỉ rõ:
"Phát triển và nâng chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vừng".
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói
chung. Nước ta nên lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm
lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học
và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập
công nghệ, mua sáng chế kết họp với phát triển công nghẹ nội sinh để nhanh chóng
đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học và công nghệ vật liệu mới.
Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây đựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó,
trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ như vậy mới có
khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng...
*Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát tiễn kinh tế tri thức
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) giúp phát triển lực lượng sản xuất,
làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ
tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế nhà
nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Đồng thời, CNH-HĐH là động
lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh-quốc phòng
và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia
một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm
quan trọng về phát triển KTTT ''Đi  nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành
54

và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng
trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm
lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển
KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với tư
cách là một yếu tố cấu thành đường lối CNH-HĐH đất nước: ''Tranh thủ cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn
quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT,
coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-HĐH. Phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp
việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền
vững, Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm
động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT,
góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa,
chúng ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông
nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp
lên KTTT. Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở
nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau,
kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn CNH-HĐH
với phát triển KTTT.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT là
lựa chọn để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào công
nghệ cao, công nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia
tăng cao. Trong ''Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, ngoài một số mục
tiêu khối lượng như: tăng trưởng GDP bình quân 7-8%/năm; GDP bình quân đầu
người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD... còn có một số chỉ tiêu về chất
lượng, như là những nấc thang trên lộ trình CNH-HĐH, phát triển KTTT. Cụ thể
là: tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP; giá trị sản
phẩm công nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng
trưởng đạt 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm; giảm tỷ lệ
lao động nông nghiệp xuống còn 30-35%...
Để đạt những chỉ tiêu trên điều tiên quyết là phải cơ cấu lại sản xuất công
nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa
trong sản phẩm. Đồng thời phải sử dụng tri thức mới để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, khai khoáng,
luyện kim, hóa chất, chế biến nông sản, năng lượng... và đẩy nhanh CNH-HĐH
nông nghiệp, nông thôn bằng cách đổi mới công tác đào tạo nhân lực, đưa tri thức
55

sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử
dụng công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để tăng
nhanh hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm. Chúng ta cần phải đẩy
mạnh việc sử dụng những tri thức mới của nhân loại bằng nhiều hình thức khác
nhau, như nhập khẩu trực tiếp công nghệ; nhập khẩu công nghệ gián tiếp qua thu
hút đầu tư; mua bằng sáng chế hay mời chuyên gia nước ngoài vào làm việc.
Nhưng điều quan trọng hơn, ngoài phần nhập khẩu công nghệ cứng như nói ở trên,
cần chủ động học hỏi và nhập khẩu những công nghệ mềm như công nghệ quản lý,
kinh nghiệm sử dụng nhân tài, đổi mới thể chế kinh tế... và đổi cách cải tiến để
thích nghi với điểu kiện nước ta. Công nghệ và tri thức của nhân loại sau một thời
gian luôn bị thay thế bởi công nghệ và tri thức mới, do đó việc tiếp cận với chúng
là liên tục và không có điểm dừng. Đây là điều kiện để chúng ta rút ngắn quá trình
CNH-HĐH gắn với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và
phát triển 2011) xác định: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta
phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng XHCN”2. Để thực hiện thành công mục tiêu trên, Cương lĩnh
cũng chỉ rõ: toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý
chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua
thách thức, quán triệt và thực hiện tốt tám phương hướng cơ bản; trong đó, “Đẩy
mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển KTTT, bảo vệ tài nguyên, môi
trường” là phương hướng cơ bản đầu tiên. Đây không chỉ là sự tiếp tục đường lối
và chiến lược CNH,HĐH đã được xác định ở các kỳ đại hội trước, mà còn thể hiện
sự nhạy bén và phát triển sáng tạo của Đảng ta trong việc nhận thức và vận dụng
học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước trong thời kỳ
mới.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển KTTT đang làm thay
đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình CNH,HĐH ở các nước đang phát
triển. Nó đòi hỏi CNH,HĐH ở những nước đi sau (như Việt Nam) phải đồng thời
thực hiện hai quá trình: một là, xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại; hai
là, phát triển KTTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là hai nội dung
của một quá trình diễn ra song hành và phải được thực hiện đồng thời. Đảng ta xác
định: CNH,HĐH ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường đi tắt, rút ngắn.
CNH,HĐH phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế công nghiệp sang KTTT.
Từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, muốn đi nhanh và phát triển theo
hướng hiện đại cần kết hợp phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt. Theo đó, nền
kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng ghép”: một mặt, phải phát triển
nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản; mặt khác, phải phát triển những
ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao. Vì thế, mạnh dạn đi ngay vào
phát triển KTTT thì chúng ta mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh
tốc độ CNH,HĐH, thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2020 mà Đảng ta đã đề ra. Do vậy, gắn liền CNH,HĐH với phát triển KTTT là con
56

đường để giải quyết những vấn đề đó. Bởi, KTTT vừa có thể đảm bảo cho sự phát
triển bền vững do nó không dựa chủ yếu vào việc khai thác các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển nhanh vì nó tạo ra sự bùng nổ về
thông tin và sức sáng tạo của nguồn nhân lực.
Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
kinh tế - xã hội quan trọng: nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao 7 - 8%/năm và là
một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Trong 10
năm qua, GDP bình quân đầu người tăng gấp hơn ba lần (năm 2000 là 390 USD,
năm 2010 là 1.168 USD); đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; nền kinh tế
đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường; thể chế kinh tế thị trường đã bắt đầu
hình thành và đang trong quá trình hoàn thiện. Nước ta là một trong những nước
đứng hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, cao su… và là một trong những
nước đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội,
được các tổ chức quốc tế thừa nhận có thành tích xóa đói, giảm nghèo nhanh nhất.
Trong lĩnh vực KH&CN, trình độ công nghệ của một số lĩnh vực được nâng cao
theo kịp trình độ chung các nước trong khu vực; nhất là, CNTT và truyền thông,
điện tử… (năm 1996 nước ta mới bắt đầu sử dụng internet; đến nay, số người sử
dụng internet so với số dân đã đạt 31%, hơn mức bình quân của thế giới). Nền
khoa học công nghệ nước ta đạt được những tiến bộ nhất định: tỷ lệ đầu tư cho
KH&CN trong tổng chi ngân sách nhà nước từ mức 0,78% năm (1996), đến nay đã
tăng lên trên 2%; CNTT được ứng dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế quốc dân,
như: tài chính, thống kê, điện lực, hàng không, y tế, giáo dục, quản lý doanh
nghiệp… để cải tiến tổ chức quản lý, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh, bước đầu đạt kết quả tốt. Trong những năm đổi mới, chúng ta đã từng bước
tạo được nền tảng về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực, đủ điều kiện để thực hiện
thành công đường lối phát triển KTTT.
Từ thực tiễn trên cho thấy, để đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển
KTTT, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn ninh”, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
  2. Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh.
3. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao,
tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh.
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển
nhanh giáo dục và đào tạo.
5. Tập trung phát triển KH&CN, đảm bảo thực sự là động lực then chốt của
quá trình phát triển nhanh và bền vững.
PHẦN LIÊN HỆ
57

Ngành anh/chị đang công tác đã thực hiện những giải pháp gì để đóng
góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?
Ngày nay, giáo dục đại học là con đường tất yếu góp phần quyết định vào
phát triển đất nước. Được giao những chức năng quan trọng và thực hiện những
nhiệm vụ cao cả như: truyền đạt kiến thức khoa học, dạy cho sinh viên biết tư duy
khoa học và giúp người sinh viên tự rèn luyện để trở thành những công dân trí
thức; trường đại học không chỉ là trung tâm khoa học và đào tạo, nơi lưu trữ, sáng
tạo và truyền bá tri thức mà còn là nơi đào tạo những công dân, người lao động có
tri thức và chuẩn bị đội ngũ lãnh đạo tương lai cho đất nước.
Ở Việt Nam, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII (7-1994) đã thông qua đường lối CNH, HĐH đất nước. Đảng ta xác định:
Trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN, CNH, HĐH là
phương tiện, phương thức để đạt đến mục tiêu vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng
tốt đẹp, vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người. Hiện nay, CNH,
HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất của toàn Đảng, toàn
dân; là con đường duy nhất để “rút ngắn” quá trình phát triển, tránh nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa với các nước trên thế giới. Là một nước còn nghèo với kinh tế
nông nghiệp là chủ yếu, CNH, HĐH đối với Việt Nam là một quá trình tất yếu để
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, vào bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia
nào muốn hưng thịnh đều phải lấy giáo dục làm trọng. Giáo dục không chỉ là phúc
lợi xã hội mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế -xã hội. Thế kỷ
XXI là thế kỷ của tri thức, thông tin và giáo dục là chìa khóa để bước vào lâu đài
tri thức vô tận của con người. Nhận thức vai trò quan trọng của giáo dục trong việc
tạo NNLCLC, các nước đều tăng cường sức mạnh cho giáo dục để tạo sức cạnh
tranh cho nền kinh tế. Ở các nước phát triển, mô hình đại học nghiên cứu đã phát
triển đến mức độ cao, gắn với hoạt động sáng nghiệp. Đại học vừa là các đầu tàu
về tri thức, vừa là nền tảng văn hóa của xã hội; và đào tạo, phát triển NNLCLC
thông qua giáo dục đại học (GDDH) được xem là quy luật tất yếu trong thời đại
ngày nay.
GDDH có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Kinh nghiệm chỉ ra rằng giáo dục đào tạo và CNH, HĐH có quan hệ
chặt chẽ với nhau; thậm chí giáo dục đào tạo là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy
mô, tốc độ và thành công của sự nghiệp CNH, HĐH. “Giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát
triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất
lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[8]. Thực tiễn
những nước đi trước về CNH, HĐH cũng chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ
58

phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt
giáo dục.
Giáo dục và đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối
với sự thành công của CNH, HĐH và CNH, HĐH với những thành tựu của nó lại
tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa giáo dục và đào
tạo [9]. Vì vậy, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những nội dung quan
trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và CNH, HĐH
tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo phát triển theo hướng hiện đại. Là động lực
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đầu tư cho giáo dục phải được xem là một
trong những hướng chính của đầu tư phát triển; đồng thời, giáo dục phải đi trước,
phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế
-xã hội đất nước.
Đào tạo NLCN, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ,
lực lượng trí thức có đủ phẩm chất và tài năng bắt kịp trình độ phát triển của thế
giới là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn, là vấn đề có tầm chiến lược và quyết định
tương lai của đất nước. Vì vậy, công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá, tăng tốc mạnh mẽ trong
thời gian tới. Thomas J.Vallely cho rằng, giáo dục là mệnh lệnh kinh tế và chính
trị ở Việt Nam: Ở "mệnh lệnh kinh tế" giáo dục là một động lực quan trọng của
tăng trưởng kinh tế và giúp giải thích tại sao các nền kinh tế này duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao khi hầu hết các nước đang phát triển tăng trưởng chậm lại. Ở
"mệnh lệnh chính trị", giáo dục là khát vọng của con người Việt Nam[10]. Nhiệm
vụ trực tiếp là phải tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học công nghệ.
Ngày nay, GDĐH là con đường tất yếu góp phần quyết định vào phát triển
đất nước. Trường đại học được giao chức năng quan trọng là sáng tạo, chuyển giao
tri thức, bảo tồn và phát triển văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực cao cho xã hội;
trường đại học luôn mang trên mình những nhiệm vụ cao cả: (1) Là nơi truyền đạt
kiến thức khoa học, tri thức, văn hóa của loài người, những tri thức của xã hội, đất
nước; không chỉ truyền đạt tri thức của quá khứ mà còn là tri thức của hiện tại và
cả tương lai. Tri thức do chính trường đại học sáng tạo, phát triển và bổ sung. (2)
Là nơi dạy cho sinh viên biết tư duy khoa học, biết phản biện, luôn khám phá, và
đi đến tận cùng, mãi mãi của cái huyền bí khám phá khoa học. (3) Là nơi tạo môi
trường và giúp người sinh viên tự rèn luyện để trở thành những công dân trí
thức, nhận thức một cách rõ ràng trách nhiệm trước bản thân, gia đình, xã hội và
đất nước (PGS.TS Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG-HCM).
Là trung tâm khoa học và đào tạo, nơi lưu trữ, sáng tạo và truyền bá tri thức,
nơi đào tạo ra không chỉ là những người công dân, những người lao động có tri
thức mà còn có nhiệm vụ cao hơn, là nơi chuẩn bị đội ngũ lãnh đạo tương lai cho
đất nước. Là một lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao để
cung cấp cho xã hội, GDDH được ưu tiên ở hầu hết các nước trên thế giới. Vươn
tới những chuẩn mực quốc tế trong đào tạo và NCKH, đồng thời đào tạo NNLCLC
để chủ động HNQT và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là sứ mệnh, là trách nhiệm
59

lớn lao của các trường đại học. Vì vậy, các quốc gia phát triển nhanh đều có các
trường trụ cột đại học, các chính phủ đều chú trọng đầu tư phát triển của GDĐH.
Đặc biệt, trong các loại trường đại học (nghiên cứu, ứng dụng và thực hành)
thì trường đại học nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra
những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng
như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Các trường đại học “tinh hoa mới” là
cách nói khác của các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của mỗi quốc gia, đào
tạo nguồn nhân lực tài năng, chất lượng cao, nghiên cứu khoa học đỉnh cao, đóng
vai trò hoa tiêu, dẫn đầu, tiên phong và trụ cột của nền GDĐH của đất nước hội
nhập và cạnh tranh, phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Để thực hiện được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, Việt Nam đang tiếp tục đổi mới sâu rộng và đồng bộ hơn; tập trung ưu
tiên tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững, đẩy mạnh CNH,
HĐH, chủ động và tích cực HNQT. Tình hình trên đặt ra cho ngành giáo dục và
đào tạo những yêu cầu mới, vẻ vang nhưng cũng nặng nề hơn trong việc thực hiện
nhiệm vụ nâng cao dân trí, phát triển NNLCLC và nền khoa học công nghệ tiên
tiến. Hiện nay, nước ta đang triển khai thực hiện Cương lĩnh của Đảng, các Nghị
quyết số 20/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và Nghị
quyết số 29/NQ-TW về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục đào tạo. Việc Đảng và Nhà nước đã chọn việc phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là NNLCLC gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ là một trong ba khâu đột phá chiến lược đã giao trách nhiệm và là cơ
hội phát triển cho các trường đại học nghiên cứu cũng như hệ thống GDĐH Việt
Nam.

Câu 9:Phân tích đặc trưng sở hữu của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo đồng chí, để phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cần thực hiện những giải pháp nào?
Trả lời
* Khái niệm KTTT
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao nhất của kinh tế hàng hóa, trong
đó các yếu tố đầu vào và đầu ra của nền kinh tế đều thông qua thị trường. Các chủ
thể của nền kinh tế đều chịu sự tác động của quy luật phát triển kinh tế và thái độ
ứng xử của họ là hướng tới sự tìm kiếm lợi ích của chính mình thông qua sự điều
tiết của giá cả.
Kinh tế thị trường là mô hình phát triển kinh tế tất yếu khi nền sản xuất lưu
thông hàng hóa phát triển. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường là hướng đến thực
hiện mục tiêu kinh tế.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế hiện
đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng
60

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
* Bản chất của nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam: vừa có những
đặc trưng của nền KTTT hỗn hợp, vừa có đặc thù của tính định hướng XHCN
1. Phân tích đặc trưng sở hữu của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
VN
Về đặc trưng sở hữu nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là
nền kinh tế ‘phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp” và “mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều
được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và
văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” để góp phần định hướng
nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực
phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước
được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Sự lựa chọn đa dạng các hình thức sở hữu là phù hợp với trình độ phát triển
chưa đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay nhằm khai thác tối đa
thế mạnh của mọi nguồn lực kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng.
Đảng ta chủ trương không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế: Các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật. Đây là quan điểm nhất quán, xóa bỏ hẳn cơ chế bao cấp, chuyển toàn bộ sang
cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển tự
do, bình đẳng , “thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế”.
Trong đó, kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then
chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội
cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn
đầu tư.
Kinh tế nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô và
định hướng XHCN nền kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát
các nguồn tài nguyên chiến lược, phát triển các kết cấu  hạ tầng và dịch vụ công có
vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế
- xã hội nhưng khu vực tư nhân không muốn đảm nhận;...
Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế và sẽ được tạo các
điều kiện phát triển, nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của thành phần kinh tế
này cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhà nước cũng thực hiện quản lý,
61

định hướng thành phần kinh tế này theo những mục tiêu chung của đất nước, đảm
bảo hài hoà lợi ích doanh nghiệp và lợi ích của dân tộc.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên chế độ công
hữu về những tư liệu sản xuất cơ bản, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
làm đại diện chủ sở hữu”, thực hiện “công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất
công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho
các cộng đồng và doanh nghiệp”, phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc và
của nhân dân, “bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và
quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền
kinh tế”.
2 Đặc trưng về mục tiêu:
- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế
thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và không ngừng
phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây
dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho
chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP
đầu người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong
xã hội ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị
trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng
tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an
ninh, quốc phòng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi
ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải
quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không
chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa
nền kinh tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động
kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình;
quyền của người sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của
nhà nước.
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành
phần, với nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển
62

lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà
nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân;
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm
ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.
- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo
tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến
khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công
bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì
vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho nền
kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân
dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng
các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường)
kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt,
khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất;
xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ
nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an
ninh, quốc phòng.

- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt
Nam, phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của
cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về
vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc
sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.

- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa
vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước
63

ngoài theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời
đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển
nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
3. Đặc trưng về chế độ phân phối
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, sự thừa
nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với việc thừa
nhận sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế có nguồn gốc sở hữu khác nhau, tuân thủ các
quy luật thị trường. Quan hệ phân phối trong việc phân chia nguồn lực, yếu tố sản
xuất, của cải và thu nhập, cơ hội tiềm năng giữa nhiều chủ thể mang tính đa chiều
và phụ thuộc lẫn nhau. Để bảo đảm công bằng xã hội cho những đối tượng yếu thế,
thiệt thòi trong quá trình phát triển, cùng với cơ chế phân phối theo thị trường, thì
cơ chế phân phối phi thị trường cũng cần được hoàn thiện phân phối trong nền
kinh tế thị trường
Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo
tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến
khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công
bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
Phân phối là phạm trù kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội
trong việc phân chia các nguồn lực, của cải xã hội. Phân phối là một mặt cơ bản
của quan hệ sản xuất (sở hữu - tổ chức quản lý - phân phối), đồng thời là một khâu
quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu
dùng).
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ phân phối cần được xem xét dưới
nhiều phương diện, gồm sự đa dạng của chủ thể phân phối, sự phong phú của
khách thể phân phối và phương thức phân phối.
Trước hết, chủ thể phân phối nguồn lực và của cải xã hội ngày càng phong
phú, khi tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ cùng cạnh tranh với nhau
trong nền kinh tế thị trường. Các chủ thể độc lập trong mọi khâu của quá trình tái
sản xuất, tất yếu họ độc lập trong phân phối và tự chủ trong việc thụ hưởng thành
quả của mình. Bên cạnh các chủ thể nhà nước, còn có nhiều chủ thể tư nhân hay
ngoài nhà nước đóng vai trò tích cực trong việc phân phối nguồn lực và của cải xã
hội trong nền kinh tế quốc nội và quốc tế.
Khách thể phân phối cũng trở nên phong phú hơn khi cơ chế thị trường cho
phép mỗi chủ thể phát huy năng lực sáng tạo, tìm kiếm cơ hội sinh lời theo đúng
các quy luật vốn có của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung -  cầu, quy luật cạnh
tranh, v.v.. Tất cả nguồn lực có khả năng sinh lời dưới dạng hiện hữu hay tiềm
năng; vật thể và phi vật thể, cơ hội tiềm năng là đối tượng cần phải phân chia giữa
các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Sự đóng góp các nguồn lực (trí tuệ, vốn, tư
liệu sản xuất, tài sản,...) vào sản xuất, kinh doanh sẽ được nhận những mức thu
nhập tương xứng theo giá trị thị trường. Những người có trí tuệ, năng lực và kỹ
năng cao hay đóng góp nhiều cho phát triển xã hội sẽ được thụ hưởng tương xứng
64

thành tựu phát triển. Ngược lại, những người ít đóng góp hơn (vì nhiều lý do khác
nhau) sẽ được hưởng thụ ít hơn. Cơ chế thị trường cho phép mỗi chủ thể phát huy
năng lực, nguồn đóng góp để thụ hưởng cao hơn theo mức đóng góp phù hợp các
quy luật thị trường. Mỗi thành viên xã hội cần phải năng động tận dụng cơ hội phát
triển để tạo ra giá trị sử dụng nhất định cho bản thân và có thể cho nhu cầu xã hội.
Theo bản chất thị trường, cạnh tranh sẽ dẫn tới kết cục thắng - thua. Điều
này dẫn tới tình trạng chênh lệch thu nhập và điều kiện tái sản xuất đối với các chủ
thể kinh tế. Cạm bẫy nghèo đói và bất bình đẳng thu nhập/cơ hội phát triển là tình
trạng hiện hữu trong nền kinh tế thị trường.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam hiện nay, sự
thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đồng nghĩa
với việc thừa nhận sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế có nguồn gốc sở hữu khác nhau,
tuân thủ các quy luật thị trường. Quan hệ phân phối trong việc phân chia nguồn
lực, yếu tố sản xuất, của cải và thu nhập, cơ hội tiềm năng giữa nhiều chủ thể mang
tính đa chiều và phụ thuộc lẫn nhau. Một tất yếu hiện hữu là sự chênh lệch thu
nhập/cơ hội phát triển giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội trở nên rộng hơn trong quá trình phát triển.
Bên cạnh đó, cơ chế phi thị trường cũng cần được hoàn thiện để bảo đảm công
bằng xã hội ở mức có thể cho những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong quá trình
phát triển.

4. Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
cần thực hiện những giải pháp sau:
2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, nâng cao
năng lực và hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nước để kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
Cần phải nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, để kinh
tế nhà nước vươn lên đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế phát
triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong các ngành kinh tế quốc dân. Xóa bỏ mọi
phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi đối với
một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm nhằm mục tiêu xuất khẩu, tạo việc làm.
2.2. Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và
bảo vệ tài nguyên môi trường
CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân là tạo lập những tiền đề vật chất cho nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển.
Chuyển lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc, ứng dụng
những thành tựu của khoa học và công nghệ, gắn với nền kinh tế tri thức ở các
ngành các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện được cần: Phát triển
mạnh khoa học, công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; có chính sách
65

khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu và đổi mới công
nghệ.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, cơ cấu kinh tế xây dựng trong quá
trình CNH, HĐH trên cơ sở khai thác lợi thế của các vùng miền, các ngành, các
lĩnh vực, đồng thời phải phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Các cơ cấu kinh
tế đó là: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
2.3. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
- Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và
công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu
- Cải cách mạnh mẽ chính sách tài chính về đất đai theo hướng đơn giản, ổn
định, công khai, minh bạch và công bằng
- Thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường
- Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ, gồm cả thị trường xuất,
nhập khẩu, thị trường trong nước và biên mậu; phát triển hạ tầng thương mại.
- Phát triển cân bằng, đồng bộ thị trường tài chính. Thực hiện có hiệu quả
chủ trương cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công.
- Rà soát, bổ sung, sửa đổi luật pháp bảo đảm thực hiện chính sách tiền tệ
theo mục tiêu kiểm soát lạm phát, phối hợp có hiệu quả giữa chính sách tiền tệ,
chính sách tài khoá và các chính sách khác.
- Đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ.
Tăng cường bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
- Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để phát triển và vận hành thông
suốt thị trường bất động sản.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường
lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề.
- Đẩy mạnh cải cách chế độ tiền lương, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
năng suất lao động và tăng tiền lương, lấy tăng năng suất lao động làm cơ sở để
tăng tiền lương
2.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực và hiệu lực quản lý của
nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Cải cách bộ máy và cơ chế điều tiết nền kinh tế của nhà nước theo hướng
tinh gọn có hiệu quả
- Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các
chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả:Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan
trọng để quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.Đổi mới chinh sách tài
chính, tiền tệ, giá cả nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển; phát triển nền tài
chính quốc gia vững mạnh; bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, nâng cao vị thế và
uy tín quốc tế của tài chính Việt Nam.
66

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi:
Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi phải phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ này phải có năng
lực chuyên môn giỏi, đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát để điều chỉnh kịp thời sự vận hành của nền
kinh tế khi cần thiết.
2.5. Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế hàng hóa là đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc đôi bên
cùng có lợi. Cải tiến cơ chế quản lý kinh tế, thu hút rộng rãi nguồn vốn và đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam để phát triển kinh tế. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu
tư, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện
thuận lợi để khai thác lợi thế so sánh của đất nước và khắc phục những vướng mắc
ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn đầu tư.
Câu 10: Những thuận lợi và thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng
trong kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới từ
năm 1986 tới nay?
Trả lời:
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản, cốt lõi mà từ rất sớm
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn.
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc, độc lập
dân tộc phải gắn liền với thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, với bình đẳng dân tộc. Theo
Hồ Chí Minh, nền độc lập dân tộc phải trong hoà bình, tự do, độc lập phải đảm bảo
cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi người dân.
Chủ nghĩa xã hội là một phong trào lịch sử mang tính chính trị - xã hội; chủ
nghĩa xã hội như là một lý tưởng tốt đẹp mà loài người sẽ đạt tới; là hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân; là một trong hai giai đoạn và là giai đoạn đầu của hình thái
cộng sản chủ nghĩa; là một chế độ xã hội đối lập hoàn toàn với chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội.
Sức mạnh của yếu tố dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là sức mạnh
tự có mà còn phụ thuộc một cách quyết định vào việc kết hợp với chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu hướng tới, cơ sở đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, sau khi giành được độc lập, cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo cho độc lập
dân tộc được vững chắc, được thực thi trên thực tế.
67

Thuận lợi và thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng trong kết hợp mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới từ năm 1986 tới nay
*Thuận lợi
- Xu thế toàn cầu hóa đoàn kết giữa các quốc gia trên phạm vi thế giới về 3
vấn đề:
Độc lập chủ quyền; Khoa học công nghệ; Phát triển kinh tế.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác,
cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là các nước lớn
ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều
lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
- Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á tiếp tục là
trung tâm phát triển năng đồng, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày
càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến
lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp.
ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa
bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.
- Trong nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế nước ta từng bước ra
khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng dù vẫn còn nhiều khó khăn, thách
thức.
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng ta có đường lối
đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được
nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát
huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng
thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù
hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi. 
- Kinh nghiệm của Đảng và nhân dân sau hơn 30 năm đổi mới
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống
của nhân dân có nhiều thay đổi.
68

Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức
mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
*Thách thức
- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất- kỹ thuật nhỏ bé, manh mún, hậu quả chiến
tranh nặng nề, lại bị Mỹ phong tỏa cấm vận; tình hình quốc tế có những diễn biến
bất lợi, phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới phía nam, phía
bắc, đòi hỏi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều
bước đi cụ thể thích hợp. Trong bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng được
tôi luyện qua thử thách đấu tranh vì độc lập dân tộc vì chủ nghĩa xã hội, Đảng đã
kiên trì tìm tòi đề ra đường lối đổi mới đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế
- xã hội, giành được những thành tựu to lớn, toàn diện.
Kinh tế nước ta từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng
nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc;
nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.
Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu nghèo, phân hóa xã hội ngày
càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển đảo
đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một
số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Những thành tựu, kinh nghiệm của
hơn 30 năm đổi mới đất nước đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp
lớn hơn nhiều so với trước.

- Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức
tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài
nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp, lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ,
chiến tranh mạng... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. “Cục diện thế giới
theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh
chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau,
tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực.
69

Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp
đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các cơ chế đa
phương đứng trước những thách thức lớn.
- Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều
diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với
các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và
các hình thái chiến tranh kiều mới.
Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách
thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm,
lỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn.
* Liên hệ
Để thực hiện được mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, là cán bộ
(của Hội LHPN Việt Nam), tôi xin đề xuất một số nội dung cụ thể như sau:
Trước hết, cần định hướng cho hội viên, phụ nữ nhận thức rõ thực tiễn tình
hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; xu hướng toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng. Điều đó, tác động nhiều chiều đến sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đáng chú ý là, các thế lực thù
địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá trên tất cả các lĩnh vực, hòng xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những yếu tố bên
trong, bên ngoài đang tồn tại đan xen, vừa tạo cơ hội, vừa làm phát sinh thách thức
mới. Trong nội bộ, tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống là mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không thể xem
thường. Vì thế, hơn bao giờ hết, toàn thể dân tộc Việt Nam mà trước hết là đội ngũ
cán bộ đảng viên phải nắm vững và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội, thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động ứng phó có hiệu quả với
mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, phải quán triệt cho hội viên, phụ nữ nắm vững, thấu suốt nội hàm
của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Đây là vấn đề rất
quan trọng, làm cơ sở để xác định nội dung và những bước đi phù hợp. độc lập dân
tộc phải được nhận thức một cách triệt để, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Trong đó, vấn đề tiên quyết, cơ bản nhất là giữ vững độc lập, tự chủ
về đường lối chính trị của Đảng, bảo đảm định hướng đúng đắn và duy nhất con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không bị lệ thuộc vào bất cứ thế lực
nào. Đường lối đó phải trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực
tiễn Việt Nam và trở thành nền tảng tư tưởng của toàn xã hội. Sự kiên định lập
trường đó trong sự nghiệp đổi mới phải bảo đảm cho đất nước ta “đổi mới nhưng
không đổi hướng”, “hội nhập nhưng không hòa tan” trong thế giới “đa cực” với
nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng của tình hình hiện nay.
70

Bên cạnh đó, cần làm rõ để cho hội viên thấy được những nội dung độc lập,
tự chủ trên lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa, v.v. Thống
nhất nhận thức về nội hàm của độc lập dân tộc sẽ là cơ sở đảm bảo cho hành động
đúng trong thực tiễn hoạt động xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Tóm lại, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu cơ bản của
cách mạng, vừa là lợi ích căn bản của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên
suốt của Đảng ta, và đặc biệt được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội lần thứ XII.
Do đó, trong quá trình tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ, cần quán triệt sâu
sắc quan điểm: lấy phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây
dựng văn hóa, xã hội là nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng - an
ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Bên cạnh đó, việc kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên
nắm vững và thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã
hội với quốc phòng - an ninh và đối ngoại; kiến tạo và giữ vững môi trường hòa
bình để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Câu 11. Phân tích nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng
cộng sản trong đảng cộng sản từ đó đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt
nguyên tắc này, liên hệ với thực tế của bản thân.
Trả lời:
Với tư cách là nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng, tổ chức và hoạt động của
Đảng, mọi hoạt động và quan hệ giữa các tổ chức Đảng với nhau, giữa cấp trên và
cấp dưới, giữa tổ chức và cá nhân đảng viên, cá nhân và tập thể, tự do và kỷ luật…
đều phải dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Qua đó, tập trung dân chủ giúp
phát huy tiềm năng trí tuệ trong Đảng, trong nhân dân, đảm bảo cho các quyết định
của tổ chức Đảng bớt sai lầm, khuyết điểm, vừa đảm bảo cho Đảng đoàn kết, thống
nhất tạo thành một sức mạnh nhằm đảm bảo giữ vững chính trị, ổn định tư tưởng
và kiện toàn tổ chức Đảng. Ngoài ra, nguyên tắc tập trung dân chủ giúp loại bỏ
khuynh hướng độc đoán, vô chính phủ, phá hoại sự thống nhất của Đảng. Nếu phá
vỡ nguyên tắc tập trung, dân chủ thì Đảng Cộng sản không còn là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động. Như vậy có thể thấy rằng, nguyên
tắc tập trung dân chủ được thể hiện qua hai nội dung: Tập trung và dân chủ. Tính
tập trung trong Đảng thể hiện trước hết ở sự thống nhất về tư tưởng, về đường lối
chính trị, về tổ chức hoạt động. Sự thống nhất này được thể hiện ở chỗ Đảng chỉ có
một trung tâm lãnh đạo duy nhất thông qua cơ quan cao nhất là đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng, giữa hai kỳ đại hội là Ban chấp hành Trung ương và thể hiện
trong cơ cấu tổ chức của Đảng. Về mặt tổ chức của Đảng, tính tập trung được thể
hiện ở vấn đề Đảng phải thống nhất về quy mô và hình thức tổ chức. Để đảm bảo
tính tập trung này, phải thống nhất ý chí, hoạt động theo kỷ luật của Đảng một
cách tự giác, nghiêm minh. Kỷ luật Đảng là bắt buộc đối với mọi đảng viên, đòi
hỏi thiểu số phục tùng đa số, cấp phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức,
71

các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Ban
chấp hành Trung ương.
Về đường lối chính trị của Đảng, tính tập trung đòi hỏi phải có cương lĩnh,
đường lối, mục tiêu cách mạng thống nhất, được mọi tổ chức Đảng và đảng viên
tuân thủ và thực hiện, toàn dân hướng vào phấn đấu. Đảng phải có điều lệ thống
nhất – Điều lệ chính là bộ luật của toàn Đảng mà mọi tổ chức Đảng và đảng viên
phải chấp hành vô điều kiện cả về nhận thức và chấp hành.
Tính dân chủ trong Đảng thể hiện ở nội dung mọi đảng viên có quyền ngang
nhau, đều được tham gia trực tiếp hoặc thông qua đại biểu để thực hiện quyền của
mình, thể hiện ý kiến của mình trong mọi công việc của Đảng, khi thảo luận thì
thực sự dân chủ, khi hành động phải thống nhất trăm người như một; các cơ quan
lãnh đạo của Đảng đều do dân chủ bầu cử lập ra, Đảng lấy tự phê bình và phê bình
là quy luật phát triển của Đảng; thực hiện chế độ báo cáo trước tổ chức Đảng đã
bầu ra mình và có thể bị bãi miễn bết kỳ lúc nào nếu không xứng đáng và không
hoàn thành nhiệm vụ tổ chức giao. Hoạt động lãnh đạo của Đảng theo nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, kết hợp cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm cá
nhân. Ý kiến phụ thuộc vào thiểu số được bảo lưu, không phân biệt đối xử đối với
người có ý kiến thuộc về thiểu số.
* Đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về bản
chất, nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ hai, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ bằng những văn bản hướng
dẫn cụ thể, để mọi tổ chức đảng và đảng viên thực hiện.
Thứ ba, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; nâng cao chất lượng sinh hoạt
đảng, nhất là sinh hoạt cấp ủy và chi bộ, coi trọng việc quản lý, giáo dục, rèn luyện
đảng viên.
Thứ tư, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát quá trình
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Thứ năm, đề cao vai trò của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong giữ vững
và phòng, chống tình trạng xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.
* Liên hệ: Dựa vào đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc.

Câu 12. Phân tích nội dung nguyên tắc phê bình và tự phê bình trong
đảng cộng sản, liên hệ bản thân
Trả lời:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Vậy làm thế nào để
Đảng ta có được điều đó? Bác đã chỉ ra: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình". Ở Hồ Chí Minh, tự phê
bình và phê bình đã trở thành một nguyên tắc không thể thiếu trong phong cách
72

lãnh đạo của Người. Dù ở cương vị lãnh đạo cao nhất, Người vẫn thực hành tự phê
bình và phê bình một cách nghiêm túc, nêu tấm gương sáng về đức tính trung thực,
thẳng thắn, về thái độ và phương pháp phê bình cho cán bộ, đảng viên noi theo.
Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất giúp Đảng ta ngày càng
thêm mạnh, ngày càng phát triển, càng nâng cao hơn nữa năng lực và sức chiến
đấu của Đảng. Tự phê bình và phê bình giúp ta sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu
điểm, tiến bộ không ngừng. Bởi vậy, theo Bác, trong Đảng muốn đoàn kết chặt
chẽ, "ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và
phê bình". Có thực hành dân chủ rộng rãi thì tự phê bình và phê bình mới trở thành
nền nếp thường xuyên trong sinh hoạt Đảng. Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm
việc" (năm 1947), Bác viết: "Nếu cách lãnh đạo của ta không được dân chủ thì đối
với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và cán bộ dù có
ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ không dám phê bình".
Tự phê bình và phê bình là nhu cầu nội tại của tổ chức Đảng và đảng viên.
Song sử dụng nó phải đúng mục đích thì mới có tác dụng, hiệu quả cao. Nếu sử
dụng không đúng mục đích thì dù đó là vũ khí sắc bén cũng không tiêu diệt được
kẻ thù, là "thần dược" cũng không trị được bệnh.
Từ quan điểm xuất phát thể hiện tính dân chủ và nhân đạo cao cả, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp, hình thức và những yêu cầu để tiến hành tự
phê bình và phê bình đạt hiệu quả cao nhất:
Thứ nhât, tự phê bình và phê bình phải gắn với sửa chữa, tức là phải chỉ rõ
ưu, khuyết điểm và phương hướng để phát huy hoặc khắc phục. Đồng thời phải
gắn với động viên, khen thưởng, xử phạt rõ ràng.
Thứ hai, tự phê bình và phê bình phải đạt tới cái đích là làm rõ đúng, bảo
đảm tính khách quan, trung thực, thẳng thắn và chân tình. Tự phê bình cũng như
phê bình phải trung thực, không nể nang, không thêm bớt. Bác nhắc nhở: "Phê
bình phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách, mách có chứng. Phải
phê bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng, "trị bệnh cứu người", chớ phê bình
lung tung không chịu trách nhiệm. Khi phê bình, chớ dùng những lời mỉa mai,
chua cay, đâm thọc. Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch rõ ràng, mà ưu
điểm cũng phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến
khích nhau, bắt chước nhau".
Thứ ba, Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ,
công khai. Công khai phân tích, nhận xét, đánh giá ưu, khuyết điểm của mình,
đồng chí mình và tổ chức đảng trước hội nghị, phê phán nghiêm khắc tình trạng
"ngồi lê đôi mách", "việc gì cũng không phê bình trước mặt mà để nói sau lưng".
Bác cho rằng: " Kiểu phê bình như vậy là biểu hiện của bệnh "cá nhân"".
Tự phê bình và phê bình muốn đạt kết quả cao thì phải được tiến hành trong
bầu không khí thật dân chủ, bình đẳng. Chỉ có dân chủ rộng rãi thì mọi cán bộ,
đảng viên, nhân dân mới tích cực, chủ động, nói thẳng, nói thật. Song mở rộng dân
chủ trong tự phê bình và phê bình không có nghĩa là muốn nói gì thì nói, muốn phê
thì phê. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì một cuộc tự phê bình và phê bình nghiêm
túc là: "Trong lúc thảo luận, mọi người được tự do hoàn toàn phát biểu ý kiến , dù
73

đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". ở
đây, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt rất quan trọng, như Bác đã dạy: cán bộ cao
cấp phải gương mẫu tự phê bình và phê bình trước.
Thứ tư, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, phê bình
từ trên xuống và từ dưới lên, nhất là từ dưới lên, có như vậy mới đạt hiệu quả cao.
Bởi vì, nếu chỉ phê bình một chiều thì như Bác so sánh cũng giống như người "đi
một chân, không thể đi được".
Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải đảm bảo đúng nguyên tắc, song
cách thức tiến hành phải mềm dẻo, khéo léo. Nếu chỉ dùng phương pháp cứng rắn,
mệnh lệnh, ép buộc thì rất khó tiếp thu. Phê bình không đúng lúc, đúng chỗ, không
khôn khéo sẽ có tác dụng ngược lại thậm chí còn gây ra hậu quả khó lường bởi lẽ
lời chê như một mồi lửa, lòng tự ái, kiêu căng của con người giống như một kho
thuốc súng. Ngày xưa,Trang Tử cũng đã từng nói: Người chê ta phải là thầy ta,
người khen ta phải là bạn ta, người nịnh hót ta là kẻ thù của ta.
Thứ năm, người và tổ chức được phê bình phải có thái độ thành khẩn, vui
lòng để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét. Hết sức tránh
thái độ "giấu bệnh sợ thuốc", bị phê bình thì im lặng, không tìm cách sửa đổi. Hồ
Chí Minh gọi đó là "thái độ không thật thà, không đúng đắn" và thái độ đó sẽ dẫn
đến hậu quả hết sức nghiêm trọng, bệnh ngày càng nặng thêm, thậm chí nguy hiểm
đến tính mạng.
Liên hệ: Dựa vào các tiêu chí sau.
Một là, nâng cao trách nhiệm bí thư chi bộ; mở rộng dân chủ; duy trì chặt
chẽ chế độ tự phê bình và phê bình.
Hai là, tự phê bình và phê bình phải trung thực, thẳng thắn, khách quan gắn
với xử lý kỷ luật nghiêm minh.
Ba là, kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện tự phê bình và phê bình

Câu 13. Phân tích nội dung nguyên tắc đoàn kết trong đảng cộng
sản,liên hệ bản thân.
Trả lời:
Đoàn kết trong Đảng là sức mạnh, làm nên sức mạnh của Đảng, song như
Hồ Chí Minh đã nói, muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng cách mạng phải trong
sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất, “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, phải
“tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”. Tiên phong về
trí tuệ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, mẫu mực về đạo đức cách mạng; đoàn kết,
thống nhất trong tư tưởng và hành động của Đảng là yêu cầu khách quan, là
nguyên tắc sống còn và đó là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng càng được củng cố thì sức mạnh của khối
đoàn kết toàn dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đại đoàn kết
sẽ nhân nguồn sức mạnh nội lực để đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đến thắng
lợi hoàn toàn và nội dung này đã được khẳng định trong văn kiện các kỳ đại hội
của Đảng.
74

Thực hiện lời dặn của Người, nhất là trong hơn 30 năm tiến hành đổi mới và
hội nhập quốc tế, Đảng đã luôn coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường
lối chính trị và các nguyên tắc xây dựng Đảng là sinh mệnh của Đảng; đã kiên
quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái,
gây mất đoàn kết trong Đảng. Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng đều nhấn mạnh vai
trò của đoàn kết, coi đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh
đạo có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng; Đại hội XII của Đảng
khẳng định: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc”.
Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo Điều lệ
Đảng. Mỗi tổ chức Đảng phải giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh
đạo, trong nội bộ trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Nhất là, người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền phải có phẩm chất đạo đức, có vai trò tiên phong, gương mẫu
và năng lực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo; phải thực sự công bằng, công tâm
trong xử lý công việc, thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức đảng, của
tập thể cơ quan… Đối với những cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, không thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, kiểm tra, giám
sát; cán bộ lãnh đạo thiếu rèn luyện đạo đức cách mạng, sa vào cá nhân chủ nghĩa,
gây mất đoàn kết nội bộ thì phải kịp thời tiến hành kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử
lý nghiêm những người có khuyết điểm, để củng cố sự đoàn kết thống nhất.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc triển khai thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI, XII về gắn với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa
XI, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII và các quy định,...cho thấy, vẫn
còn một số tổ chức đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chậm được khắc phục,
thậm chí còn có xu hướng gia tăng không chỉ ở địa bàn cơ sở. Ở nơi này, nơi khác,
không ít tổ chức đảng chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình. Việc thực hiện Điều lệ Đảng và quy định về những
điều đảng viên không được làm, quy định nêu gương ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực
chưa nghiêm. Những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao như cơ hội chủ nghĩa,
“lợi ích nhóm”, cục bộ địa phương,…chưa được phát hiện và ngăn chặn kịp thời,
dẫn đến sự đoàn kết thống nhất trong tư tưởng và hành động của một số cấp ủy còn
yếu.
Trong khi đó, tác động của bối cảnh toàn cầu hóa với những thời cơ và thách
thức, thuận lợi và khó khăn đan xen; với nhiều diễn biến nhanh chóng, khó lường
và phức tạp càng đòi hỏi Đảng phải có quyết tâm chính trị cao, sự đoàn kết thống
nhất chặt chẽ để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Vì thế, để giữ gìn sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng theo tinh thần Đại hội XII của Đảng và làm theo
những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, góp phần phòng và chống âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phòng và chống nguy cơ “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, cấp ủy các cấp cần chú trọng những nhiệm vụ
trọng tâm sau:
75

Một là, xây dựng các chương trình hành động, tạo sự thống nhất về chính trị
tư tưởng và hành động; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, bởi đây là cơ sở quan
trọng nhất để xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đảm bảo thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cá
nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung
ương. “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”, đảm bảo dân chủ giữa cấp trên và
cấp dưới; dân chủ trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa; kết hợp hài hòa
giữa dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, nhất là trong xây dựng, ban hành các
chỉ thị, nghị quyết, chính sách. Đồng thời, khắc phục bệnh dân chủ hình thức, ngăn
ngừa việc lợi dụng dân chủ để gây rối theo kiểu tự do vô chính phủ.
Hai là, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trên tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau để nhằm mục đích “trị bệnh cứu người”, qua đó
củng cố và tăng cường kỷ luật của Đảng, phát huy dân chủ và giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Thông qua tự phê bình và phê bình trên tinh thần nêu
gương, tự giác, chân thành, thẳng thắn, khách quan, trung thực, không mệnh lệnh,
áp đặt, v.v.. mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng
đầu phải gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm hơn trong hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ được giao.
Ba là, “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân để “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”. Đặc biệt, phải lựa chọn và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực; thống nhất giữa nói và làm; có
vai trò tiên phong, nêu gương, đi đầu trong mọi lĩnh vực, thực sự là trung tâm quy
tụ, đoàn kết của mỗi tổ chức đảng, mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Bốn là, tăng cường và đẩy mạnh thực hiện công tác kiểm tra và giám sát;
giám sát phải mở rộng và kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm với tinh thần
quyết tâm cao, bản lĩnh vững vàng để sớm phát hiện những biểu hiện đoàn kết hình
thức, “bằng mặt không bằng lòng”…Tập trung xử lý dứt điểm tình trạng mất đoàn
kết nội bộ khi có những biểu hiện manh nha; đồng thời, cảnh giác và chủ động đấu
tranh với việc lợi dụng bất đồng ý kiến, mâu thuẫn trong nội bộ để kích động,
chống phá, phá hoại khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, dẫn đến nguy cơ “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Năm là, đẩy mạnh, tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền việc thực hiện Chỉ
thị 05-CT/TW và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
gắn với các quy định về phát huy vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên
nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng trên các phương tiện
truyền thông. Thông qua việc nêu gương, nhân rộng các tấm gương điển hình của
tập thể và cá nhân để “giáo dục lẫn nhau”, thiết thực giữ gìn và củng cố sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng, xây dựng sự đồng thuận, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
76

50 năm sau khi Hồ Chí Minh đi xa, những điều Người trăn trở, dặn lại trong
Di chúc về đoàn kết trong Đảng vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự, đặc biệt là ở những
giai đoạn có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một Đảng cầm
quyền trong sạch, vững mạnh./.
Liên hệ :
Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ
chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện
dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để "kéo bè, kéo cánh", để làm rối loạn kỷ
cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng
trên quần chúng..., làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ.
       Đoàn kết là điều không thể thiếu trong một tập thể. Ngoài việc bản thân
người lãnh đạo/quản lý có chuyên môn giỏi ra thì họ vẫn cần sự trung thực và tinh
thần hết lòng vì nhân viên, công việc. Đó là điều kiện cần. 
        Còn sự lao động hăng say, có niềm tin vào lãnh đạo và đồng lòng vượt
qua mọi thử thách mà không một chút tư lợi về bản thân của đội ngũ nhân viên
chính là điều kiện đủ. Hai điều kiện này rất cần thiết và tác động bổ trợ lẫn nhau.
Thiếu một trong hai điều kiện, thành công có thể đến nhưng không bền lâu.
       Sự đoàn kết “đồng lòng nhất trí” trong công việc là một trong những
yếu tố quan trọng tạo nên thành công của đơn vị. Khi tất cả mọi nhân viên cùng
đồng lòng hợp sức sẽ tạo ra một nguồn năng lượng làm việc lớn nhất và đạt hiệu
quả cao nhất. Nhưng vấn đề đặt ra là mỗi người đều là mỗi cá thể riêng biệt, nên sẽ
không dễ dàng để gắn kết mọi người cùng hòa vào dòng chảy chung của tập thể.
       Mọi người sẽ làm việc tốt với nhau khi họ cảm thấy được đối xử công
bằng trong công việc. Một vài nhân viên bình thường, không có đóng góp nhiều
cho tập thể nhưng luôn nhận được sự thiên vị hoặc đối xử đặc biệt trong công việc,
khen thưởng hay xử phạt. Điều này chắc chắn sẽ khiến những người còn lại không
hài lòng, thậm chí bất mãn vì cách đối xử thiếu phân minh.
       Nếu tập thể thiếu đi yếu tố bình đẳng thì điều này tạo ra sự bất hòa,
không nhất quán trong công việc. Từ đó, sự đoàn kết sẽ không tồn tại và năng suất
làm việc của cả tập thể bị giảm sút, các nhân viên luôn cảm thấy lạc lõng, xa rời
tập thể và không còn hứng thú làm việc.
77

MÔN: NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG


Câu 14: Anh/chị hãy phân tích ý nghĩa, nội dung công tác quản lý đảng viên
của tổ chức cơ sở đảng hiện nay? Liên hệ thực tiễn công tác quản lý đảng viên ở
chi bộ (đảng bộ) nơi Anh/chị đang công tác?
Câu 15: Vì sao Đảng ta khẳng định công tác tư tưởng là một trong những
phương thức lãnh đạo chủ yếu có vị trí quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng? Phân tích làm rõ tính phức tạp, nhạy cảm của công tác tư tưởng ở tổ
chức cơ sở đảng hiện nay? Liên hệ với việc thực hiện công tác tư tưởng của Đảng
ở chi bộ, đảng bộ, đơn vị cơ sở nơi Anh/chị đang sinh hoạt, công tác?
Câu 16: Trình bày vai trò của nhân dân và tầm quan trọng của công tác dân
vận của tổ chức cơ sở đảng. Để thực hiện tốt công tác dân vận ở tổ chức cơ sở đảng
cần lưu ý những yêu cầu gì? Liên hệ thực thực tế địa phương/cơ quan nơi đồng chí
đang công tác?
Câu 17. Trình bày nội dung, phương thức công tác dân vận của tổ chức cơ
sở đảng. Để thực hiện tốt công tác dân vận của tổ chức cơ sở Đảng cần lưu ý yêu
cầu gì? Liên hệ thực tiễn của địa phương hoặc cơ quan mình.

GỢI Ý TRẢ LỜI

Câu 14: Anh/chị hãy phân tích ý nghĩa, nội dung công tác quản lý đảng
viên của tổ chức cơ sở đảng hiện nay? Liên hệ thực tiễn công tác quản lý đảng
viên ở chi bộ (đảng bộ) nơi Anh/chị đang công tác?

Trả lời
Giáo trình: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở
1. Khái niệm công tác quản lý đảng viên
2. Ý nghĩa của công tác quản lý đảng viên (Giáo trình – Bài 2 – Mục 2.2.1
– Trang 40)
Làm cơ sở cho việc giáo dục, rèn luyện, phân công công tác, góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Thực chất của công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ, chi bộ là quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức điều chỉnh của cấp ủy, chi bộ thông qua thực hiện
các nguyên tắc, các biện pháp, các chế độ quy định của Đảng để am hiểu, nắm
chắc mọi mặt của từng đảng viên, giúp họ phấn đấu rèn luyện đáp ứng yêu cầu tiêu
chuẩn đảng viên.
Mục đích quản lý đảng viên cấp ủy, chi bộ nắm chắc tình hình mọi mặt của
đảng viên, làm cơ sở để giáo dục, rèn luyện đảng viên về phẩm chất chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, năng lực theo tiêu chuẩn đảng viên mà Điều lệ Đảng quy
định, đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo của các đảng bộ, chi bộ.
3.Nội dung quản lý (Giáo trình – Bài 2 – Mục 2.2.2 – Trang 41 đến 45)
Phân tích 3 nội dung :
- Quản lý hồ sơ
78

- Quản lý hoạt động của đảng viên


- Quản lý đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống.
1. Liên hệ
- Giới thiệu khái quát về đảng bộ (chi bộ) cơ sở nơi sinh hoạt
- Đặc diểm, tình hình của đội ngũ đảng viên
- Những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý đảng viên
- Những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý đảng viên
- Nguyên nhân của những hạn chế
- Giải pháp khắc phục hạn chế.

MỘT VÀI TÀI LIỆU PHỤC VỤ PHẦN LIÊN HỆ VỀ CÔNG TÁC QUẢN
LÝ ĐẢNG VIÊN
1. Tài liệu thứ nhất
Công tác quản lý đảng viên ở Chi bộ là một nhiệm vụ hết sức quan trọng,
góp phần nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên; thể hiện tính
nghiêm minh của Đảng, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Từ
đó, khẳng định vai trò hạt nhân lãnh đạo và uy tín của Đảng trong cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân.
Những năm qua, các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở luôn quan tâm chỉ đạo
công tác quản lý đảng viên, nhất là ở Chi bộ Đảng. Tỷ lệ đảng viên được miễn công
tác và sinh hoạt Đảng ngày càng giảm. Công tác quản lý đảng viên ngày càng chặt
chẽ, thể hiện qua hệ thống hồ sơ, sổ sách quản lý đảng viên được trang bị khá đồng
bộ, theo mẫu hướng dẫn. Nhiều tổ chức Đảng đã ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu đảng viên. Thực hiện nghiêm quy định 76-QĐ/TW
về đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư
trú, cấp ủy nơi công tác và nơi cư trú đã thường xuyên trao đổi, phối hợp, thông tin
trong việc quản lý, nhận xét đảng viên theo quy định…
Tuy nhiên, công tác quản lý đảng viên ở một số cấp ủy còn lỏng lẻo, thực hiện
không đúng quy định về đối tượng, quy trình, thủ tục. Việc xem xét, cho miễn công
tác và sinh hoạt Đảng có biểu hiện nể nang dẫn đến băn khoăn trong tổ chức Đảng và
đảng viên. Quản lý đảng viên theo quy định 76 và đảng viên đi làm ăn xa chưa chặt
chẽ. Nhiều đảng viên đi làm ăn xa không được gia hạn khi hết thời gian, "đảng viên
76" không sinh hoạt đầy đủ, thiếu gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
Còn hiện tượng nể nang trong nhận xét, đánh giá "đảng viên 76". Hệ thống sổ sách
của một số chi bộ còn thiếu, hoặc không cập nhật kịp thời những biến động dẫn đến
khó theo dõi dõi, quản lý đảng viên…
Để kịp thời chấn chỉnh và thực hiện tốt nhiệm vụ công tác này, Đảng ủy đã có
kết luận chuyên đề yêu cầu các Chi bộ triển khai các giải pháp phù hợp với tình hình
thực tiễn khắc phục những hạn chế, yếu kém, tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
-Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc những Nghị quyết, Chỉ thị, các
văn bản của Trung ương, của Đảng ủy khối về nhiệm vụ quản lý đảng viên. Thường
79

xuyên làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục; nhất là trong thế hệ trẻ có nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về Đảng.
-Thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ về thủ tục, quy trình xét miễn công tác và
sinh hoạt Đảng đối với đảng viên đi làm nhiệm vụ. Đối với đảng viên đi làm nhiệm
vụ khi hết thời hạn phải làm bản kiểm điểm và xin ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi
đến; trường hợp nơi đến không có tổ chức đảng hoặc làm ăn lưu động, đảng viên
phải viết bản tự kiểm điểm về tư cách của người đảng viên để làm cơ sở cho chi bộ
theo dõi, đánh giá xếp loại đảng viên cuối năm.
-Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, hướng dẫn việc chuyển sinh
hoạt đảng cho đảng viên. Cấp ủy khi thực hiện việc chuyển sinh hoạt đảng cho đảng
viên phải thông báo bằng văn bản cho cấp ủy cơ sở nơi đảng viên được chuyển đến
để theo dõi, đôn đốc và xử lý khi đảng viên vi phạm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng.
- Tăng cường sự phối hợp, thường xuyên trao đổi thông tin giữa cấp ủy của
đơn vị và nơi cư trú để quản lý "đảng viên 76". Chỉ đạo cấp ủy nơi cư trú khi nhận
xét, đánh giá "đảng viên 76" phải công tâm, đúng thực chất, khắc phục tình trạng nể
nang, xuê xoa.

Câu 15: Vì sao Đảng ta khẳng định công tác tư tưởng là một trong
những phương thức lãnh đạo chủ yếu có vị trí quan trọng hàng đầu trong
hoạt động lãnh đạo của Đảng? Phân tích làm rõ tính phức tạp, nhạy cảm của
công tác tư tưởng ở tổ chức cơ sở đảng hiện nay? Liên hệ với việc thực hiện
công tác tư tưởng của Đảng ở chi bộ, đảng bộ, đơn vị cơ sở nơi Anh/chị đang
sinh hoạt, công tác?

Trả lời
1. Khái niệm công tác tư tưởng của Đảng ở cơ sở (Giáo trình – Bài 5 – Mục
1.1.1 – Trang 121)
2. Phân tích vai trò của công tác tư tưởng (Các ý chính sau):
- Công tác tư tưởng có vị trí quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng.
- Công tác tư tưởng góp phần xây dựng và hoàn thiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.
- Công tác tư tưởng tạo sự thống nhất và đồng thuận cao về tư tưởng
trong Đảng, sự thống nhất về chính trị, tinh thần trong nhân dân.
- Công tác tư tưởng còn là một phương thức thực hiện dân chủ XHCN;
là vũ khí sắc bén tấn công lại sự phá hoại của các thế lực thù địch trên trận địa
lý luận, tư tưởng, văn hóa.
Công tác tư tưởng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hình thành niềm tin,
hướng tới hành động tự giác và tích cực.
3. Tính phức tạp và nhạy cảm của công tác tư tưởng ở cơ sở hiện nay
- Đặc điểm tình hình ở cấp cơ sở
80

Phân tích tính phức tạp và nhạy cảm của công tác tư tưởng ở cơ sở (Giáo
trình – Bài 5 – Mục 1.2 – Trang 128)

4. Liên hệ
- Giới thiệu khái quát về nơi đồng chí đang công tác
- Đánh giá việc thực hiện công tác tư tưởng
+ Ưu điểm:
+ Hạn chế:
- Nguyên nhân của những hạn chế và biện pháp khắc phục.

MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐỂ VIẾT PHẦN LIÊN HỆ CHO


CÂU HỎI NÀY

THAM LUẬN
CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là một nội dung quan trọng trong toàn
bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng và của cả hệ thống
chính trị. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng là một trong những yếu
tố quyết định để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thành công trong sự
nghiệp cách mạng. Luôn song hành với việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng cũng như việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng và
toàn thể đảng viên.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được thể hiện ở nhiều nội dung như:
Tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, nghị quyết của Đảng cho cán bộ, đảng viên và công nhân viên. Tuyên
truyền, giáo dục nhiệm vụ chính trị của tổ chức, cơ quan, đơn vị theo đúng chức
năng, nhiệm vụ được quy định. Cập nhật kiến thức mới, nâng cao trình độ hiểu
biết, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên, viên chức, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý….
Xác định được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng. Đảng ủy Nhà trường chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong cán bộ, đảng viên, công nhân viên và sinh
viên, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu phát triển Nhà trường theo cơ
chế tự chủ toàn diện trong giai đoạn mới.
I. Kết quả đạt được về Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng năm 2018.
1. Đối với cán bộ, đảng viên, công nhân viên.
1/ Đảng ủy Trường đã chỉ đạo quán triệt, triển khai đến từng cán bộ, đảng
viên nghiêm túc học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ nhận thức về Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, cụ thể:
81

Nghị quyết TƯ 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nghị quyết TƯ 5 (khóa XII) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN
Nghị quyết TƯ 6 (khóa XII) về đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị quyết TƯ 7 (khóa XII): (NQ 26, 27, 28) về công tác cán bộ, tiền lương
và bảo hiểm xã hội.
Nghị quyết TƯ 8 (khóa XII) về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà
nước năm 2018; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước
năm 2019.
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Việc triển
khai, học tập và làm theo Bác trở thành việc làm thường xuyên. Đây là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức Đảng
hàng năm và cả nhiệm kỳ.
2/ Làm tốt công tác nắm bắt tư tưởng, định hướng dư luận xã hội; tâm tư,
nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Đồng thời tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và vấn đề rèn
luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên trong từng chi bộ về các nhiệm vụ liên quan
đến từng lĩnh vực phụ trách.
3/ Công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên được thực hiện
định kỳ và có đổi mới về phương pháp, đảm bảo 100% đảng viên và cán bộ quản
lý được nghiên cứu học tập các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước thông qua cac đợt học tập các nghị quyết Trung ương.
4/ Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo dục lý luận chính trị, chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng được quan tâm đẩy mạnh. Đảng
ủy đã cử cán bộ đi học các lớp về lý luận chính trị, cử quần chúng tích cự học lớp
nhận thức về Đảng, bồi dưỡng đảng viên mới.
Bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định
như:
1/ Phương pháp, cách thức triển khai chưa thực sự phù hợp nhất với từng đối
tương, chưa cụ thể, thường xuyên
2/ Vai trò của chi bộ, của một số cán bộ, đảng viên, công nhân viên nhất là
người đứng đầu các tổ chức chưa phát huy hết trách nhiệm của mình trong việc
triển khai, giám sát, đôn đốc, đánh giá.
3/ Một số cán bộ, đảng viên, công nhân viên chưa thực sự đề cao việc học
tập lý luận chính trị, chưa đáp ứng tốt yêu cầu mới của cách mạng, khó khăn trong
thực hiện nhiệm vụ.
4/ Không ít cán bộ trẻ, được đào tạo nhưng chưa có kinh nghiệm thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận chỉ dừng lại trên cơ sở lý thuyết.
5/ Chưa thực sự phối hợp tốt giữa các tổ chức đoàn thể trong việc triển khai.
82

2. Đối với sinh viên.


Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã chỉ đạo Phòng Công tác sinh viên
phối hợp với các phòng, khoa khác thực hiện quản lý, giáo dục sinh viên trong đó
có công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được thể hiện qua rất nhiều các hoạt động
trong Nhà trường, đặc biệt thông qua tuần sinh hoạt chính trị đầu năm học, đầu
khóa học, thông qua các môn học Lý luận chính trị trong chương trình đào tạo.
Mục đích nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của sinh viên trong việc
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Bên cạnh đó, giáo dục sinh viên hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm
công dân thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, các quy
chế, quy định về đào tạo, khen thưởng, kỷ luật, phương hướng nhiệm vụ năm học,
hiểu được tình hình chính trị, kinh tế, xã hội; chủ trương, chính sách đổi mới giáo
dục đào tạo đáp ứng yêu cầu đào tạo, rèn luyện và nhu cầu của xã hội, như:
1/ Quán triệt và triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của
Hội nghị Trung ương tám Khoa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo.
2/ Triển khai chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa
XII về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực
hiện các chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh năm học 2018-2019.
3/ Xây dựng ý thức tôn trong nhân dân, phát huy dân chủ; Giáo dục chuẩn
mục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên phù hợp với ngành đào tạo gắn với trách
nhiệm của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
4/ Tiếp tục thực hiện đề án: “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo
đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020” trong
ngành giáo dục của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 1501/QĐ-TTg ngày
28/8/2015.
5/ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định cơ bản pháp luật cơ bản
liên quan đến sinh viên như: Quyền con người, quyền công dân, Luật giáo dục đại
học năm 2012.
6/ Tuyên truyền các nội dung về chủ quyền biển đảo và chiến lược của Việt
Nam, hình thức và phương pháp đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo. Phổ biến
các quy chế, quy định của Nhà trường.
Trên cơ sở đó, sinh viên Nhà trường đã từng bước ý thức được trách nhiệm
của mình trong học tập, nghiên cứu và rèn luyện trong môi trường đào tạo.
Kính thưa hội nghị!
Bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng còn một số khó khăn, tồn tại cụ
thể như:
1/ Lưu lượng sinh viên lớn với nhiều ngành, hệ học khác nhau, với phòng
học tập trung có hạn, nên việc tổ chức sinh viên học chính trị đầu khóa, đầu năm
gặp nhiều khó khăn và việc bố trí thời gian cho một nội dụng đối với mỗi lớp học
còn ít.
83

2/ Do đào tạo theo tín chỉ với thời gian lên lớp rải đều trong chương trình
học, nên khó khăn trong việc triển khai công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
3/ Vai trò của các tổ chức đoàn thể, đảng viên, giảng viên trong việc giáo
dục sinh viên đôi khi chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, các thầy cô trực tiếp
giảng dạy các môn Lý luận chính trị chưa gắn kết giữa lý luận và thực tiễn.
4/ Một bộ phận không nhỏ sinh viên còn chưa ý thức trong việc học tập,
nghiên cứu các môn lý luận chính trị, cho đây là môn lý thuyết, trừu tượng, khó
học.
II. Phương hướng, giải pháp năm 2019.
1. Phương hướng, giải pháp chung.
Một là, Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt sâu sắc mục đích, yêu cầu, xây
dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện tốt công tác học tập Nghị quyết Hội nghị Trung
ương và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Hai là, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá thường xuyên kết quả
nhận thức về chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên, công nhân viên và sinh
viên.
Ba là, nâng cao vai trò và có sự phối hợp của cấp ủy, đơn vị, đoàn thể trong
nhà trường trong việc triển khai công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên, công nhân viên và sinh viên trong trường.
2. Phương hướng, giải pháp cụ thể.
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên, công nhân viên và sinh viên nhằm nâng cao ý thức trong công
tác, học tập, rèn luyện và trưởng thành.
Thứ hai, cần đổi mới nội dung, phương thức công tác tuyên truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực và hiệu quả; giải quyết kịp thời
các vấn đề mới nảy sinh, định hướng tư tưởng, tuyên truyền và xử lý các biểu hiện
tiêu cực.
Thứ ba, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh để vận động, khuyến khích học tập, lao động tích cực, sáng tạo.
Thứ tư, xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để sinh viên phấn đấu thông qua
việc học tập, rèn luyện và tham gia các phong trào Đoàn, Hội./..
Như vậy, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là nội dung quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng. Việc nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị Nhà trường trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt
động thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thay cho lời kết, báo cáo tham luận tóm lược
bằng 4 từ: “XÂY – GIÁO – QUÁN – CHỐNG” mang tính chung, rộng và khái
quát về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.

BÁO CÁO THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KINH TẾ - KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ XXX
84

LÀM TỐT CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG LÀ


TIỀN ĐỀ
THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN
NHÀ TRƯỜNG
Công tác chính trị tư tưởng là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của
Đảng nhằm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển Cương lĩnh, đường
lối, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ; truyền bá Cương lĩnh, đường lối,
chính sách, xây dựng thế giới quan khoa học, bồi dưỡng lý tưởng, lẽ sống, xây
dựng niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, thúc đẩy con người hành động tích cực
và sáng tạo để thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng; xây dựng đời sống
văn hóa, con người mới; xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo
đức.
Đánh giá về tầm quan trọng của công tác tư tưởng, văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Công tác tư tưởng đã góp phần
nâng cao nhận thức, tính tích cực của cán bộ, đảng viên, nâng cao lòng tin của
nhân dân vào đường lối đổi mới, tạo sự nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong
xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về công tác
tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới đã xác định rõ: “Công tác tư tưởng là
nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là cấp ủy các cấp và đồng
chí bí thư cấp ủy”. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Lãnh đạo
quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ
thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng
thì không làm được việc”.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được thể hiện ở nhiều nội dung như:
Tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, nghị quyết của Đảng cho cán bộ, đảng viên và công nhân viên. Tuyên
truyền, giáo dục nhiệm vụ chính trị của tổ chức, cơ quan, đơn vị theo đúng chức
năng, nhiệm vụ được quy định. Cập nhật kiến thức mới, nâng cao trình độ hiểu
biết, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên, viên chức, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý….
Xác định được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đảng ủy trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật
Công nghiệp thường xuyên quán triệt, chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong cán bộ, đảng viên, giảng viên và
sinh viên, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu phát triển Nhà trường theo
cơ chế tự chủ toàn diện trong giai đoạn mới. Nhiệm kỳ 2015 - 2020 Đảng ủy
Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp đã thực hiện tốt công tác giáo dục
chính trị tư tưởng và đã đạt được những kết quả như sau:
1. Đối với cán bộ, đảng viên, công nhân viên.
1/ Đảng ủy Trường đã chỉ đạo quán triệt, triển khai đến từng cán bộ, đảng
viên nghiêm túc học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ nhận thức về Chủ nghĩa
85

Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, cụ thể:
Nghị quyết TƯ 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nghị quyết TƯ 5 (khóa XII) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN
Nghị quyết TƯ 6 (khóa XII) về đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị quyết TƯ 7 (khóa XII): (NQ 26, 27, 28) về công tác cán bộ, tiền lương
và bảo hiểm xã hội.
Nghị quyết TƯ 8 (khóa XII) về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà
nước năm 2018; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước
năm 2019.
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Việc triển
khai, học tập và làm theo Bác trở thành việc làm thường xuyên. Đây là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức Đảng
hàng năm và cả nhiệm kỳ.
2/ Làm tốt công tác nắm bắt tư tưởng, định hướng dư luận xã hội; tâm tư,
nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Đồng thời tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và vấn đề rèn
luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên trong từng chi bộ về các nhiệm vụ liên quan
đến từng lĩnh vực phụ trách.
3/ Công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên được thực hiện
định kỳ và có đổi mới về phương pháp, đảm bảo 100% đảng viên và cán bộ quản
lý được nghiên cứu học tập các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước thông qua cac đợt học tập các nghị quyết Trung ương.
4/ Đặc biệt công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo dục lý luận chính trị, chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng được quan tâm đẩy mạnh.
Đảng ủy đã cử cán bộ đi học các lớp về lý luận chính trị, cử quần chúng tích cự
học lớp nhận thức về Đảng, bồi dưỡng và kết nạp đảng viên mới và đã tổ chức
thành công lớp cảm tình Đảng cho quần chúng tích cực là cán bộ, giảng viên, sinh
viên nhà trường.
Bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn tồn tại một số hạn chế nhất định
như:
1/ Một số cán bộ, đảng viên, viên chức chưa thực sự đề cao việc học tập lý
luận chính trị, chưa đáp ứng tốt yêu cầu mới của cách mạng, khó khăn trong thực
hiện nhiệm vụ.
2/ Một bộ phận cán bộ trẻ, được đào tạo nhưng chưa có kinh nghiệm thực
tiễn. Việc nghiên cứu lý luận chỉ dừng lại trên cơ sở lý thuyết.
2. Đối với sinh viên.
86

Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã chỉ đạo Phòng Công tác sinh viên
phối hợp với các phòng, khoa khác thực hiện quản lý, giáo dục sinh viên trong đó
có công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được thể hiện qua rất nhiều các hoạt động
trong Nhà trường, đặc biệt thông qua tuần sinh hoạt chính trị đầu năm học, đầu
khóa học, thông qua các môn học Lý luận chính trị trong chương trình đào tạo.
Mục đích nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của sinh viên trong việc
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Bên cạnh đó, giáo dục sinh viên nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ, ý thức trách
nhiệm công dân thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, các
quy chế, quy định về đào tạo, khen thưởng, kỷ luật, phương hướng nhiệm vụ năm
học, hiểu được tình hình chính trị, kinh tế, xã hội; chủ trương, chính sách đổi mới
giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu đào tạo, rèn luyện và nhu cầu của xã hội, như:
1/ Quán triệt và triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của
Hội nghị Trung ương tám Khoa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo.
2/ Triển khai chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa
XII về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực
hiện các chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh năm học 2019-2020.
3/ Xây dựng ý thức tôn trong nhân dân, phát huy dân chủ; Giáo dục chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên phù hợp với ngành đào tạo gắn với trách
nhiệm của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
4/ Tiếp tục thực hiện đề án: “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo
đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020” trong
ngành giáo dục của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 1501/QĐ-TTg ngày
28/8/2015.
5/ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định cơ bản pháp luật cơ bản
liên quan đến sinh viên như: Quyền con người, quyền công dân, Luật Giáo dục….
6/ Tuyên truyền các nội dung về chủ quyền biển đảo và chiến lược của Việt
Nam, hình thức và phương pháp đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo. Phổ biến
các quy chế, quy định của Nhà trường.
Trên cơ sở đó, sinh viên nhà trường đã từng bước ý thức được trách nhiệm
của mình trong học tập, nghiên cứu và rèn luyện trong môi trường đào tạo.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng còn một số khó khăn, tồn tại cụ
thể như:
1/ Số lượng sinh viên lớn với nhiều ngành, hệ học khác nhau nên việc tổ
chức sinh viên học chính trị đầu khóa, đầu năm gặp nhiều hạn chế và việc bố trí
thời gian cho một nội dụng đối với mỗi lớp học còn ít.
2/ Nhiều sinh viên còn chưa ý thức trong việc học tập, nghiên cứu các môn
lý luận chính trị, cho đây là môn lý thuyết, trừu tượng, khó học.
Với những kết quả đạt được như trên là do trong quá trình lãnh đạo
Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường luôn quán triệt những nội dung sau:
87

Thứ nhất, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn kiên định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo, đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách sát hợp với thực tiễn nhà trường
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên, giảng viên và sinh viên nhằm nâng cao ý thức trong công tác,
học tập, rèn luyện và trưởng thành.
Thứ ba, luôn đổi mới nội dung, phương thức công tác tuyên truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực và hiệu quả; giải quyết kịp thời
các vấn đề mới nảy sinh, định hướng tư tưởng, tuyên truyền và xử lý các biểu hiện
tiêu cực.
Thứ tư, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh để vận động, khuyến khích học tập, lao động tích cực, sáng tạo.
Thứ năm, xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để sinh viên phấn đấu thông
qua việc học tập, rèn luyện và tham gia các phong trào Đoàn, Hội...
Thứ sáu, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên phải
làm thường xuyên, liên tục; là trách nhiệm của cả nhà trường trực tiếp là của cấp
ủy đảng, người đứng đầu đơn vị và ý thức tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên.
Thứ bảy, coi trọng ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng
cao nhận thức chính trị, tư tưởng.
Như vậy, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là nội dung quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng. Việc nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng là trách
nhiệm của cả nhà trường trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động thực hiện
nhiệm vụ chính trị. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 Đảng ủy, Ban Giám hiệu trường
Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư
tưởng. Đây là điều kiện tiền đề để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ nhà trường đề
ra.
Câu 16: Trình bày vai trò của nhân dân và tầm quan trọng của công tác
dân vận của tổ chức cơ sở đảng. Để thực hiện tốt công tác dân vận ở tổ chức
cơ sở đảng cần lưu ý những yêu cầu gì? Liên hệ thực thực tế địa phương/cơ
quan nơi đồng chí đang công tác?
1. Khái niệm về dân vận và công tác dân vận
- Theo Hồ Chủ tịch, “dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người
dân, không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành
những công việc nên làm, những công việc mà đoàn thể và Chính phủ đã giao cho”
(bài báo “Dân vận” của Người đăng trên Báo Sự Thật với bút danh X.Y.Z (ngày
15-10-1949).
- Cũng theo Hồ Chí Minh, “công tác dân vận” là công việc của toàn bộ hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành tập hợp vận động, đoàn kết
nhân dân, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc
sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi đường lối cách
mạng của Đảng.
88

2. Vai trò của nhân dân và tầm quan trọng của công tác dân vận của
tổ chức cơ sở đảng
a. Vai trò của nhân dân
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển tinh hoa của triết học phương Đông và
phương Tây cũng như những tư tưởng tiến bộ của ông cha về nhân dân, Người
luôn đánh giá cao vai trò và sức mạnh của nhân dân. Ngay từ xa xưa, ông cha ta đã
quan niệm “đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” (Nguyễn Trãi). Hồ Chí
Minh khẳng định dân là gốc của nước, của cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân và đã được Đảng thể hiện
trong đường lối lãnh đạo của Đảng ở mọi giai đoạn cách mạng. Đảng ta luôn khẳng
định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phải luôn
“lấy dân làm gốc”, “Sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của
sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng”.
Tổng kết 30 năm đổi mới (1986-2016), Đảng ta đã rút ra 5 bài học, trong đó
có bài học “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm,
sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đặt công tác dân vận là
một trong 10 nội dung quan trọng về xây dựng Đảng với phương hướng, mục tiêu:
“tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân”
b. Tầm quan trọng của công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng
Đánh giá cao tầm quan trọng của công tác dân vận, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc
gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Trong hệ thống tổ chức
đảng hiện nay, tổ chức cơ sở đảng là tổ chức của Đảng được lập ra ở đơn vị cơ sở,
luôn gắn liền với nhân dân, cso chức năng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính
trị ở cơ sở, vì vậy công tác dân vận do tổ chức cơ sở đảng thực hiện có vai trò rất
quan trọng cụ thể là:
- Công tác dân vận giúp cho tổ chức cơ sở đảng thực hiện tốt nhất việc triển
khai các chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chủ
trương, nghị quyết của cấp ủy và chính quyền địa phương đi vào đời sống thực
tiễn.
- Công tác dân vận giúp cho nhân dân hiểu rõ mục đích, tổ chức, nhiệm vụ
của Đảng và các hoạt động của tổ chức cơ sở đảng là vì nhân dân và phục vụ nhân
dân.
- Công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng là cơ sở để Đảng tiếp tục xây
dựng và trưởng thành vững vàng hơn trong việc lãnh đạo, chỉ đạo điều hành nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, bởi thông qua hệ thống tổ chức cơ sở đảng, nhân
dân sẽ có cơ sở để đóng góp ý kiến của mình cho các văn bản của Đảng, Nhà nước.
89

3. Để thực hiện tốt công tác dân vận ở cơ sở đảng cần lưu ý yêu cầu:
Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vai trò, vị trí và
khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vâ ̣n. Quan điểm của Đảng về công tác
dân vâ ̣n được thể hiê ̣n xuyên suốt và thống nhất từ Cương lĩnh chính trị, văn kiê ̣n
đại hô ̣i, các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, quy chế, quy định… cùng sự
vâ ̣n dụng phù hợp theo từng thời kỳ cách mạng.
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân
dân; làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan
hệ mâ ̣t thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Hai là, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí
công tác dân vận trong tình hình mới.
Ba là, tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước.
Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về dân vận thành các văn
bản pháp luật để các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và
các tầng lớp nhân dân thực hiện.
Bốn là, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước. Các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân xác định nội dung và lựa chọn
cách thức phát động thi đua sát với thực tế của địa phương, đơn vị với nhiều hình
thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng. Đẩy mạnh phong trào thi
đua “Dân vận khéo” gắn với việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” và các phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội phát động. Các phong trào thi đua cần thiết thực, tiết kiệm, tránh hình thức,
sáo rỗng.
Năm là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng.
Sáu là, quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ làm công tác
dân vâ ̣n các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu quả, vững mạnh.
Bảy là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện
công tác dân vận.
4. Liên hệ thực tiễn của địa phương hoặc cơ quan mình
Phương pháp công tác dân vận( áp dụng để liên hệ trách nhiệm của bản thân
đối với công tác dân vận)
- Thứ nhất là tuyên truyền cho dân, tức là làm cho dân biết, dân hiểu, dân
tin, dân làm theo.
- Thứ hai là gương mẫu trước dân, vì theo Người “một tấm gương sống còn
có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”.
90

Muốn dân vận có kết quả tốt, bên cạnh nội dung và phương pháp tuyên
truyền, vận động thì đòi hỏi đạo đức, năng lực của mỗi đảng viên, cán bộ. Cán bộ,
đảng viên phải làm gương trong sáng, không vun vén cho riêng mình, coi lợi ích
cho dân là lợi ích cho mình, sống được dân yêu thương, quý trọng; phải xứng đáng
tiên phong trong mọi công việc, giải quyết tốt những vấn đề thuộc về trách nhiệm
của người cán bộ, đảng viên. Nhân dân trọng đức, nể tài đảng viên, cán bộ là
nguyên nhân căn bản làm nên thành công của công tác dân vận.
- Thứ ba là quan tâm và giải quyết lợi ích của dân. Công tác dân vận phải
gắn liền với việc quan tâm và giải quyết lợi ích của nhân dân “việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Câu 17. Trình bày nội dung, phương thức công tác dân vận của tổ chức
cơ sở đảng. Để thực hiện tốt công tác dân vận của tổ chức cơ sở Đảng cần lưu
ý yêu cầu gì? Liên hệ thực tiễn của địa phương hoặc cơ quan mình.
Trả lời:
* Nội dung, phương thức công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân về vai trò, vị trí của công tác dân vận trong tình hình mới.
Thứ hai, tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả nguyện vọng chính đáng
của nhân dân, làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện có hiệu quả
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa
phương.
Thứ năm, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng để tập hợp nhân dân, phát huy
sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ sáu, quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ Ban
Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp vững mạnh.
Thứ bảy, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác dân vận.
Phương pháp công tác dân vận có ba việc quan trọng để thực hiện, đến nay
vẫn còn nguyên giá trị, đó là: tuyên truyền cho dân, gương mẫu trước dân và quan
tâm giải quyết lợi ích của dân.
- Thứ nhất là tuyên truyền cho dân, tức là làm cho dân biết, dân hiểu, dân
tin, dân làm theo. Trong quan niệm của mình về dân vận, Hồ Chí Minh yêu cầu
người làm dân vận phải giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu được việc đảng,
đoàn thể vận động họ làm là có lợi cho họ và là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng say
thực hiện. Mục đích của những người cộng sản chân chính vận động nhân dân làm
cách mạng là nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân. Song, để nhân dân có thể một
lòng đi theo Đảng, khi mà những lợi ích đối với họ không những chưa có ngay
trước mắt mà còn phải đương đầu với gian khổ, hy sinh thì cần phải tuyên truyền,
giải thích để nhân dân hiểu, thấy được lợi ích lâu dài của sự hy sinh, gian khổ khi
làm cách mạng mà dấn thân làm theo. Hiểu và thấy được lợi ích chính đáng mà họ
91

được thụ hưởng khi cách mạng thành công thì chắc chắn họ sẽ một lòng theo
Đảng, xả thân vì sự nghiệp của họ, do họ và vì họ. Thực tế cách mạng nước ta hơn
80 năm dưới ngọn cờ của Đảng đã minh chứng, một khi đường lối đúng, dân vận
khéo, cán bộ tận tụy, trong sáng, vì dân vì nước nêu gương thì nhân dân một lòng
một dạ theo Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng.
- Thứ hai là gương mẫu trước dân, vì theo Người “một tấm gương sống còn
có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”. Khi nói về Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công
nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vận động được dân,
nhân dân, cả dân tộc, Đảng phải: vừa là đạo đức, vừa là văn minh; Đảng Cộng sản
phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại; Đảng phải
thực sự đoàn kết nhất trí; được nhân dân thừa nhận.
Muốn dân vận có kết quả tốt, bên cạnh nội dung và phương pháp tuyên
truyền, vận động thì đòi hỏi đạo đức, năng lực của mỗi đảng viên, cán bộ. Cán bộ,
đảng viên phải làm gương trong sáng, không vun vén cho riêng mình, coi lợi ích
cho dân là lợi ích cho mình, sống được dân yêu thương, quý trọng; phải xứng đáng
tiên phong trong mọi công việc, giải quyết tốt những vấn đề thuộc về trách nhiệm
của người cán bộ, đảng viên. Nhân dân trọng đức, nể tài đảng viên, cán bộ là
nguyên nhân căn bản làm nên thành công của công tác dân vận.
- Thứ ba là quan tâm và giải quyết lợi ích của dân. Công tác dân vận phải
gắn liền với việc quan tâm và giải quyết lợi ích của nhân dân “việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
* Để thực hiện tốt công tác dân vận của tổ chức cơ sở Đảng cần lưu ý yêu
cầu gì
Để thực hiện tốt công tác dân vận, các cấp ủy chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận, nhất là Nghị
quyết số 25-NQ/TW đến từng cán bô ̣, đảng viên và đoàn viên, hô ̣i viên của các tổ
chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng; xác định công tác dân vâ ̣n là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị.
Đồng thời, không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo
dục về công tác dân vận, làm cho cán bô ̣, đảng viên và nhân dân nắm vững, tán
đồng mục tiêu, quan điểm và nhiê ̣m vụ của công tác dân vâ ̣n. 
* Liên hệ thực tiễn của địa phương hoặc cơ quan mình dựa vào các tiêu chí
sau:
- Chính quyền cơ sở với việc tuyên truyền, phổ biến và triển khai, tổ chức
thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến
các
tầng lớp nhân dân.
- Triển khai thực hiện quy chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân
- Công tác cải cách hành chính
- Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân ở địa
92

phương hiện nay


- Bồi dưỡng, tập huấn công tác dân vận cho cán bộ của chính quyền
- Mối quan hệ phối hợp giữa chính quyền với MTTQ và các đoàn thể; công
tác tuyên giáo ở xã, phường, thị trấn trong thực hiện công tác dân vận
93

MÔN: NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ ĐOÀN THỂ


NHÂN DÂN Ở CƠ SỞ
Câu 18: Anh/chị hãy trình bày một số giải pháp chủ yếu tăng cường công
tác vận động công nhân ở cơ sở? Theo anh/chị, trong giai đoạn hiện nay, giải pháp
nào là quan trọng nhất? Vì sao?
Câu 19 : Anh/chị hãy trình bày chức năng và nhiệm vụ của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam? Liên hệ thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ của tổ chức Hội nơi
anh/chị sinh sống?
Câu 20. Phân tích hình thức tổ chức và nội dung hoạt động chủ yếu của
công đoàn cơ sở, Liên hệ thực tiễn.

GỢI Ý TRẢ LỜI

Giáo trình “NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC MẶT TRẬN TỔ QUỐC


VÀ ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN Ở CƠ SỞ”

Câu 18: Anh (Chị) hãy trình bày một số giải pháp chủ yếu tăng cường
công tác vận động công nhân ở cơ sở? Theo Anh/Chị, trong giai đoạn hiện
nay, giải pháp nào là quan trọng nhất? Vì sao?

Trả lời:
1. Trang 66-71 trong Giáo trình (nêu tóm tắt)
2. Liên hệ thực tiễn: có thể tham khảo những thách thức của tổ chức công
đoàn khi Việt Nam tham gia CPTPP để chọn một giải pháp mà Anh/Chị cho là
quan trọng nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN LIÊN HỆ


3. Cơ hội, thách thức với công đoàn khi Việt Nam tham gia Hiệp định
CTTPP
  3.1. Những nội dung cơ bản liên quan đến công đoàn trong Hiệp định
CTTPP:
 + Cho phép người lao động làm việc trong một doanh nghiệp được thành
lập tổ chức của NLĐ/Công đoàn ở cấp cơ sở theo sự lựa chọn của họ. Để hoạt
động, tổ chức này hoặc gia nhập vào Tổng Liên đoàn Lao động VN hoặc đăng ký
hoạt động độc lập với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (do Chính phủ quy định)
tùy theo sự lựa chọn của tổ chức đó.
+ Các tổ chức công đoàn - NLĐ này được quyền không kém hơn so với
Công đoàn cơ sở; thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động VN.
94

 + Tổ chức này có thể yêu cầu và nhận sự trợ giúp kỹ thuật và đào tạo từ các
tổ chức hoạt động về lao động đang hoạt động hợp pháp tại VN.
    + Lộ trình: Chậm nhất từ 5 đến 7 năm; kể từ khi CTTPP có hiệu lực; các
tổ chức NLĐ - Công đoàn có thể gia nhập/ hoặc thành lập tổ chức của NLĐ ở cấp
cao hơn như: cấp ngành, cấp vùng lãnh thổ theo đúng trình tự đăng ký được pháp
luật quy định.
* Bên cạnh những nội dung/điểm mới nêu trên; khi Việt Nam tham gia
CTTPP, sẽ có những nội dung mới liên quan đến vấn đề lao động ở Việt Nam, đó
là:
 a) Đình công: Hiện tại Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép đình công trong
các doanh nghiệp; đình công chỉ được thực hiện với tranh chấp lao động tập thể về
lợi ích;
- Trong khi đó CTTPP sẽ cho phép đình công cấp ngành, đình công hưởng
ứng và có thể có đình công “phản đối chính sách kinh tế - xã hội”.
  b) Lao động cưỡng bức: Pháp luật Lao động VN: Khoản 10, Điều 3 Bộ
Luật lao động; định nghĩa Lao động cưỡng bức phù hợp C.29; Cưỡng bức lao động
đã bị cấm hoàn toàn (Khoản 3 Điều 8- Bộ Luật Lao động 2012).
- Trong khí đó CTTPP: Bổ sung "lao động gán nợ" là 1 hình thức của Lao
động cưỡng bức: "việc NLĐ vay hoặc ứng trước tiền lương từ người sử dụng lao
động, bù lại NLĐ cam kết trả bằng sức lao động của mình. Đồng thời CTTPP cũng
khép tội hình sự đối với hành vi khai thác trái phép Lao động cưỡng bức
 c) Công việc không sử dụng lao động nữ (Điều 160 - Bộ Luật Lao động
2012); Pháp luật lao động VN: Tiếp nối thực tiễn bộ Luật lao động cũ, Bộ luật lao
động mới (2012) sửa đổi cũng cấm sử dụng lao động nữ trong một số công việc.
- Trong khi đó CTTPP: xóa bỏ quy định cấm sử dụng lao động nữ trong hầm
mỏ và dưới nước theo đề xuất của Uỷ ban chuyên gia của ILO (theo CƯ số 45).
3.2. Những thách thức với tổ chức công đoàn khi Việt Nam tham gia thực thi
Hiệp định CTTPP.
 + Nếu Hiệp định CTTPP được Việt Nam phê chuẩn và thực thi (theo lộ
trình), thì đây là lần đầu tiên vấn đề “đa công đoàn” được quy định và áp dụng tại
Việt Nam. Khi thực hiện sẽ làm thay đổi cơ bản nhận thức, nguyên tắc tổ chức,
hoạt động, giá trị cốt lõi, truyền thống của tổ chức công đoàn đã được hình thành
và khẳng định trong thực tế hơn 80 năm. Vì vậy, những cam kết trong CTTPP về
lao động, công đoàn là những thách thức hết sức lớn đối với Công đoàn Việt Nam
trong hiện tại và tương lai.
 + Tổ chức công đoàn “độc lập” không phải thực hiện các nghĩa vụ, trách
nhiệm chính trị, mà chỉ tập trung chủ yếu vào việc chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền
lợi của NLĐ. Trong khi đó công đoàn VN đang phải thực hiện nhiệm vụ của tổ
chức chính trị- xã hội… nên nguồn lực bị phân tán, thiếu cơ chế chủ động trong
tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, cán bộ công đoàn; dẫn đến hệ lụy công đoàn dễ ngày
càng xa rời công nhân.
95

+ Nếu tổ chức công đoàn VN không nhanh chóng đổi mới mạnh mẽ về tổ
chức và hoạt động, thì rất dễ xảy ra “dòng chảy” đoàn viên công đoàn - NLĐ từ
các tổ chức công đoàn VN sang tổ chức công đoàn “độc lập” mới được thành lập.
 + Nguồn lực vật chất đảm bảo cho hoạt động của tổ chức công đoàn VN có
nguy cơ giảm sút mạnh, nguồn tài chính của các cấp công đoàn thuộc Tổng Liên
đoàn Lao động VN sẽ bị giảm mạnh (thời kỳ đầu là đoàn phí, sau đó là kinh phí
Công đoàn 2% ).
  + Nếu hệ thống công đoàn VN không có nguồn lực đủ mạnh, để tạo ra
những quyền lợi khác biệt và lớn hơn giữa đoàn viên công đoàn và NLĐ (không
phải là đoàn viên công đoàn), sẽ bất lợi trong việc cạnh tranh, thu hút NLĐ và tổ
chức của NLĐ - công đoàn mới thành lập gia nhập tổ chức của hệ thống công đoàn
VN.
    4. Đề xuất một số giải pháp cơ bản để đổi mới hệ thống/tổ chức Công
đoàn Việt Nam
  Một là, Đổi mới nhận thức và tư duy (từ bộ máy lãnh đạo các cấp công
đoàn VN đến đoàn viên và người lao động trong toàn hệ thống - đây là điều kiện
tiên quyết/bắt buộc). Đồng thời đề nghị Nhà nước ta sớm sửa đổi/bổ sung, ban
hành 02 bộ luật quan trọng có liên quan, đó là Bộ Luật lao động và Luật Công
đoàn (được ban hành trước đây cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới).
  Hai là, Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động. Tập trung thực
hiện những nội dung về các vấn đề về quan hệ lao động, các hoạt động thực hiện
chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, đoàn
viên công đoàn.
        Ba là, Đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn
cấp cơ sở.
        Bốn là, Đổi mới phương thức chỉ đạo của công đoàn cấp trên đối với
công đoàn cơ sở (CĐCS), từ phương thức chỉ đạo hành chính, sang phương thức
trực tiếp và thường xuyên hỗ trợ, giúp đỡ CĐCS. Sắp xếp kiện toàn tổ chức bộ
máy của cơ quan công đoàn cấp trên cơ sở trở lên theo hướng: Sắp xếp, kiện toàn
các Ban nghiệp vụ của cơ quan công đoàn cấp tỉnh, ngành TW, theo hướng tinh
gọn đầu mối. Nghiên cứu sắp xếp, đổi mới tổ chức của công đoàn ngành sao cho
phù hợp, khách quan với tình hình, nhiệm vụ mới.
       Năm là, Đổi mới công tác cán bộ công đoàn toàn hệ thống, đủ sức đáp
ứng yêu cầu hoạt động công đoàn theo tình hình mới (khi Việt Nam tham gia Hiệp
định CTTPP).

*Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về lao động, về
tổ chức công đoàn trong CNVC-LĐ và người sử dụng lao động thuộc các
thành phần kinh tế, nhất là ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước và có vốn đầu
tư nước ngoài được các cấp công đoàn coi trọng.
Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục đã phát huy truyền thống cách mạng
của giai cấp công nhân, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, nắm bắt tình hình tư tưởng,
96

tâm tư, nguyện vọng của CNVC-LĐ từ cơ sở, kịp thời phản ánh, kiến nghị với
Đảng, Nhà nước nghiên cứu, giải quyết, đồng thời làm cho CNVC-LĐ và người sử
dụng lao động thực hiện tốt hơn chính sách, pháp luật và nhận thức rõ hơn về tổ
chức Công đoàn.
Tổng Liên đoàn LĐVN đã phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện
chương trình nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp trong CNVC-LĐ.
Công đoàn đã phối hợp với các ngành chức năng, người sử dụng lao động tổ chức
phong trào tự học, thi thợ giỏi, mở lớp học bổ túc văn hoá, học nghề, học ngoại
ngữ, tin học, thi nâng bậc hàng năm cho hàng trăm ngàn công nhân, lao động. Các
cấp công đoàn đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới nội dung và hình thức tuyên
truyền trong nữ CNVC-LĐ, góp phần nâng cao nhận thức cho hàng triệu nữ
CNVC-LĐ về chính sách, pháp luật, bình đẳng giới, dân số - kế hoạch hoá gia
đình, chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, xây dựng chuẩn mực người phụ nữ Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng gia đình “no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Hoạt động của các tờ báo, tạp chí, bản tin, nhà xuất bản của công đoàn,
chương trình truyền hình và phát thanh “Lao động và Công đoàn”, thực sự là công
cụ hữu hiệu để truyền tải đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đến CNVC-LĐ. Báo chí của công đoàn đã có nhiều cố gắng tổ chức trao đổi kinh
nghiệm hoạt động công đoàn, giải đáp pháp luật; kinh nghiệm giải quyết tranh
chấp lao động… đồng thời phát hiện, điều tra đưa ra công luận nhiều vụ, việc tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, khởi xướng và thực hiện có hiệu quả các chương trình
tình nghĩa, nhân đạo, từ thiện, biểu dương cán bộ, CNVC-LĐ và doanh nhân điển
hình tiên tiến… được Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp, CNVC-LĐ, đoàn viên công
đoàn và dư luận xã hội đánh giá cao.
Các phong trào “Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở” và cuộc vận động
“Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh công nghiệp”, các hoạt động văn hoá, văn
nghệ, thể thao và các cuộc vận động phòng chống HIV/AIDS, các tệ nạn xã hội đã
góp phần vào việc chăm lo đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động, giữ gìn
trật tự an toàn xã hội.
Bằng nhiều hình thức: Hội nghị, hội thảo, lấy ý kiến trực tiếp cán bộ công
đoàn, CNVC-LĐ và điều tra xã hội học… các cấp công đoàn đã chủ động, tích cực
tham gia xây dựng, hướng dẫn thực hiện hàng trăm dự án luật, pháp lệnh, nghị
định, các văn bản về chế độ, chính sách có liên quan trực tiếp đến CNVC-LĐ và
công đoàn.
Công đoàn đã thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm trong các Ban chỉ đạo; tuyên
truyền trong CNVC-LĐ; tham gia sắp xếp lại lao động, giải quyết chế độ cho lao
động dôi dư theo qui định, đảm bảo việc làm và quyền lợi cho hàng trăm ngàn lao
động ở những doanh nghiệp nhà nước phải sắp xếp lại.
Công tác thông tin, tuyên truyền về an toàn, vệ sinh lao động được đổi mới,
đa dạng hoá dưới nhiều hình thức, mỗi năm có hàng trăm ngàn ấn phẩm được phát
hành; hàng trăm cuộc thi tìm hiểu, toạ đàm, chương trình phát thanh, truyền hình,
phóng sự về an toàn, vệ sinh lao động được thực hiện. Đặc biệt, Tuần lễ quốc gia
97

về An toàn vệ sinh lao động - Phòng chống cháy nổ và Tuần lễ môi trường hàng
năm đã trở thành ngày hội của đông đảo người lao động và người sử dụng lao động
trong cả nước. Hoạt động huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động đã có chuyển biến
về nội dung, hình thức, phương pháp; hàng năm, các cấp công đoàn đã chủ trì hoặc
phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức hàng trăm lớp cho hàng nghìn cán bộ
công đoàn, cán bộ quản lý, an toàn vệ sinh viên.
Các phong trào thi đua yêu nước trong CNVC-LĐ có nhiều đổi mới cả nội
dung, hình thức và biện pháp tổ chức thực hiện, có bước phát triển cả diện rộng và
chiều sâu, làm cho thi đua thực sự là đòn bẩy, là động lực tinh thần to lớn, cổ vũ
động viên đông đảo CNVC-LĐ phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, tinh thần
dám nghĩ, dám làm, kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao.
Các phong trào “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”, “Giỏi việc nước, đảm
việc nhà”, “Thi đua phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát
triển nông thôn”, “Xanh - sạch - đẹp, Đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động”, “Trung
thành - Sáng tạo - Tận tụy - Gương mẫu”… thu hút đông đảo CNVC-LĐ tham gia;
tạo thành các phong trào hành động cách mạng sôi nổi, rộng khắp. Từ thực tiễn
phong trào thi đua, xuất hiện nhiều tập thể anh hùng, cá nhân anh hùng, chiến sỹ
thi đua, những điển hình tiên tiến xuất sắc; đã có hàng vạn sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật, công trình, sản phẩm mới được thực hiện, làm lợi hàng ngàn tỷ đồng, mang
lại hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động CNVC-LĐ trong những năm
qua còn một số bất cập, chưa sát với yêu cầu cụ thể, đa dạng của từng loại hình cơ
sở và người lao động và chỉ tập trung triển khai thực hiện ở khu vực cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp nhà nước. Công tác tuyên truyền về chính sách, pháp luật lao
động, về công đoàn cho người lao động và người sử dụng lao động ở khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa thực
sự chủ động, tích cực nên kết quả đạt được rất hạn chế.
Hình thức tuyên truyền, vận động, giáo dục những bài chính trị cơ bản chưa
thật phù hợp với điều kiện sống và làm việc của từng loại đối tượng CNVC-LĐ
nên chưa đến được với số đông công nhân, lao động trực tiếp sản xuất và làm việc
phân tán, lưu động, nhất là ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng của người lao
động chưa kịp thời.
Phong trào thi đua chủ yếu được phát động ở khu vực hành chính sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước và một số nơi chưa thiết thực, còn nặng về hình thức, hiệu
quả còn thấp. Nội dung, hình thức vận động, tổ chức thi đua chưa phù hợp với điều
kiện làm việc của đoàn viên, người lao động ở loại hình doanh nghiệp ngoài nhà
nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Chưa đi sâu tổng kết kinh nghiệm và nhân rộng
điển hình tiên tiến, chưa coi trọng khuyến khích vật chất trong thi đua. Việc bình
xét thi đua khen thưởng ở một số nơi còn nể nang, cảm tình, mang tính hình thức
và bệnh thành tích, ít chú ý đến đối tượng là công nhân, lao động trực tiếp sản
xuất, nên chưa thật sự phát huy tác dụng động viên, phát triển phong trào.
98

Sự phối hợp giữa công đoàn và cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể trong công tác vận động quần chúng chưa được nhịp nhàng chặt
chẽ, mới chỉ dừng lại ở bề nổi, trong khi nhiều doanh nghiệp còn chưa có tổ chức
đảng, Đoàn thanh niên.
Giải pháp để Công đoàn nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động
CNVC-LĐ:
1. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của CNVC-LĐ
- Đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục trong CNVC-LĐ.
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về Đảng, giai cấp công nhân và
tổ chức Công đoàn; về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
chú trọng giáo dục truyền thống địa phương, ngành, doanh nghiệp… góp phần
nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý thức công dân,
tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc,
với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần đấu tranh xây dựng tác phong công nghiệp
và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp… cho CNVC-LĐ, nhất là công nhân,
lao động trẻ, ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, các tỉnh, thành phố lớn. Coi
trọng nội dung tuyên truyền cho người lao động, người sử dụng lao động và các
cấp chính quyền hiểu về pháp luật lao động, về tổ chức công đoàn và chủ trương
công tác của công đoàn.
 
- Thường xuyên nắm tư tưởng, tâm trạng của CNVC-LĐ và những mâu
thuẫn nảy sinh tại cơ sở, kịp thời tổ chức đối thoại, kiến nghị giải quyết và tham
gia giải quyết trên cơ sở các qui định của pháp luật để ngăn ngừa tranh chấp lao
động và đình công ảnh hưởng tới việc làm, đời sống, an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động,
người sử dụng lao động và của nhà nước.
- Làm cho CNVC-LĐ thấy rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” và
tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Nêu cao tinh
thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với các thủ đoạn kích động, gây mất ổn định
chính trị, xã hội.
- Tổ chức có hiệu quả, rộng khắp, thiết thực và có chiều sâu cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong CNVC-LĐ, gắn
chặt với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của cán
bộ, đoàn viên, CNVC-LĐ.
- Tham gia bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo, đào tạo lại công
nhân; chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ; chính sách ưu tiên
đào tạo bồi dưỡng những công nhân ưu tú, công nhân là người dân tộc thiểu số và
nữ công nhân, chính sách phát triển cơ sở dạy nghề. Phát động và tổ chức sâu rộng
trong CNVC-LĐ phong trào học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những
99

ngành công nghiệp mới. Đưa các phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở và
cuộc vận động “Xây dựng nếp sống văn hóa công nghiệp”; tích cực phòng chống
tệ nạn ma tuý, mại dâm và đại dịch HIV/AIDS; tổ chức các hoạt động văn hoá, văn
nghệ, thể thao quần chúng tại cơ sở… đi vào chiều sâu, góp phần nâng cao đời
sống tinh thần trong CNVC-LĐ.
- Nâng cao số lượng và chất lượng hoạt động các phương tiện thông tin đại
chúng của công đoàn, bảo đảm cho các báo, tạp chí, nhà xuất bản, các chương trình
truyền hình, phát thanh “Lao động và công đoàn”, bản tin, các trang thông tin điện
tử của công đoàn… thực sự là tiếng nói của tổ chức công đoàn, là công cụ tuyên
truyền quan trọng và là diễn đàn dân chủ của người lao động.
- Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân và công đoàn trong điều kiện
mới, hướng vào giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra. Qua đó cung cấp cơ sở lý
luận và thực tiễn để đề ra chủ trương, giải pháp tập hợp, vận động công nhân viên
chức, lao động trong tổ chức công đoàn.
- Vận động CNVC-LĐ tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tham gia cải cách hành chính trong hệ
thống tổ chức công đoàn. Chăm lo bồi dưỡng, giới thiệu công nhân ưu tú cho Đảng
xem xét bồi dưỡng kết nạp vào Đảng.
2. Tổ chức các cuộc vận động và phong trào thi đua yêu nước trong
CNVC-LĐ
- Tổ chức sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước trong CNVC-LĐ, trọng
tâm là phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, nhằm mục tiêu: Năng
suất - chất lượng - hiệu quả, đảm bảo cạnh tranh thắng lợi vì sự phát triển bền vững
của đất nước, đồng thời phát triển và nâng cao chất lượng các phong trào “Thi đua
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn”, “Thi
đua học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập và
phát triển”, “Xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động”…
- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” và
phong trào “phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc”. Tổ chức các hoạt động tôn vinh nữ CNVC-LĐ tiêu biểu trong các lĩnh vực
công tác và học tập, sản xuất kinh doanh… Đẩy mạnh các hoạt động xã hội trong
nữ CNVC-LĐ, duy trì Quỹ “vì nữ công nhân, lao động nghèo”. Củng cố, kiện toàn
và nâng cao năng lực hoạt động của Ban Nữ công, Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ
các cấp.
- Chú trọng xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc
tốt trong CNVC-LĐ. Tổ chức các cuộc thi “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi” từ cấp cơ
sở, tôn vinh công nhân, lao động tiêu biểu có thành tích xuất sắc trong lao động,
sản xuất.
- Tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của tổ chức công đoàn theo
hướng thiết thực, hiệu quả và thực chất, chống bệnh thành tích và bệnh hình thức
trong thi đua, hạn chế khen thưởng tràn lan. Tăng cường phối hợp giữa các cấp
100

công đoàn với các ngành, các địa phương trong chỉ đạo thi đua trên các công trình
trọng điểm.
3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công đoàn làm công tác tuyên giáo
trong hệ thống công đoàn
- Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cán bộ công
đoàn cơ sở, để công đoàn thực sự là chỗ dựa vững chắc của công nhân tại doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, có sức hấp dẫn với người lao động và tạo
được sự đồng tình, ủng hộ của người sử dụng lao động.
- Đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công đoàn. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn cơ sở, trọng tâm là
chính sách, pháp luật lao động và kỹ năng tuyên truyên trong hoạt động công đoàn.
- Tăng cường cán bộ công đoàn chuyên trách tuyên giáo ở những doanh
nghiệp có đông CNVC-LĐ. Phát triển số lượng và chất lượng cán bộ công đoàn
chuyên trách ở doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tương ứng với số lượng đoàn viên và công đoàn cơ sở ở khu vực này. Xây
dựng, ban hành cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở và chế độ phụ
cấp trách nhiệm cho cán bộ công đoàn cơ sở.
- Củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu qủa hoạt động của cán bộ tuyên giáo và
Ban Tuyên giáo các cấp công đoàn.

Câu 19: Anh (Chị) hãy trình bày chức năng và nhiệm vụ của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam? Liên hệ thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ của tổ chức
Hội nơi Anh/Chị sinh sống?

Trả lời:
1. Khái niệm Hội liên hiệp phụ nữ
2. Trang 126-127 trong Giáo trình
3. Liên hệ thực tiễn tại địa phương

DỰA THEO BÀI NÀY ĐỂ VIẾT PHẦN LIÊN HỆ


Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Kiên Lương phát huy vai trò của phụ nữ
trong phong trào thi đua
(09:12 | 19/05/2020)
Những năm qua, các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) huyện Kiên Lương
đã vận động cán bộ, hội viên phụ nữ (HVPN) thực hiện có hiệu quả nhiều phong
trào thi đua (PTTĐ), phát huy vai trò, sức sáng tạo của phụ nữ góp phần thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
 Để nâng cao chất lượng, hiệu quả các PTTĐ, Hội LHPN huyện đã tổ chức
ký kết giao ước thi đua đến 100% cơ sở hội. Các PTTĐ được phát động gắn với
ngày lễ, ngày truyền thống của Hội, các sự kiện chính trị của địa phương, đơn vị.
101

Song song đó, hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng thông qua các mô hình,
giao lưu, tham quan học tập kinh nghiệm, câu lạc bộ của phụ nữ, hội thi, hội nghị
biểu dương những tấm gương tiêu biểu... qua đó góp phần thúc đẩy PTTĐ lan toả
sâu rộng. Đồng chí Nguyễn Thị Mỹ Nhung - Huyện ủy viên, Chủ tịch Hội LHPN
huyện Kiên Lương, cho biết: “5 năm qua các cấp hội trong huyện đã đẩy mạnh
PTTĐ ở địa phương làm dấy lên nhiều phong trào sôi nổi, khơi dậy tinh thần yêu
nước và phát huy truyền thống tốt đẹp của Phụ nữ Việt Nam, phát huy tính năng
động, sáng tạo của phụ nữ trong công tác hội. Đồng thời, các cấp hội tích cực phối
hợp với các ngành, đoàn thể khai thác các nguồn hỗ trợ giúp HVPN có điều kiện
phát triển kinh tế, vươn lên trong cuộc sống. Trong quá trình triển khai PTTĐ, các
cấp hội luôn sáng tạo trong đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, giúp cán
bộ, HVPN phát huy tiềm năng trong tham gia thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của huyện”.
Trong phát triển kinh tế, các cấp hội vận động HVPN tích cực lao động sáng tạo
thông qua các mô hình: “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, “Phụ nữ
làm kinh tế giỏi”, “Giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ”, “Tổ phụ nữ tiết kiệm”, tham gia
các lớp đào tạo nghề, hỗ trợ tư vấn việc làm và tiếp cận các thông tin chính sách về
lao động, việc làm. Bên cạnh đó, các cấp hội còn phối hợp với các ngành liên tổ
chức 66 lớp dạy nghề ngắn hạn cho cho 2.591 lượt HVPN tham gia; giới thiệu việc
làm 4.163 HVPN lao động trong và ngoài tỉnh. Nhằm tiếp tục “Đẩy mạnh việc Học
tập, làm theo, tư tương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”, Hội đã phát động cán
bộ, HVPN biến nhận thức thành hành động, mang lại hiệu quả thiết thực góp phần
nâng cao nhận thức, tạo thành phong trào hoạt động “làm theo” tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, với cách làm cụ thể, sáng tạo, phù hợp với thực tế của từng địa
phương, nhất là trong lĩnh vực thực hành tiết kiệm được hình thành qua các mô
hình như: “Tổ phụ nữ nuôi heo đất”; “Hủ gạo tình thương”; “Tiết kiệm điện sinh
hoạt”; “Tận dụng đất trống trồng rau xanh”; “Tổ phụ nữ góp vốn xoay vòng không
tính lãi giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”… Các mô hình theo gương Bác
mang lại hiệu quả thiết thực, vì vậy đã được HVPN đồng tình hưởng ứng, góp
phần giúp HVPN nâng cao nhận thức, trình độ mọi mặt, tự tin, năng động, linh
hoạt trong lao động, học tập, công tác, phấn đấu vươn lên làm giàu chính đáng, xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Qua 5 năm, các cấp hội đã
thành lập được 483 tổ xoay vòng vốn, tổ tiết kiệm theo gương Bác… có 11.084
thành viên tham gia, với số vốn huy động được trên 6,9 tỷ đồng, từ các phong trào
tiết kiệm trên đã giúp cho 1.927 lượt HVPN vay phát triển kinh tế.
 Để tổ chức triển khai có hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững và công tác từ thiện xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
huyện giai đoạn 2016-2020, Hội LHPN huyện đã kịp thời triển khai kế hoạch phát động đăng ký
PTTĐ “Chung tay vì người nghèo và công tác từ thiện xã hội” và kế hoạch “Hỗ trợ phụ nữ giảm
nghèo bền vững” trên địa bàn huyện. Hàng năm, các cấp hội phối hợp cùng ban giảm nghèo
cùng cấp khảo sát hộ nghèo, cận nghèo theo tiêu chí mới, phát động mỗi chi hội đăng ký giúp 2
hộ nghèo, cận nghèo do phụ nữ làm chủ hộ thoát nghèo, qua phát động đến nay đã đăng ký giúp
389 hộ, trong đó đã có 121 HVPN được thoát nghèo.

Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh: Nhiều hoạt động hướng về cơ sở


102

Năm 2019, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh Khánh Hòa tổ chức
nhiều hoạt động, đưa phong trào hội hướng về cơ sở. Qua đó, góp phần
chăm lo tốt đời sống hội viên, xây dựng tổ chức hội ngày càng vững mạnh.

Hướng về phụ nữ và trẻ em

Theo Hội LHPN tỉnh, hưởng ứng chủ đề năm 2019, Hội LHPN tỉnh đã chọn
công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại phụ nữ, trẻ em là nội dung thực hiện
xuyên suốt trong năm. Từ đó, các cấp hội đã tổ chức nhiều phong trào thi đua
với nhiều hoạt động phù hợp với từng địa phương.
 
Đơn cử như Hội LHPN huyện Vạn Ninh tổ chức nhiều hoạt động như: “An toàn
cho phụ nữ và trẻ em”, “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”, “Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế” với nhiều mô hình thiết thực. Qua đó, hội đã tổ chức tuyên
truyền các kiến thức liên quan đến kỹ năng phòng, chống bạo lực, xâm hại phụ
nữ và trẻ em; an toàn thực phẩm; chung tay bảo vệ, giúp đỡ cho phụ nữ và trẻ
em nghèo vùng biển; phòng chống đuối nước, bạo lực học đường, giảm thiểu
mất cân bằng giới tính khi sinh… Bên cạnh đó, hội đã phối hợp các đơn vị liên
quan vận động và tặng 18 suất quà, 4 chiếc xe đạp cho 22 trẻ em nghèo và 37
suất quà cho phụ nữ nghèo; nhận đỡ đầu 2 trẻ em thuộc diện hộ nghèo vượt khó
học giỏi; nuôi heo đất tiết kiệm tặng 7 suất học bổng cho trẻ em nghèo; tặng 2
tấm lưới cho phụ nữ nghèo vùng biển, 26 phương tiện sinh kế cho phụ nữ khó
khăn; giới thiệu việc làm cho 1.468 phụ nữ…

Mặt khác, nhiều mô hình quan tâm đến phụ nữ và trẻ em cũng ra đời như: “Phụ
nữ Vạn Ninh với công tác an toàn giao thông”, “Phụ nữ Khánh Sơn chung tay vì
an toàn cho phụ nữ và trẻ em”, “Phụ nữ Ninh Hòa hướng về phụ nữ và trẻ em
vùng khó khăn”. Ngoài ra, mỗi cơ sở hội xã, phường đều có 1 mô hình phù
hợp… Qua đó, thu hút đông đảo các chị em, phụ nữ tham gia, góp phần nâng
cao nhận thức, cũng như giúp đỡ kịp thời nhiều phụ nữ và trẻ em khó khăn.

Phong phú hoạt động

Năm 2019, ngoài thực hiện xuyên suốt chủ đề năm “An toàn cho phụ nữ và trẻ
em”, Hội LHPN tỉnh còn tổ chức nhiều hoạt động phong phú ở cơ sở. Trong đó,
nổi bật là triển khai chương trình “Chống rác thải nhựa”, thực hiện sâu rộng
cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch” gắn với chương trình xây
dựng nông thôn mới, đẩy mạnh đồng hành cùng phụ nữ biên cương, kêu gọi
thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, xây dựng gia đình hạnh phúc…
103

Kết quả, toàn hội đã phát triển được 3.233 hội viên mới và 100% cơ sở hội có tỷ
lệ hội viên tham gia sinh hoạt bình quân đạt 63%; duy trì và nhân rộng được 89
tổ và mô hình về phụ nữ bảo vệ môi trường; 137 tổ phụ nữ tiết kiệm mua bảo
hiểm y tế cho phụ nữ nghèo; 34 chi hội “5 không 3 sạch”; 8 câu lạc bộ “Giáo
dục cha mẹ nuôi dạy con tốt”; tặng 5 “Mái ấm biên cương” và 132 phương tiện
sinh kế cho phụ nữ nghèo và hàng trăm suất học bổng cho trẻ em khó khăn; tạo
điều kiện cho 77.742 hội viên vay vốn phát triển kinh tế; duy trì 286 chi hội giúp
đỡ cho 319 chi hội…

Đồng chí Lê Thị Mai Liên - Phó Chủ tịch Hội LHPN tỉnh cho biết, năm 2019,
hội đã chỉ đạo các cấp hội triển khai các phong trào hội ở cơ sở có trọng tâm,
trọng điểm và phù hợp với đặc thù của từng địa phương, trong đó đặt lợi ích của
hội viên lên hàng đầu. Hội đã tổ chức được nhiều đợt thi đua cao điểm, đạt kết
quả rõ nét. Năm 2020, hội sẽ tiếp tục triển khai chủ đề “An toàn cho phụ nữ và
trẻ em”. Trong phong trào thi đua sẽ chú trọng giáo dục phẩm chất đạo đức
người phụ nữ Việt Nam, xây dựng gia đình “5 không 3 sạch”, lao động sáng tạo,
xây dựng gia đình hạnh phúc, hướng về phụ nữ biên cương, phòng chống rác
thải nhựa. Trong đó, hội phụ nữ cơ sở tập trung tổ chức các hoạt động có điểm
nhấn, tạo được điểm sáng cho phong trào phụ nữ tại địa phương.

Đồng chí Nguyễn Thị Mỹ Nhung (bìa phải) - Huyện ủy viên, Chủ tịch Hội
Liên hiệp Phụ nữ huyện Kiên Lương nhận Bằng khen của Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam vì có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào thi đua
và nhiệm vụ công tác hội năm 2019
 
 Công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện và xây
dựng gia đình hạnh phúc là một trong những chương trình quan trọng mà các cấp
hội đặc biệt quan tâm. Để thực hiện hiệu quả chương trình này, các cấp hội tập
trung đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức trong cán bộ, HVPN về ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc hỗ trợ phụ nữ học tập, nâng cao kiến thức, nghiệp vụ, kỹ
năng toàn diện để đáp ứng yêu cầu nhiê ̣m vụ trong thời kỳ mới. Hội LHPN xã
Bình An là một trong những điển hình thực hiện tốt các PTTĐ của hội. Hội LHPN
xã Bình An có 7 chi hội với 55 tổ phụ nữ, với 1.984 hội viên. Toàn xã có 44 hộ
nghèo, trong đó có 23 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ, đời sống của một số còn gặp
khó khăn. Từ thực tế trên Hội đã tổ chức nhiều hoạt động giúp HVPN nâng cao đời
sống, Hội phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội huyện tín chấp cho 762 hộ
vay số tiền trên 18,6 tỷ đồng; phối hợp Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông
thôn giải ngân cho 6 hộ vay chương trình khởi nghiệp với số tiền 120 triệu đồng.
“Ngoài việc tranh thủ các nguồn vốn vay từ các ngân hàng, hội còn vận động hội
viên thực hành tiết kiệm giúp đỡ lẫn nhau vươn lên trong cuộc sống. Bên cạnh đó,
Hội còn xây dựng 5 mô hình “Hủ gạo tình thương”, hỗ trợ gạo hàng tháng, hỗ trợ
đột xuất cho hộ nghèo, khó khăn, người già neo đơn, bệnh tật. Qua những phong
104

trào này đã giúp phần nào khó khăn cho HVPN, giúp họ vươn lên trong cuộc
sống”, đồng chí Lê Thị Dung - Chủ tịch Hội LHPN xã Bình An, cho biết./.
Câu 20. Phân tích hình thức tổ chức và nội dung hoạt động chủ yếu của
công đoàn cơ sở, Liên hệ thực tiễn.
Trả lời
* Hình thức tổ chức
- Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn không có tổ công đoàn, tổ nghiệp đoàn.
- Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn có tổ công đoàn, tổ nghiệp đoàn.
- Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn có công đoàn bộ phận, nghiệp đoàn bộ
phận.
- Công đoàn cơ sở có công đoàn cơ sở thành viên.
- Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn không đủ điều kiện tồn tại và hoạt động,
công đoàn cấp trên trực tiếp xem xét quyết định giải thể.
Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định:
- Công đoàn cơ sở được thành lập ở các hợp tác xã sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, các đơn vị sự nghiệp, các cơ quan nhà nước, cơ quan
của tổ chức chính trị, chính trị xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp, có 5 đoàn
viên trở lên và được công đoàn cấp trên quyết định thành lập.
- Nghiệp đoàn là tổ chức của công đoàn, tập hợp những người lao động tự
do hợp pháp cùng ngành nghề, được thành lập theo địa bàn hoặc thành lập theo
đơn vị lao động, có 10 thành viên trở lên và được công đoàn cấp trên quyết định
thành lập.
* Nội dung hoạt động chủ yếu của công đoàn cơ sở
Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và nhiệm vụ của tổ chức công đoàn. Vận động đoàn viên và người lao
động nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, pháp luật, khoa học kỹ thuật, chuyên
môn, nghiệp vụ.
Phối hợp với thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan, đơn vị tổ chức thực
hiện quy chế dân chủ, tổ chức hội nghị cán bộ, công chức cơ quan, đơn vị; cử đại
diện tham gia các hội đồng xét và giải quyết các quyền lợi của đoàn viên và người
lao động. Hướng dẫn, giúp đỡ người lao động giao kết hợp đồng lao động, hợp
đồng làm việc. Cùng với thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan, đơn vị cải thiện
điều kiện làm việc, chăm lo đời sống của đoàn viên, người lao động, tổ chức các
hoạt động văn hóa, thể thao, hoạt động xã hội trong đoàn viên, người lao động.
Kiểm tra, giám sát việc thi hành các chế độ, chính sách, pháp luật, bảo đảm
việc thực hiện quyền lợi của đoàn viên và người lao động. Đấu tranh ngăn chặn
tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Phát hiện và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết các tranh chấp lao
động và thực hiện các quyền của công đoàn cơ sở theo quy định của pháp luật.
Tổ chức vận động đoàn viên, người lao động trong cơ quan, đơn vị thi đua
yêu nước, thực
105

hiện nghĩa vụ của cán bộ, công chức, viên chức, lao động tham gia quản lý
cơ quan, đơn vị, cải tiến lề lối làm việc và thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác.
Phát triển, quản lý đoàn viên; xây dựng công đoàn cơ sở vừng mạnh và tham
gia xây dựng Đảng.
Quản lý tài chính, tài sản của công đoàn theo quy định của pháp luật và tổ
chức Công đoàn.
* Liên hệ thực tiễn:
Nội dung hoạt động của Ban Chấp hành công đoàn cơ sở
- Ban Chấp hành là cơ quan lãnh đạo của công đoàn cơ sở, điều hành công
việc giữa hai nhiệm kỳ Đại hội công đoàn cơ sở.
- Nội dung hoạt động của Ban Chấp hành bao gồm:
+ Tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội công đoàn cơ sở.
+ Tổ chức thực hiện Nghị quyết của công đoàn cấp trên, Nghị quyết của
Đảng ủy cơ sở.
+ Vận động đoàn viên và lao động thực hiện tốt phong trào thi đua và các
cuộc vận động của ngành, địa phương và đơn vị.
- Thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối
với đoàn viên và lao động, tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện.
- Xây dựng và thực hiện quy chế hoạt động công đoàn cơ sở, tham gia xây
dựng quy chế quản lý của cơ quan, đơn vị.
- Chỉ đạo hoạt động của công đoàn bộ phận và tổ công đoàn nhằm xây dựng
công đoàn cơ sở vững mạnh.
- Quy định trách niệm cho mỗi ủy viên Ban Chấp hành công đoàn cơ sở phụ
trách các ban chuyên đề hoặc làm chủ tịch công đoàn bộ phận và tổ trưởng công
đoàn.
- Thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo và chế độ kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở.
- Tổ chức thực hiện tốt nội dung xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh.

You might also like