You are on page 1of 66

ÔN TẬP LS RỒI

CHƯƠNG I
Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử thế giới và trong nước trước khi Đảng ra đời đã
tác động ra sao đến việc thành lập Đảng. Tại sao ta lại nói rằng sự ra đời
của Đảng là sự kiện quan trọng nó kết thúc cuộc khủng hoảng đường lối
cứu nước và Việt Nam trở thành bộ phận cách mạng của thế giới.
Trong nước Mâu thuẫn giữa XHCN Và TBCN khiến cho Mâu thuẫn của dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt.
Thế giới Cuộc cách mạng tháng 10 Nga nổ ra và giành chiến thắng từ đó tác
động mạnh mé tới phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động dẫn tới sự ra đời hàng loạt của các Đảng cộng sản.
Sự ra đời của Đảng là sự kiện quan trọng bởi vì
Trước 1930 đã có rất nhiều phong trào diễn ra nhưng đều thất bại do khủng
hoảng đường lối cách mạng. Từ đó đặt ra yêu cầu phải có Đảng là giai cấp lãnh
đạo cách mạng.
1929 hội nghị hợp nhất 3 Đảng diễn ra thành lập thành 1 Đảng chính là Đảng
Cộng Sản VN.
Sự kiện Đảng Cộng Sản VN ra đời là bước ngoặc vĩ đại cho CM VN lúc bấy
giờ, chứng minh được rằng Đảng ta đã đủ mạnh để lãnh đạo toàn dân kháng
chiến. Với cương lĩnh chính trị đúng đắn Đảng ta đã giải quyết triệt để được
khủng hoảng về đường lối cách mạng và lãnh đạo nhân dân tới tự do dân chủ.
Câu 2: Phân tích cương lĩnh đầu tiên của Đảng và chứng minh rằng cương lĩnh
này thể hiện sự sáng tạo.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng là sự hợp nhất giữa chính cương vắn tắt
và sách lược vắn tắt
Thứ nhất là về phương hướng chiến lược
Gồm 2 phương hướng là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng
Giải quyết 2 mâu thuẫn thứ nhất là về giai cấp thứ hai là về dân tộc
Nhiệm vụ
Chính trị:
Đánh đổ thực dân pháp và tay sai thành lập chính phủ công nông binh, xây dựng
quân đội
Kinh tế:
Thủ tiêu toàn bộ thứ quốc cấm, tịch thu sản lượng lớn và ruộng đất của đế quốc
thực dân, bỏ sưu thuế cho dân nghèo, mở rộng công nông binh, thực hiện luật
này làm 8h.
Văn hóa-xh: tự do tổ chức, bình đẳng nam nữ, giáo dục theo công nông hóa
Về lực lượng: Thu phục lượng lớn dân cày
Kéo tiểu tư sản, thanh niên, tri thức, tân việt về phe vô sản
Lợi dụng tiểu địa chủ, tư bản..
Tiêu diệt kẻ phản bội
Về lãnh đạo
Vô sản lãnh đạo còn Đảng là tiên phong
Thu phục lượng lớn dân cày, Đảng phải lãnh đạo được dân chúng
Liên lạc cẩn thận không dẫn tới đàm phán
Về mối quan hệ với quốc tê
CMVN là bộ phận của CMQT
Lien lạc với các dân tộc bị áp bức, giai cấp vô sản nhất là giai cấp vô sản Pháp
Ý nghĩa
Cương lĩnh chính trị đã nêu rõ được hoàn cảnh của nước ra lúc bây giờ, thấm
nhuần tư tưởng dân tộc và đề cao quan điểm giai cấp.
Cương lĩnh mở ra con đường phương hướng mới cho dân tộc.
Câu 3 : So sánh luận cương chính trị do Trần Phú soạn thảo với chính cương
vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo (tại sao lại có điểm khác nhau)
Cương lĩnh chính trị nêu cao vai trò của giai cấp vô sản và đề cao đánh đuổi
thực dân hơn là đánh phong kiến, cương lĩnh chi tiết và nêu rõ chính xác hoàn
cảnh của nước ta
Nhiệm vụ
Dánh đổ phong kiến, chủ nghĩa đế quốc và tay sai
Lực lượng
Nông dân và công nhân
Lãnh đạo
1 là đảng cộng sản
2 là đảng đông dương
Tương quan với quốc tế
Là bộ phận của cách mạng quốc tế.

Khác nhau
Thứ nhất cương linh tập trung đánh đổ đế quốc thực Pháp trước sau đó mới
đánh đổ phong kiến. Đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Lực lượng
chính là nông dân và công nhân bên cạnh đó có tri thức tiểu tư sản và lợi dụng
một số tiểu trung địa chủ tư sản.
Thứ hai Luận cương tập trung đánh đổ phong kiến đề cao việc đánh phong kiến
chiếm ruộng đất. Luận cương thiếu sự tỉ mỉ và chi tiết còn quá sơ sài nóng vội.
CHƯƠNG II THỜI KỲ 45-46)
Câu 1: Khó khăn gì đối với sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương của Đảng để giải
quyết những khó khăn và những thành tựu đạt được trong năm đầu tiên sau cách
mạng tháng 8 (về chính trị , kinh tế, văn hóa xã hội)
Sau cách mạng tháng tám
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung,
phương thức cầm quyền của Đảng.

Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.

Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.

Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.

Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của
Đảng.
Câu 2: Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Pháp thể hiện qua
các văn kiện nào? (có thể có câu hỏi phân tích đường lối kháng chiến chống
Pháp hoặc nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của VN trong kháng chiến chống
Pháp chống Mĩ) nhắc đến nguyên nhân phải phân tích đến đường lối kháng
chiến ( đường lối kháng chiến chống Pháp, đường lối kháng chiến chống Mĩ,
đường lối do đại hội 3 đề ra)

CHƯƠNG III
Câu 1: Bối cảnh VN sau khi thống nhất tình hình trong nước và thế giới có
những khó khăn và thuận lợi gì ?
Câu 2: Phân tích nguyên nhân dẫn đến hậu quả VN là một trong 5 nước nghèo
nhất thế giới hay là phân tích những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng
kinh tế xã hội của VN
Câu 3: Phân tích đường lối của Đảng về công nghiệp hóa và đường lối kinh tế
thời kỳ trước đổi mới qua hai kỳ đại hội 4 và 5
Câu 4: Đại hội 6 hỏi phân tích phương hướng phát triển kinh tế do đại hội toàn
quốc lần thứ 6 đề ra hoặc quan điểm của Đảng về đổi mới nền kinh tế VN
Câu 5: Đại hội 7 hỏi 6 đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội được trình bày
trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Câu 6: Đại hội 8 quan điểm về công nghiệp hóa hiện đại hóa
Câu 7: Đại hội 9 hỏi về sự đánh giá của đại hội về tình hình thế giới và đất
nước trong thế kỷ 20 hoặc hỏi về dự báo của Đảng về xu thế của thế giới ở thế
kỷ 21 và suy nghĩ của các em về dự báo này
Câu 8: Đại hội 11 bổ sung thêm 2 đặc trưng chủ nghĩa xã hội là gì phân tích 2
đặc trưng đó
Câu 9: Đại hội 12, 13 ( chủ yếu hỏi 13) hỏi phân tích quan điểm của Đảng
trong đại hội 13 về vấn đề đào tạo, đổi mới giáo dục.
ÔN TẬP
1. Hoàn cảnh quốc tế và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX?
Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX:
a) Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó.

Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì
tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân
dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho
đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân
tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở các nước thuộc địa.

Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này
gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu
người chết và 20 triệu người tàn phế do chiến tranh), đồng thời cũng đã làm cho
chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng
thêm. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói
chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ.

b) Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin

Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển
mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là
vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong
hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành
chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng
sản. Sự ra đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
(năm 1848) xác định: những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của
toàn bộ phong trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các
nước; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản.
Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà chính đảng của giai cấp công nhân
cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để
thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và xây dựng xã hội mới. Đảng phải
luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách lược của
Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhưng, Đảng phải
đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công
nhân chỉ có thể giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng
lớp nhân dân lao động khác trong xã hội.

c) Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô
Viết dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng
Bônsêvích Nga ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười mở ra một thời
đại mới, "thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Cuộc
cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
nhân dân các nước và là một trong những động lực ra đời của nhiều đảng cộng
sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (Năm 1918), Đảng Cộng
sản Mỹ (năm 1919), Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Mông cổ
(năm 1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (năm 1992)...

Đối với các dân tộc thuộc địa Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm Gương sáng
trong việc giải phóng dân tộc bị áp bức, về ý nghĩa của Cách mạng Tháng
Mười, Nguyễn Ái Quốc nhận định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã
đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. "Cách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông)
làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin".

Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của
Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào
năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa,
mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô
sản.

*Phiên bản ngắn hơn của ý trên ai qua môn thôi thì học cái này:

Chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó:
+ Giữa thế kỉ XIX chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền. Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh -> Yêu
cầu bức thiết về thị trường, dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược của các
quốc gia PK phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ hàng
hóa.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác –Lênin :
+ Giữa thế kỉ XIX phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh,
đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí,
tư tưởng của giai cấp công nhân Chủ nghĩa Mác Lênin ra đời
Cách mạng Tháng Mười Nga và quốc tế cộng sản :
+ Năm 1917, cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi -> cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là 1 những
động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều Đảng cộng sản của các nước trên thế giới.
+ Tháng 3/1919, quốc tế cộng sản được thành lập -> thúc đẩy sự phát triển của
phong trào cộng sản với công nhân quốc tế.

Hoàn cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX:
- Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của Pháp.
Trước khi bị Pháp xâm lược,VN là 1 nước PK với nền nông nghiệp lạc hậu.
Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp xâm lược năm 1858.
+ Chính sách cai trị của thực dân Pháp cuối thế kỉ 19,đầu thế kỉ 20 :làm biến đổi
toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực:
- Chính trị : + Thực hiện chính sách chia để trị, chia nước ta thành Bắc kì,
Trung kì, Nam kì và thực hiện ở mỗi kì 1 chế độ cai trị riêng.
+ Thực hiện chính sách tước đoạt quyền tự do dân chủ về mặt chính trị.
- Kinh tế : Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ thực hiện chính
sách bóc lột về kinh tế : như cướp đoạt ruộng đất đề lập đồn điền, đầu tư
khai thác tài nguyên, XD 1 số cơ sở công nghiệp, XD hệ thống đường
giao thông, bến cảng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp
→ Nền kinh tế VN trở thành 1 nền kt Phát triển què quặt: Mở thêm 1 số ngành
kinh tế mới, thu hồi ruộng đất để XD nhà máy xí nghiệp, bắt VN.
sử dụng hàng hóa Pháp, du nhập phương thức sản xuất ko hoàn toàn, dẫn đến
hậu quả là nền kinh tế VN bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng
lạc hậu.
- Văn hóa: Thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân, dung túng,
duy trì các hủ tục lạc hậu, đầu độc nhân dân ta bằng rượu cần, thuốc
phiên, mở nhà tù nhiều hơn trường học bệnh viện kìm hãm sự du nhập
văn hóa tiên tiến.
- Xã hội: VN từ xã hội phong kiến trở thành XH thuộc địa nửa pk
Tổng kết:
- Chính trị: Đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do, dân chủ
- Kinh tế: Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, kinh tế phát triển què quặt
- VH - XH: + Tính chất xã hội thay đổi, từ 1 xã hội phong kiến trở thành 1
XH thuộc địa nửa PK
+ Xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới ( như công nhân, tư sản,
tiểu tư sản)
+ Xuất hiện thêm mâu thuẫn mới: mâu thuẫn dân tộc: Thực dân Pháp
mâu thuẫn với toàn thể nhân dân Việt Nam ( mâu thuẫn cũ: mâu
thuẫn giai cấp: nhân dân mâu thuẫn với địa chủ)
Sự biến đổi giai cấp:
- Cũ: Nông dân mâu thuẫn địa chủ
Dưới sự tác động của thực dân Pháp:
+ Giai cấp địa chủ phân hóa thành đại địa chủ, trở thành tay sai của Pháp
còn tầng trung, tiểu địa chủ, lực lượng CM vẫn có tinh thần yêu nước
+ Giai cấp nông dân: 1 cổ 2 tròng → Yêu nước, căm thù giặc
Hình thành các giai cấp mới:
+ Công nhân: SP của thực dân Pháp → bị áp bức, bóc lột
+ Tư sản: Ra đời sau công nhân, gồm tư sản mại bản ( làm tay sai cho
Pháp)
+ Tiểu tư sản: gồm HSSV, trí thức.
Thực dân Pháp xâm lược khiến nhân dân lâm vào cảnh bế tắc, lầm than, cần có
những phong trào giải cứu XHVN thời bấy giờ.
→ Như vậy XHVN cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là nước thuộc địa nửa phong
kiến bởi lẽ:
Ở Vn tồn tại song song 2 chế độ: Chế độ phong kiến và chế độ thực dân Pháp.
Thực dân Pháp đã ép triều đình phong kiến nhà Nguyễn phải phục tùng chúng.
Mặc dù VN vẫn có vua Nguyễn đứng đầu nhưng thực chất chỉ là bù nhìn, là tay
sai cho thực dân Pháp. Bọn triều đình phong kiến đã không dám đứng lên bảo
vệ chính quyền, lợi ích dân tộc mà ngược lại “cõng rắn cắn gà nhà”, chia cắt đất
nước cho chúng. Cho nên VN là nhà nước thuộc địa nửa phong kiến là vì thế.
2. Tóm tắt phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Nguyên nhân
thất bại?
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
● Phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ tiêu biểu có các cuộc khởi nghĩa sau:
– Khởi nghĩa Trương Định
– Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực
– Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân
– Khởi nghĩa của cha con Phan Thanh Giảng
● Phong trào Cần Vương (1885-1896)
– Người lãnh đạo là vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết
– Địa bàn hoạt động chủ yếu là Bắc Kỳ và Trung Kỳ
– Tôn Thất Thuyết chủ chiến đánh vào đồn Mang Cá, sau khi bị thất thủ ông
đưa vua Hàm Nghi chạy vào Quảng Trị ra chiếu Cần Vương (3-7-1885) kêu gọi
văn thân sĩ phu yêu nước đứng lên đấu tranh giành độc lập. Hưởng ứng lời kêu
gọi của phong trào Cần Vương rất nhiều các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra để hưởng
ứng phong trào này tiêu biểu có các cuộc khởi nghĩa:
– Khởi nghĩa Hùng Lĩnh diễn ra ở Thanh Hoá
– Khởi nghĩa Ba Đình (1881-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh
đạo diễn ra ở Thanh Hoá
– Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo diễn ra ở
các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình.
– Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh
đạo, diễn ra ở địa bàn Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
- Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885-1913) do Hoàng Hoa Thám và Lương
Văn Nắm lãnh đạo
→ Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt
ra. Do đó các nhà yêu nước tiến bộ chủ trương một khuynh hướng đấu tranh
mới đó là khuynh hướng dân chủ tư sản.
Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các nhà yêu nước của ta được tiếp nhận với
luồng văn hoá dân chủ tư sản. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng tư tưởng của Khang
Hữu Vy và Lương Khả Siêu và cách mạng Minh Trị. Khuynh hướng yêu nước
dân chủ tư sản được chia làm hai giai đoạn:
● Trước chiến tranh thế giới thứ nhất:
+Khuynh hướng bạo động
– Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Phan Bội Châu, ông chủ trương dựa vào
Nhật để đánh Pháp, ông cho rằng nước Nhật là đồng văn, đồng chủng với nước
ta.
– Ông thành lập hội Duy Tân (1904) nhằm tập hợp các thanh niên trí thức đi du
học diễn ra với phong trào Đông Du (1906-1908).
– Sau khi phong trào Đông Du thất bại chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng Tân
Hợi của Trung quốc ông đã thành lập Việt Nam Quang Phục Hội (1912)
+Khuynh hướng bất bạo động: do Phan Tru Chinh đề xuất
Phan Chu Trinh (1872-1926) hiệu Tây Hồ quê ở Quảng Nam
– Ông chủ trương “tư lại khai hoá” ông chủ trương khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh ông đặt chủ trương khôi phục đất nước lên hàng đầu
– Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) Phan Châu Trinh, Lương Văn Can,
Nguyễn Quyền thành lập trường Đông Kinh thu hút thanh niên đến học
– Phong trào Duy Tân (1906-1908) diễn ra ở Trung Kỳ do Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp vận động phát triển nông nghiệp, thương nghiệp thay đổi lối sống
● Sau chiến tranh thế giới thứ nhất:
– Phong trào quốc gia cải lương (1919-1924) của tư sản và địa chủ lớp trên diễn
ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn do tư sản và địa chủ lãnh đạo đòi quyền tự do
kinh tế và chống độc quyền kinh doanh.. Phong trào chống độc quyền thương
cảng Sài Gòn kêu gọi nhân dân tẩy chay hàng hóa của thực dân Pháp. Phong
trào chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ.
– Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn tập hợp
tư sản và địa chủ lớp trên đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo
quần chúng, tuy nhiên khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một
số quyền lợi họ đầu hàng thực dân Pháp.
– Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926) của tiểu tư sản thành thị
và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị Việt Nam nghĩa đoàn, Phục
Việt, Hưng Nam….thành lập nhiều tờ báo như Cường học thư xã, Quan hải
tùng thư, Người nhà quê, Chuông rạn… với nhiều phong trào đấu tranh chính trị
gây tiếng vang khá lớn như:
+ Phong trào đòi thả Phan Bội Châu (1925)
+ Phong trào đòi thả Nguyễn An Ninh (1926)
+ Phong trào để tang Phan Châu Trinh (1926)
+ Ngoài đấu tranh chính trị tiểu tư sản Việt Nam còn vận động văn hoá tiến bộ,
tuyên truyền rộng rãi tư tưởng tự do dân chủ
– Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1927-1930)
+ Gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng (25-12-
1927) lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu, Phó
Đức Chính với nhà xuất bản Nam Đồng thư xã chuyên in ấn các loại báo chí,
tạp chí cách mạng.
+ Tổ chức lỏng lẻo, nhiều thành phần, không có sự bảo mật, hoạt động không
sâu rộng chủ yếu ở Bắc Kỳ, chưa có đường lối chính trị cụ thể rõ ràng. Về tổ
chức, Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ trung ương đến cơ sở nhưng cũng
chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
* Đánh giá:
Tóm lại: Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư
sản cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ cách mạng Việt Nam đứng trước
sự khủng hoảng đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo yêu cầu cần phải có
đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng đúng đắn.
* Nguyên nhân thất bại:
– Khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản không còn phù hợp với thời đại
mới
– Các phong trào này diễn ra lẻ tẻ không thống nhất nên dễ dàng bị thực dân
Pháp đàn áp.
– Các phong trào này quá phụ thuộc vào người lãnh đạo. Sau khi người lãnh đạo
bị bắt hoặc bị hy sinh thì các phong trào này đều bị thất bại.
– Chỉ hô hào cổ động không quan tâm đến vận động quần chúng, không chủ
động xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.

3. Phân tích những điều kiện cần thiết dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam tháng 2-1930 (https://123docz.net/document/6263372-phan-
tich-nhung-dieu-kien-can-thiet-de-dan-den-viec-thanh-lap-dang-
cong-san-viet-nam-va-quy-luat-ra-doi-cua-dang.htm)
● Điều kiện khách quan:
- Chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền tiến hành chiến tranh xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa
(Việt Nam có tài nguyên phong phú,vị trí chiến lược quan trọng nên là tầm
ngắm của CNĐQ). Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và CNĐQ ngày
càng gay gắt,do đó vấn đề chống độc quyền giải phóng dân tộc là một vấn
đề cấp thiết và chỉ có Đảng của giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ
mệnh lịch sử này.
- Năm 1917 Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình
hình thế giới thắng lợi của CMT10 đã biến học thuyết Mác thành hiện
thực, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản đối với phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc, là một tấm gương sáng đối với các quốc gia bị
bóc lột trong đó có Việt Nam, từ đó cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng
của giai cấp vô sản trên toàn thế giới, mở ra một thời đại mới với mô hình
cách mạng mới là mô hình cách mạng vô sản. Chính vì những nguyên nhân
này đòi hỏi Cách mạng Việt Nam phải có Đảng Cộng Sản để lãnh đạo.
- Tháng 3/1919 Quốc Tế Cộng Sản thành lập đã tạo tiền đề và điều kiện cơ
bản thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới(vạch ra cương lĩnh chính
trị,phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trên lập
trường cách mạng vô sản; vạch ra cương lĩnh,đường lối đấu tranh của
CMVN; truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, đào tạo đội ngũ
cán bộ cốt cán của CMVN như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng
Phong ...) tạo tiền đề quan trọng cho quá trình thành lập Đảng cách mạng
của Việt Nam.
● Điều kiện chủ quan:
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu
tranh dân tộc và giai cấp nước ta trong thời đại mới.
- Trước sự đàn áp,bóc lột hết sức dã man và tàn bạo của thực dân Pháp ở
Việt Nam lúc này đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn trong lòng xã hội
Việt Nam. Tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội,đặc biệt là mâu thuẫn
dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh đề tự giải phóng. Độc
lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta:là
nhu cầu bức thiết của dân tộc.Có một số đảng đứng lên lãnh đạo quần
chúng nổi dậy nhưng vẫn chỉ mang tính tự phát.Đặc biệt các đảng này tuy
cùng một chí hướng là đem lại lợi ích cho người dân nhưng lại đi theo
những con đường khác nhau có thể dẫn đến thực dân Pháp lợi dụng mà
gây chia rẽ, dễ triệt phá. Trước tình hình đó, việc thống nhất các đảng
phải thành một chính đảng duy nhất là một yêu cầu cấp bách.
- Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào yêu nước và phong
trào công nhân Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ này ngày càng
phát triển.
- Phong trào yêu nước có vị trí,vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần
trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết
định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta.Chỉ tính riêng trong hơn
80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, phong trào yêu nước của nhân dân ta
dâng lên mạnh mẽ như những lớp sóng cồn nối tiếp nhau. Phong trào yêu
nước liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã
kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp
nhất của dân tộc Việt Nam.
- Phong trào yêu nước của tri thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phong trào yêu nước Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX ghi dấu
ấn đậm nét bởi vai trò của trí thức,tuy số lượng không nhiều nhưng lại là
những"ngòi nổ"cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân
Pháp xâm lược và bọn tay sai,cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn
hưng đất nước.Trong lịch sử Việt Nam một trong những nét nổi bật nhất
là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành viên và những người
lãnh đạo tuyệt đại đa số là tri thức. Với một bầu nhiệt huyết, yêu nước,
thương nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn bán nước, họ rất nhạy cảm
với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận những "luồng
gió mới" về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế giới dội vào Việt
Nam.
- Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của giai cấp công nhân. Phong trào
công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tự nhiên. Muốn trở
thành phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ
nghĩa Mác Lê-nin: vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng thì cần phải có Đảng Cộng
Sản.
- Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong
trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ
XX, nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số. Giai cấp
nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân, họ là xuất
thân trực tiếp tới giai cấp công nhân. Do đó giữa phong trào công nhân và
phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng
4. Qua nghiên cứu về Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam, hãy chứng minh rằng: Nguyễn Ái Quốc không chỉ vận dụng
sáng tạo, mà còn bổ sung phát triển học thuyết Mác - Lênin khi xây
dựng đường lối cách mạng Việt Nam? Câu này ngộp quá

5. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và những hạn chế của Luận
cương chính trị (10-1930). (gtrinh trang 75-78)
(https://covanphaply.vn/hoan-canh-lich-su-noi-dung-va-han-che-cua-
luan-cuong-thang-10-1930/)
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời Luận cương tháng 10/1930:

- Giữa lúc PTCM của quần chúng diễn ra quyết liệt, BCH TW lâm thời
ĐCSVN họp ở Hương Cảng vào tháng 10/1930:
- Hội nghị quyết định đổi tên ĐCSVN thành ĐCSĐD.
- Bầu BCH TW chính thức do đồng chí Trần Phú làm Tổng bí thư.
- Thông qua Luận cương chính trị do Trần Phú khởi thảo.

2. Nội dung cơ bản Luận cương tháng 10/1930:

- Đường lối chiến lược và sách lược của CMĐD: Lúc đầu là CMTS dân
quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ TBCN, tiến thẳng lên con
đường XHCN.
- Nhiệm vụ CM: đánh đổ PK, đánh đổ ĐQ. Hai nhiệm vụ chiến lược này
có quan hệ khăng khít nhau.
- Lực lượng CM: giai cấp vs và nông dân.
- Lãnh đạo CM: giai cấp vs với đội tiên phong của nó là ĐCS.
- Mối quan hệ: CMĐD là một bộ phận của CMTG.
- 3. Hạn chế của Luận cương tháng 10/1930:
- Chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương, không đưa
ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp.
- Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc,
khả năng lôi kéo bộ phận trung, tiểu địa chủ.

6. Hoàn cảnh lịch sử và nội dung cơ bản sự chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược của Đảng qua các Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (11-1939),
lần thứ bảy (11-1940) và lần thứ tám (5-1941).
Ở Đông Dương, đế quốc Pháp điên cuồng chống phá Đảng Cộng sản,
chúng thực hiện chính sách kinh tế thời chiến, đồng thời tiến hành bắt
người, cướp của, khủng bố, tổng động viên… làm cho mâu thuẫn giữa
nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp ngày càng gay gắt.
Trước những chuyển biến của tình hình, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương liên tiếp mở các hội nghị để hoạch định chủ
trương, nhiệm vụ, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt
“nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu”. Chủ trương này của Đảng
tập trung ở 03 hội nghị lần thứ sáu, lần thứ bảy và lần thứ tám của Ban
chấp hành Trung ương.
- Hội nghị BCHTW 6 được tiến hành từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Bà
Điểm, Gia Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư BCHTW
Đảng chủ trì (Tham dự có các đồng chí: Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ
văn Tần) hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược;
Hội nghị quyết định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Đông Dương; Hội nghị quyết định thay đổi một số khẩu hiệu,
chuyển hướng hình thức đấu tranh:
Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ mà chủ trương tịch thu
ruộng đất của đế quốc và tay sai; Không nêu khẩu hiệu thành lập chính
phủ Xô viết công nông binh mà đề ra khẩu hiệu lập Chính phủ Liên bang
cộng hoà dân chủ Đông Dương;
Hội nghị quyết định: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế Đông
Dương, thay thế cho Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 7: Tháng 11/1940 tại Đình Bảng, Bắc Ninh, có Đ/c
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh
tham dự
Hội nghi nhận định cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải
chuẩn bị giành lấy sứ mệnh thiêng liêng cao cả là lãnh đạo cách mạng võ
trang giành chính quyền; Hội nghị xác định kẻ thù chính của cách mạng
Đông Dương lúc này là phát xít Nhật - Pháp; Hội nghị quyết định duy trì
cuộc khởi nghĩa Bắc sơn, xúc tiến xây dựng căn cứ cách mạng; Hội nghị
cử ra BCHTW lâm thời do đồng chí Trường Chinh làm quyền Tổng Bí
thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 8: Tháng 5/1941, tại Pác Bó, Cao Bằng do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì, tham dự có các đồng chí Trường
Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và một số
đồng chí đại biểu của xứ uỷ Bắc kỳ, Trung kỳ, đại biểu của tổ chức Đảng
ta ở nước ngoài;
Hội nghị phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng của nghị quyết
BCHTW6, 7 và khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu, cấp bách của cách mạng Việt Nam;
Hội nghị chủ trương không giữ khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên bang
cộng hoà dân chủ Đông Dương như trước đây mà giải quyết vấn đề dân
tộc trong khuôn khổ từng nước. Hội nghị chỉ rõ: Chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân ta trong
giai đoạn hiện tại. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh)
Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về tư tưởng chỉ đạo chiến
lược như: Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp;
giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến; về sách lược tập hợp lực
lượng cách mạng; tư tưởng giải quyết vấn đề dân tộc theo khuôn khổ mỗi
nước…Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương, bầu đồng chí Trường
Chinh làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; bầu Ban
Thường vụ gồm các đồng chí Trường chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng
Quốc Việt.
Sau 03 hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng khẩn trương chuẩn bị
mọi mặt về chính trị, tư tưởng và tổ chức để khởi nghĩa giành chính
quyền cách mạng tháng 8/1945
http://truongchinhtrihoabinh.edu.vn/hinh-nh-ho-t-d-ng/hoi-nghi-hoi-thao-
kh/458-sa-chuyan-h-ang-cha-ao-chian-l-ac-cach-mang-caa-ang-thai-ka-
1939-1945
Trong đây có 1 số nội dung liên quan
https://loigiaihay.com/hoan-canh-lich-su-va-su-chuyen-huong-chi-dao-
chien-luoc-cua-dang-c125a20115.html

7. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930-
1945.
8. Đặc điểm, tính chất, kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945.( gt 119)
ĐẶC ĐIỂM
Đặc điểm thứ nhất: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là
một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công triệt để.
Đặc điểm thứ hai: Từ một quá trình chuẩn bị lâu dài, liên tục, gian nan
tột bậc, Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công nhanh, gọn, phi thường
trên toàn quốc Việt Nam.
http://www.nxbctqg.org.vn/c-im-ca-cach-mng-thang-tam-phn-
i.html#:~:text=%C4%90%E1%BA%B7c%20%C4%91i%E1%BB%83m
%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t%3A%20C%C3%A1ch,t
%E1%BB%AB%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th%E1%BA%BF%20k
%E1%BB%B7%20XX.

Đặc điểm thứ ba. Cách mạng Việt Nam là cả một quá trình chuẩn bị và
đấu tranh đầy xương máu, nhưng Cách mạng Tháng Tám đã nổ ra và thành
công một cách hòa bình.
Đặc điểm thứ tư: Cách mạng Tháng Tám là sự phát huy đến cao độ tính
sáng tạo, tính chủ động, tự lực, tự cường, truyền thống của quảng đại quần
chúng và của cán hộ địa phương trên khắp các vùng đất nước.

https://sachsuthattphcm.com.vn/dac-diem-cua-cach-mang-thang-tam-
phan-ii/

TÍNH CHẤT
CM Tháng 8 năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của CM dân tộc
dân chủ nhân dân VN”. “Cách mạng tháng 8 là 1 cuộc CM giải phóng dân
tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc VN thoát khỏi ách đế quốc, làm cho
nước VN thành một nước độc lập tự do”
CM tháng 8 là 1 cuộc cm giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng
dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của cnxh VN là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu cầu
khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng
nhân dân.
Lực lượng CM bao gồm toàn thể dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong Mặt
trận Việt Minh với những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động
viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc
tổng khởi nghĩa tháng 8 là sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc.
Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ
trương của Đảng, với hình thức cộng hòa dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc
và những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống trên dải đất VN thảy đều
dc 1 phần tham gia giữ chính quyền ấy”
CM giải phóng dân tộc VN là 1 bộ phận phe dân chủ chống phát xít.
“Nó chống lại phát xít nhật và bọn phong kiến phản động, tay sai của phát xít
nhật, và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân
chủ, tiến bộ trên thế giới chống phát xít xâm lược. CM đã giải quyết 1 số
quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất trong dân tộc; một phần
ruộng đất của đế quốc và VN đã bị tịch thu, địa tô tuyên bố giảm 25%, 1 số
nợ lưu cữu dc xóa bỏ. Cuộc cm thành công, chính quyền nn dân chủ nhân dân
đầu tiên ở VN đã dc thành lập, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến. Các tầng
lớp nhân dân dc hưởng quyền tự do dân chủ.
CM tháng 8 chưa làm CM ruộng đất, chưa thực hiện khẩu hiệu người
cày có ruộng, chưa xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xóa
bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến để cho công nghiệp có điều
kiện phát triển mạnh… quan hệ giữa địa chủ và nông dân nói chung vẫn như
cũ. “ Chính vì thế mà cn tháng 8 có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó
chưa dc đẩy mạnh sâu sắc”.
CM tháng 8 dưới sự lãnh đạo của Đảng còn mang đậm tính nhân văn,
hoàn thành 1 bước cơ bản sự nghiệp giải phóng con người VN khỏi mọi sự áp
bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
Ý NGHĨA
Khẳng định ý nghĩa của CM tháng 8, HCM viết: “Chẳng những giai cấp
lao động và nhân dân VN ta có thể tự hòa, mà giai cấp lao động và những dân
tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong
lịch sử CM của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo CM thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
CM tháng 8 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần
1 thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế hàng nghìn
năm, lập nên nước VN dân chủ cộng hòa, nn đầu tiên của nhân dân ở ĐNÁ,
giải quyết thành công vấn đề cơ bản của 1 cuộc CM XH là vấn đề chính
quyền. Với thắng lợi của CM tháng 8, nhân dân VN từ thân phận nô lệ bước
lên địa vị người làm chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước VN từ 1 nước thuộc địa trở thành 1 quốc gia độc lập chủ quyền,
vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả
của thời đại hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH.
Đảng cộng sản Đông dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành 1
Đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và nhân dân VN có chính quyền và CM làm
công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thắng lợi
của CM tháng 8 mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ
nguyên dân tộc độc lập, tự do và hướng tới chủ nghĩa XH.
CM tháng 8 là 1 cuộc CM giải phóng dân tộc lần đầu tiên giành thắng
lợi ở 1 nước thuộc địa, đã đột phá 1 khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực
dân cũ. Thắng lợi của CM tháng 8 ko chỉ là chiến công của dân tộc VN mà
còn là chiến công chung của dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự
do, vì thế, nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới.
CM tháng 8 là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn,
sáng tạo của Đảng và tư tưởng độc lập, tự do của HCM. Nó chứng tỏ rằng: 1
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có
khả năng thắng lợi ở 1 nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở “chính
quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng tháng 8 đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Leenin về CM giải phóng dân tộc.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CM tháng 8 thành công để lại cho Đảng và nhân dân VN nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược phải gương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ độc lập dân tộc và CM
ruộng đất. Trong cm thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, còn nhiệm vụ CM ruộng đất cần tạm gác lại, thực hiện từng bước thích
hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ 2, về xây dựng lực lượng trên cơ sở khối liên minh công nông, cần
khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực
lượng yêu nước trong mặt trận thống nhất rộng rãi. Việt Minh là 1 điển hình
thành công của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa CM,
đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng nhật, cứu nước, tiến lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của Lê nin trong tác phẩm
tổng kết 1 cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó chính là 1 “lò lửa” khởi
nghĩa dân tộc.”
Thứ 3 về phương pháp CM nắm vững quan điểm bạo lực CM của quần
chúng, ra sức xây dựng lực lượng Ctrị, lực lượng vũ trang, tiến hành chiến
tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận ở
những vùng nông thôn có ĐK tiến lên chớp thời cơ, phát động tổng khởi
nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành chính quyền toàn quốc.
Thứ 4 là xây dựng Đảng: phải xây dựng 1 Đảng CM tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc VN, tuyệt đối trung thành
với lợi ích giai cấp và dân tộc; vận dụng phát triển lý luận Mác- Lênin và tư
tưởng HCM, đề ra đường lối Ctrị đúng đắn; xây dựng 1 đảng vững mạnh về
tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ
cán bộ, đảng viên kiên cường dc tôi luyện trong đấu tranh CM.
Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược TW Đảng, đồng thời phát
huy tính chủ động, sáng tạo của đảng bộ và các địa phương.
Với thắng lợi của CM tháng 8 Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch sử
dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến
hóa của dân tộc. Nước VN dân chủ cộng hòa từ khi ra đời, dù phải trải qua
muôn vàn khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng, với tinh
thần đoàn kết phấn đấu toàn dân, luôn dc xây dựng và củng cố, vững bước
tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa XH. Suốt 15 năm đấu tranh
CM 1930- 1945, đảng đã lãnh đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu
giành độc lập, thiết lập nn dân chủ nhân dân.
9. Vì sao nói sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tình thế cách mạng
nước ta như “ngàn cân treo sợi tóc”?
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay sau khi thành lập đã ở vào tình thế
"ngàn cân treo sợi tóc" vì phải đương đầu với rất nhiều khó khăn :
- Quân đồng minh mượn danh nghĩa giải giáp quân nhật lũ lượt kéo vào
nước ta:
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc: 20 vạn quân Tưởng kéo theo các tổ chức phản động
Việt Quốc, Việt Cách nhằm lật đổ chính quyền cách mạng.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam: hơn 1 vạn quân Anh mở đường cho thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai.
+ Trên đất nước ta lúc đó vẫn còn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
+ Các thế lực phản động trong nước lợi dụng tình hình này nổi dậy chống phá.
- Trong lúc đó, tình hình đất nước gặp rất nhiều khó khăn:
+ Chính quyền cách mạng vừa mới ra đời, chưa được củng cố.
+ Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, thiên tai liên tiếp làm cho nạn đói thêm trầm trọng.
+ Nền tài chính nước nhà trống rỗng.
+Tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng
nề, hơn 90% dân số không biết chữ.
=> Những khó khăn đó đã đặt nước ta vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", yêu
cầu cấp bách cho toàn Đảng, toàn dân ta lúc này là phải có những biện pháp
sáng suốt, kịp thời để chống thù trong giặc ngoài.

10.Đối sách của Đảng và Chính phủ với thực dân Pháp và lực lượng của
Tưởng trong thời gian từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946?
1. Từ ngày 2/9/1945 đến trước ngày 6/3/1946:

- Chủ trương: tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam.

- Sách lược:

+ Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn nhất tề chống Pháp, chặn nguồn tiếp tế của địch,
không hợp tác với chúng,…

+ Hàng vạn thanh niên xung vào các đoàn quân “Nam tiến”, sát cánh cùng nhân
dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ chiến đấu.

+ Nhân dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thường xuyên tổ chức quyên góp tiền,
gạo, quần áo, thuốc men,…

2. Từ ngày 6/3/1946 đến ngày 19/12/1946:

- Chủ trương: hòa với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng, tranh thủ thời gian để
chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

- Sách lược: Ký Hiệp định Sơ bộ (6 - 3 - 1946) và Tạm ước (14 - 9 - 1946),


nhân nhượng của Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa. Tạm ước là giới
hạn cuối cùng của sự nhân nhượng.

Chú ý:

Chủ trương và sách lược của Đảng và Chính phủ đối với thực dân Pháp ở hai
giai đoạn có sự khác biệt tùy thuộc vào động thái của Pháp và Trung Hoa Dân
quốc cũng như tình hình chuẩn bị cụ thể của ta.
11.Đường lối và sự chỉ đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ 1945-1954
Link: https://loigiaihay.com/duong-loi-cua-dang-trong-cuoc-khang-chien-
chong-thuc-dan-phap-xam-luoc-va-can-thiep-my-1945-1954-c125a20085.html

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay
từ đầu cuộc kháng chiến và không ngừng được bổ sung hoàn chỉnh trong quá
trình tiến hành kháng chiến.
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng và phương châm "toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính”. Về cơ bản, đường lối chung của cuộc kháng chiến tập trung một số nội
dung:
- Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ là sự kế thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám
nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất, độc lập hoàn
toàn.
- Tính Chất cách mạng: đây là cuộc cách mạng vì dân, chiến tranh chính
nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài. Do vậy, đó là cuộc
chiến tranh vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa hình nên có tính chất dân
tộc giải phóng và dân chủ mới. Đảng chủ trương liên hiệp và đoàn kết
với các dân tộc khác như (Lào, Campuchia…) các nước yêu chuộng hòa
bình để chống lại các thế lực phản động và ngoại xâm.
- Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
trên cơ sở xác định rõ đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa
đế quốc và thế lực phong kiến(,đã chỉ rõ kẻ thù cụ thể trước mắt của
cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp, kẻ thù nguy hiểm là đế quốc Mỹ,
kẻ thù phụ là các thế lực phong kiến). Lúc này là phong kiến phản động,
từ đó đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: Đánh đuổi bọn đế
quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc lập.
+ Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người
cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
+ Gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
- Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công, nông.
- Lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Nông dân là bạn
đồng minh "lớn mạnh và chắc chắn" của giai cấp công nhân.
- Phương châm kháng chiến: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân
dân, thực hiện "kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính".
- Trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, điều cốt lõi nhất và cơ
bản nhất là chiến lược toàn dân kháng chiến.
- Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến, Đảng chủ trương
kháng chiến toàn diện, tức là tiến hành tiến công địch trên tất cả các mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao tạo thành sức mạnh tổng
hợp.
+ Về chính trị, phải đoàn kết toàn dân chống Pháp, phải thống nhất
toàn dân, làm cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng vững chắc
và rộng rãi. Phải củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, xây dựng bộ
máy kháng chiến vững mạnh, thống nhất quân, dân. Phải cô lập kẻ
thù, kéo thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các
thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta, chống lại thực dân phản động
Pháp. Coi trọng xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước
và Mặt trận dân tộc thống nhất vững mạnh. Thống nhất Việt Minh,
Liên Việt thành mặt trận Liên Việt (1951).
+ Về quân sự, triệt để dùng "du kích vận động chiến", tiến công địch
ở khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng. Xây dựng căn
cứ địa kháng chiến và hậu phương vững mạnh. Chủ động làm thất
bại các kế hoạch chiến tranh lớn của dịch, phối hợp chặt chẽ các
chiến trường với sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất
+ Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự
cấp về mọi mặt; ra sức phá kinh tế địch không cho chúng thực hiện
mưu đồ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Chú trọng phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp. Phát triển
các thành phần kinh tế, từng bước thực hiện chính sách ruộng đất
đối với nông dân (giảm tô và cải cách ruộng đất). Phát triển kinh tế
quốc doanh, gây dựng nền móng cho chủ nghĩa xã hội.
+ Về văn hoá, thực hiện hai nhiệm vụ: xoá bỏ nền văn hoá nô dịch
ngu dân, xâm lược của thực dân Pháp, xây dựng nền văn hoá dân
chủ mới, dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hoá, đại
chúng hóa. Phát triển giáo dục, đào tạo các bậc phổ thông trung
học chuyên nghiệp và đại học. Tiến hành cải cách giáo dục. Phát
triển văn học, nghệ thuật, coi văn nghệ là một mặt trận và văn nghệ
sĩ là chiến sĩ trên mặt trận này.
+ Về đấu tranh ngoại giao, triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm
nhiều bầu bạn, làm cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp
hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ về mọi mặt trận các
nước xã hội chủ nghĩa nhất là Liên Xô, Trung Quốc. Năm 1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Việt Nam là bạn của các nước dân
chủ trên thế giới, không gây thù oán với một ai.
- Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban
đầu địch mạnh, ta yếu nên Đảng chủ trương đánh lâu dài.
Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực lượng, đồng thời tích
cực tiêu hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng sẽ dần có lợi
cho và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng
thù. (Song, Đảng khẳng định đánh lâu dài nhưng phải tạo thế
chủ động phát triển thế và lực, tạo thời cơ giành thắng lợi
quyết định.)
- Dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân,
vào đường lối đúng đắn của Đảng, vào các điều kiện thiên
thời, địa lợi, nhân hòa của đất nước, đồng thời ra sức tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ
thù.

=> Với đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ngày càng phát triển và giành thắng lợi vẻ vang.

12.trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.


Trước những cuộc chiến ở miền Nam “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá
hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần
thứ 12 (12/1965) đã nếu ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước như sau:
+ Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”, “ Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chủ nhân dân trong cả
nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.

+ Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng
cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất
bại và bị động cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn chiến lược. Từ sự phân tích
và nhận định đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược trong toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm
vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam ra Bắc.
+ Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến
tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, thực hiện kháng
chiến lâu dài, dựa và sức chính mình, càng đánh càng mạnh, cố gắng đến mức
độ cao.

+ Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến
tranh chống Mỹ, cứu nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu
phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì xã hội chủ nghĩa là
hậu phương vững chắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

+ Tư tưởng và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển thế
tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương
châm: Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba
mũi giáp công”, đánh địch trên cả 03 vùng chiến lược.

+ Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm
tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều
kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động
viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam.

13.Hoàn cảnh lịch sử miền Nam vào năm 1974. Nhận xét về kế hoạch giải
phóng miền Nam được đề ra trong hai năm 1974-1975?
Vào cuối năm 1974 - đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở
Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm
1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “Cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu
thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền
Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh
thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh
tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Chủ trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam có những điểm khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn và linh hoạt của Đảng :
Tính đúng đắn của kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam đươc dựa trên cơ
sở nhận định đúng tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi có lợi cho
cách mạng (thời cơ), tranh thủ thời cơ đánh nhanh, để lỡ thiệt hại về người và
của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa… Tính linh hoạt
thể hiện trong thực hiện chủ trương, kế hoạch.Kế hoạch giải phóng hoàn toàn
miền Nam đã đề ra là hai năm (1975 -1976), nhưng nếu thời cơ đến thì giải
phóng sớm hơn năm 1975.

14.Đặc điểm, ý nghĩa thắng lợi và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
Đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7-
1954 đến tháng 5-1975, đó là Đảng ta đã thực hiện đường lối chính trị, đường
lối quân sự độc lập, tự chủ, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm một
mục tiêu chung là hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định: miền Bắc là hậu phương lớn, sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự
nghiệp cách mạng của cả nước; miền Nam là tiền tuyến lớn, cách mạng miền
Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc là mối quan
hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Đó là nét độc đáo chưa có tiền lệ trong lịch sử và là thành công lớn của Đảng ta;
đồng thời, là nguyên nhân chủ yếu, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gay go, quyết liệt của nhân dân ta.
Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng

(tháng 12-1976) cho rằng: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của Nhân

dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân

tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự

toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào

lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm

quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc"2.

Trải qua 21 năm chiến đấu, Nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm

lược thực dân mới có quy mô lớn, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau

Chiến tranh thế giới thứ hai. Âm mưu của đế quốc Mỹ biến miền Nam Việt

Nam thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài đất nước ta đã bị đập tan.

Thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước kết thúc quá

trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách

thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt

vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước

ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với thắng lợi này, Nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá

sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây,

thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thắng lợi của cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1954 đã chứng minh với thế giới sự

sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ. Quân ngụy Sài Gòn - đội quân tay sai
mạnh nhất được Mỹ dồn sức lực, tiền của nuôi dưỡng và bảo vệ bị tiêu diệt đã

làm cho các đồng minh Mỹ ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La tinh bắt đầu

mất lòng tin vào khả năng của Mỹ. Niềm tin về “tính bất khả chiến bại” của đế

quốc Mỹ đã bị lung lay.

Thắng lợi của Nhân dân Việt Nam đã đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của chủ

nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông

Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc

và các thế lực thù địch, làm lung lay vị trí chính trị của Mỹ trên trường quốc tế

làm phá sản "thần tượng Mỹ” và tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ - tên đế quốc hùng

mạnh nhất và tên sen đầm quốc tế hung ác nhất.

Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội,

tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng của thời đại

đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng triệu người dân trên thế giới đang

đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ, đây là thất bại lớn nhất. Đế quốc

Mỹ bị suy yếu nghiêm trọng về quân sự, chính trị, kinh tế và còn phải tiếp tục

gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề và lâu dài. Vết thương nhức nhối mà đế quốc

Mỹ gọi là "hội chứng Việt Nam" đã dằn vặt giai cấp thống trị và cả nhân dân

Mỹ trong nhiều năm cho đến nay vẫn chưa lành. Chiến tranh Việt Nam làm cho

nhân dân Mỹ hiểu thêm những bệnh hoạn và mâu thuẫn vốn có của xã hội tư

bản.

Thời kỳ sau Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu,

chuyển sang chiến lược "diễn biến hòa bình" gây đủ mọi sức ép nhằm phá hoại
phong trào giải phóng dân tộc, phá hoại Liên Xô, Đông Âu, hệ thống xã hội chủ

nghĩa, phong trào cộng sản quốc tế từ trong lòng các phong trào và các nước đó.

Tất cả những điều đó nói lên tầm quan trọng quốc tế và tính thời đại của cuộc

kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược mà cả loài người tiến bộ, những ai có

lương tri đều thừa nhận, dù Nhà Trắng và Lầu Năm Góc có tìm trăm phương

nghìn kế để xóa bỏ cũng uổng công, dù năm tháng đã trôi qua nhưng sự thật lịch

sử vẫn là sự thật.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã để lại những bài

học quý giá trong lịch sử giữ nước:

Một là, toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược

cách mạng nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam.

Hai là, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của

chiến tranh.

Ba là, lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp.

Bốn là, ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước

Đông Dương và trên thế giới.

Năm là, không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của

Đảng trong chiến tranh.

15.Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc 1954-1975.
16.Khái quát quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước và quá trình
tìm con đường đổi mới đất nước.
17.Đặc điểm của cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới? Nhu cầu phải
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế?
18. Nội dung Đường lối toàn diện của Đại hội VI (12-1986) và quá trình
thực hiện.
Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn và đối mới tư duy lý luận nhận
thức rõ hơn về thời kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã hội, những quy luật khách
quan đang vận dụng trong thời kỳ quá độ, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện với những nội dung cơ bản sau:

- Đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội, về các quy
luật khách quan những đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong nhiều
năm qua, những quan niệm lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, nhất là về công
nghiệp hóa, về cải tạo xã hội Chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về
phân phối lưu thông chính là nguyên nhân chậm phát triển và cụ thể hoá
đường lối chung và đường lối kinh tế trong chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ. Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy
không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ
nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính là bổ sung
và phát triển những thành tựu ấy.
- Về đổi mới cơ cấu kinh tế, dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân
theo cơ cấu hợp lý, có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế, chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế với
quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản
xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh
tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Đại
hội xác định rõ các thành phần kinh tế ở nước a là: Kinh tế xã hội chủ
nghĩa (bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể): kinh tế tiểu sản
xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và
kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao là công tư hợp doanh: kinh
tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.

Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương
bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện
cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hoá nội dung
chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu.

- Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ
cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng đã thẳng
thắn chỉ ra rằng: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều
năm nay đã không tạo được động lực phát triển làm suy yếu nền kinh tế,
kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn
trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền tư duy mang nặng tính chất chủ
quan, duy ý chí. Vì vậy, "Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
đã được khẳng định là xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ
chế mới phù hợp với quy luật khách quan: và với trình độ phát triển của
nền kinh tế". Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế
hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, chú trọng tính kế hoạch; sử dụng đầy đủ và
đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các đơn vị sản xuất có quyền tự chủ
sản xuất - kinh doanh, tự chủ về tài chính; sử dụng tốt các đòn bẩy kinh
tế.
- Đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại Nhận thức rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong
chặng đường đầu. Đại hội VI nhấn mạnh sự cần thiết phải “Công bố
chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình
thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng
xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và
biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào
nước ta để hợp tác kinh doanh”.
- Đổi mới về vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước: Để thiết lập cơ
chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy
nhà nước. Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương,
có sự phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính kinh tế với chức năng
quản lý sản xuất kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo
địa phương và vùng lãnh thổ. Nhà nước có nhiệm vụ thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể. Xây dựng
chiến lược kinh tế xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của đảng, tăng cường sức
chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng. Đại hội nêu rõ: "...
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế: đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo
và công tác"1. Đảng nhấn mạnh đổi mới tu duy, nâng cao phẩm chất cách
mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công
tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và
quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, trong đó tập trung dân chủ là
nguyên tắc quan trọng nhất. Đại hội đề ra yêu cầu nâng cao chất lượng
đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, nâng cao sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Quá trình thực hiện đường lối toàn diện của Đại hội VI:
19.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (năm 1991 và năm 2011).

20.Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Đảng đã xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc
điểm cách mạng Việt Nam ở cả hai miền Nam – Bắc; Đảng đã lãnh đạo phát
huy đến mức cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù;
Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách
mạng, phương thức và nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân; Đảng đã chủ
động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và
nghệ thuật tạo và nắm thời cơ, giành được những thắng lợi quyết định; Đảng
luôn chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ của cách
mạng.

Nhìn lại 44 năm, sau ngày đất nước thống nhất (1975-2019), từ thực tiễn lịch
sử, nhất là trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước,
Đảng càng thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo các bài học, kinh nghiệm
rút ra từ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Sau ngày thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng CNXH, phải đối
diện với những thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước, khu vực và trên
trường quốc tế. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ nặng nề của
Đảng. Trong quá trình lãnh đạo, tuy đã có được những thành tựu quan trọng,
song cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thậm chí sai lầm, khuyết điểm. Thực
tế đó đòi hỏi Đảng phải chú trọng nắm bắt đặc điểm, thực tiễn của đất nước, đổi
mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nóng vội để
nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI
(12-1986) đã được hoạch định trên cơ sở đó.

Đặc biệt, vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp
và tình hình đất nước có muôn vàn khó khăn, nhất là sau sự kiện chế độ XHCN
ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực thù địch không ngừng chống phá,
Đảng kiên định mục tiêu mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, giữ
vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp
tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng
đã kiên trì lãnh đạo và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại
Đại hội VII (6-1991) và bổ sung Cương lĩnh 1991 tại Đại hội XI của Đảng (1-
2011). Trên cơ sở đó, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và
nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với thực tế của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng (1-2016) khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại[2].
Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lý
luận nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng.

21.Thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự
nghiệp đổi mới.
Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, kinh tế tăng
trưởng tương đối nhanh và ổn định, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường,
đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế trung
bình hàng năm đạt gần 7%. Tái cơ cấu nền kinh tế đạt kết quả bước đầu. Thu
nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 2.200 USD năm
2015[3] và 2.587 USD năm 2018. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn:
dầu khí, dệt may, da giày, thủy hải sản, lương thực, cây công nghiệp, lắp ráp
linh kiện điện tử... Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Kinh tế Việt
Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam có quan
hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại
song phương với hơn 100 nước, trong đó có 20 hiệp định thế hệ mới.

Về văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo
đảm, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Chú trọng xây dựng văn hóa
và phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện. Công tác giải quyết việc
làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt: tỷ lệ nghèo đói giảm từ
53 % năm 1993 xuống còn 6% năm 2015[4]. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản
hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra.

Về xây dựng hệ thống chính trị, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đạt được những kết quả
bước đầu. Quốc hội đẩy mạnh xây dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia
được cải cách một bước. Quốc hội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động theo hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn một bước. Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và phương
thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.

Về đối ngoại, Việt Nam đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối
ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền
quốc gia. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm
1995); gia nhập ASEAN (năm 1995); gia nhập WTO (năm 2006); mở rộng quan
hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn như: Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và các nước
tư bản phát triển: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý…; ký kết Hiệp ước chiến lược
và Hiệp ước toàn diện với nhiều nước trên thế giới. Từng bước giải quyết hòa
bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đảo với các nước liên quan. Đồng thời,
tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương mại tự do với ASEAN, EU,
Mỹ…Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động
hội nhập quốc tế.

Về quốc phòng - an ninh, thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh, quốc phòng với
chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các đối
tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền, để gây mất ổn định. Chú trọng xây dựng, phát triển tiềm lực quốc
phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là quân đội
và công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng được
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

Về công tác xây dựng Đảng, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp, các thế lực thù địch tấn công toàn diện vào Đảng và chế độ chính trị
của đất nước, Đảng vẫn vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư
tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới; đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đường lối đúng đắn; phê phán các quan điểm sai trái đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan, phủ nhận thành tựu của quá khứ...
Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và tầm trí tuệ của
Đảng. Đảng lãnh đạo, cầm quyền thông qua Nhà nước và hệ thống chính trị. Hệ
thống tổ chức của Đảng và Nhà nước từng bước được kiện toàn theo hướng tinh
gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Đến năm 2015, đội ngũ của Đảng đã lên tới 4
triệu đảng viên trong tổng số hơn 90 triệu dân.[5] Tiến hành đổi mới công tác
cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm
chất, năng lực của cán bộ; bước đầu đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở
coi trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh,
khắc phục tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay.

22.Trọng tâm 1: Sự chuyển hướng chỉ đạo của Đảng năm 1939-1945 qua
3 hội nghị trung ương 6, 7, 8?

- Khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ Đảng xác định lại tính
chất cách mạng việt nam như thế nào?

- Đề ra khẩu hiệu cách mạng ra sao?

- Chủ trương thành lập mặt trận có tên gọi là gì, thành lập chính
quyền cách mạng việt nam như thế nào?

- Phương pháp đấu tranh giành chính quyền, ý nghĩa của sự điều
chỉnh này dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng việt nam.

Trước khi cách mạng tháng 8 diễn ra thì đảng có phát động cao trào
kháng nhật cứu nước, sự lãnh đạo của đảng trong cao trào kháng
nhật cứu nước, căn cứ thứ nhất: căn cứ vào hoàn cảnh của thế giới và
trong nước để đưa ra đường lối ( thể hiện qua chỉ thị nhật pháp bắn
nhau,gt), kết quả của quá trình phát động cao trào kháng nhật.

- 1. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)

- Nhiệm vụ, mục tiêu của Hội Nghị : đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng
các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.

– Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và
địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc.
– Lực lượng chính của Mặt trận là: công nhân, nông dân, đoàn kết với các tầng
lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh trong chốc lát hoặc cô lập giai
cấp tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ. Mặt trận do giai cấp công nhân lãnh đạo.

–Mục tiêu, phương pháp đấu tranh: Đảng quyết định chuyển từ đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai,vừa
xây dựng tổ chức hợp pháp, đơn giản rộng rãi, vừa xây dựng các đoàn thể quần
chúng cách mạng bí mật. Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương thay cho Mặt trận Dân chủ.

- Về xây dựng Đảng: Đảng phải liên lạc mật thiết với quần chúng. Phải khôi
phục hệ thống tổ chức Đảng. Phải vũ trang lý luận cách mạng. Phải thực hiện
phê và tự phê bình. Phải đấu tranh chống khuynh hướng hữu và “tả” khuynh.

- Đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng của Đảng, đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận
động cứu nước.

2. Hội nghị lần thứ 7 (11-1940)

Tiếp tục khẳng định quan điểm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giương cao
ngọn cờ giải phóng dân tộc.

3. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (05/1941)

- Khẳng định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Đặt
ngọn cờ giải phóng lên hàng đầu, thống nhất lực lượng cách mạng trên toàn
Đông Dương.

- Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất nêu cao khẩu hiệu giảm tô, giảm
thuế, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng.
- Hội nghị chỉ rõ sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ lập nên Chính phủ nhân dân
của nước VN dân chủ cộng hòa.

– Về Mặt trận: thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh thay cho Mặt
trận dân tộc phản đế Đông Dương.

– Hội nghị xác định vị trí, điều kiện, hình thức khởi nghĩa:

+ Nhận định điều kiện để cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi: giai cấp thống trị lâm
vào khủng hoảng đến cực điểm, nhân dân không thể sống dưới ách thống trị của
Nhật – Pháp, sẵn sàng vùng dậy khởi nghĩa, phe dân chủ đại thắng ở mặt trận
Thái Bình Dương, Mặt trận cứu quốc đã thống nhất trên toàn quốc.

+ Ra sức chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính
quyền ở địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

→ Hội nghị 8 có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó đã hoàn chỉnh những chủ
trương đã được đề ra tại Hội nghị tháng 11/1939 (hội nghị 6).

Ý NGHĨA CỦA SỰ CHUYỂN HƯỚNG:

- Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số
một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để
thực hiện mục tiêu ấy.

- Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu
nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần
chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và
lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành
thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân
tộc và tự do cho nhân dân.
- Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (tháng 5-
1941), Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống
nhất đánh đuổi Pháp — Nhật. Người nhấn mạnh: “Trong lúc này quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh
đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa
bỏng”.
- Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc,
các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức
cứu quốc của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị
và phong trào đấu tranh của quần chúng. Ngày 25-10-1941, Mặt trận
Việt Minh tuyên bố ra đời. Mặt trận Việt Minh đã tuyên bố ra 10 chính
sách vừa ích nước vừa lợi dân nên được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng.
Từ đầu nguồn cách mạng Pác Bó, Việt Minh đã lan tỏa khắp nông thôn,
thành thị có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Một tổ chức chính trị yêu
nước ra đời và đã tham gia làm thành viên của Mặt trận Việt Minh như
Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6-1944). Lực lượng chính trị quần chúng
ngày càng đông đảo và được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp –
Nhật theo khẩu hiệu của Mặt trận Việt Minh.
- Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo việc
vũ trang cho quần chúng cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc
quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Việt Nam giải
phóng quân. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi ở
các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả nước đã cổ vũ và thúc
đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng vùng lên đấu tranh
giành chính quyền.
23.Trọng tâm 2: Trình bày, phân tích quan điểm, chủ trương của Đảng
trong cao trào kháng Nhật cứu nước và kết quả của cao trào kháng
Nhật. (Giáo trình tr. 104 - 119 + SGK Sử 9)
https://truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-tuyen-truyen/boi-canh-
ra-doi-cua-chi-thi-nhat-phap-ban-nhau-va-hanh-dong-cua-chung-ta-
1106.html

HOÀN CẢNH:
- Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.
- Ở mặt trận Thái Bình Dương, đường biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á
bị quân Đồng minh khống chế, nên Nhật phải giữ con đường duy nhất từ
Mãn Châu qua Đông Dương xuống Đông Nam Á. Thực dân Pháp ráo riết
chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ khôi
phục lại quyền thống trị của Pháp. “Cả hai quân thù Nhật - Pháp đều
đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết liệt cùng nhau”.
- Tình thế thất bại gần kề của phát xít Nhật cùng mâu thuẫn giữa đôi bên
nên với sự chuẩn bị từ trước, ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng đảo chính lật
đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Pháp nhanh chóng đầu hàng. Sau khi
đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt chính sách nhằm củng cố
quyền thống trị. Chính phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim được Nhật dựng ra
với cái bánh vẽ “độc lập” để phục vụ cho nền thống trị của chủ nghĩa phát
xít. Bộ mặt giả nhân giả nghĩa của phát xít Nhật và bù nhìn tay sai bị bóc
trần về sau càng khiến nhân dân ta ngày càng thêm căm thù Nhật và chán
ghét bọn bù nhìn tay sai của chúng.
- Dự đoán đúng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ súng lật đổ Pháp, Tổng
Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
Đảng mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) để phân tích tình
hình và đề ra chủ trương chiến lược mới. Ngày 12/3/1945, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta, chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày 9/3/1945 là một cuộc
đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù cụ thể
trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là
phát xít Nhật; thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu
hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “Thành lập chính quyền
cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật.
PHÂN TÍCH:
- Chỉ thị nhấn mạnh: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương “một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc”, tuy nhiên, “những điều kiện khởi nghĩa
chưa thực sự chín muồi” vì quân Pháp tan rã, song quân Nhật chưa đến
mức hoang mang cực độ, các tầng lớp trung gian chưa ngả hẳn về phía
cách mạng, đội quân tiên phong chưa sẵn sàng.
- Bản Chỉ thị đã vạch rõ những điều kiện về cuộc khởi nghĩa Đông Dương
“Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất
hợp tác, bãi công, bãi thị phá phách cho đến những hình thức cao hơn như
biểu tình thị uy võ trang, du kích…”, đồng thời “sẵn sàng chuyển qua
hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện”. Với tư tưởng chỉ đạo
của Đảng trong Chỉ thị là “phải hành động ngay, hành động cương quyết
nhanh chóng, sáng tạo, chủ động, táo bạo”.
- Trong cách mạng, tương quan lực lượng giữa ta và địch ở mỗi nơi không
giống nhau, cách mạng có thể chín muồi ở các địa phương không đều
nhau nên Thường vụ Trung ương Đảng đã Chỉ thị: “Nơi nào thấy so sánh
lực lượng có lợi cho cách mạng thì tiến hành khởi nghĩa từng phần, giành
chính quyền từng bộ phận, rồi tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong toàn quốc và không được ỷ lại vào bên ngoài khi tình thế biến
chuyển thuận lợi, mà phải dựa vào sức mình là chính” .
- Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù, dự báo chính xác thời cơ cách mạng, linh
hoạt, sáng tạo và chuẩn bị mọi điều kiện làm tiền đề cho Tổng khởi
nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân khi thời cơ đến. Điều đó thể
hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa học và nghệ thuật chỉ đạo cuộc
cách mạng tài tình của Đảng ta trong cách mạng. Chỉ thị là kim chỉ nam
cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh, ở các địa
phương cả nước trong cao trào kháng Nhật cứu nước, có tác dụng quyết
định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tám năm 1945
đúng như lời khẳng định chắc chắn của Chỉ thị: "Thắng lợi cuối cùng
nhất định về tay chúng ta!".
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Việt Minh, từ giữa tháng 3/1945 trở đi,
cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.
- Giữa lúc cao trào kháng Nhật, cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên thì
ngày 5 - 4 - 1945 Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp ở Hiệp Hoà
(Bắc Giang). Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang
thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang
và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị; đề ra
nhiệm vụ cần kíp là phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, xây
dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp
thời cơ.
- Chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần nổ ra ở vùng thượng
du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu
quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị giải phóng hàng loạt xã,
châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Hà Giang…. Khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) thắng lợi,
đội du kích Ba Tơ được thành lập và xây dựng căn cứ Ba Tơ.
- Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Ủy ban giải
phóng Việt Nam.
- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang), chỉ thị gấp rút
chuẩn bị Đại hội quốc dân, thành lập Khu giải phóng. Ngày 4/6/1945,
Khu giải phóng chính thức được thành lập. Ủy ban lâm thời Khu giải
phóng được thành lập và thi hành các chính sách của Việt Minh. Khu
giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước.
Nhiều chiến khu mới được xây dựng.
- Trong các đô thị, nhất là những thành phố lớn, các đội danh dự Việt
Minh đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, tạo điều kiện phát triển
các tổ chức cứu quốc và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.
- Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết
nạn đói” đã “thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và
phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới
tổng khởi nghĩa giành chính quyền”. Tại nhiều địa phương, quần chúng
tự vũ trang, xung đột với binh lính và chính quyền Nhật, biến thành
những cuộc khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ.
- Cao trào kháng Nhật, cứu nước không những động viên được đông đảo
quần chúng mà còn lôi kéo cả tư sản dân tộc và một số địa chủ nhỏ tham
gia hoạt động cách mạng. Binh lính, cảnh sát của chính quyền thân Nhật
dao động, một số ngả theo cách mạng. Nhiều lý trưởng, chánh, phó tổng,
tri phủ, tri huyện và cả một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc với Việt
Minh...
KẾT QUẢ: Cao trào kháng Nhật, cứu nước là một cuộc khởi nghĩa từng
phần và chiến tranh du kích cục bộ, giành chính quyền ở những nơi có
điều kiện. Đó là một cuộc chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách
mạng được mở rộng, lực lượng cách mạng được tăng cường khi lôi
kéo được các tầng lớp trung gian ngả hẳn về phía cách mạng, bộ máy
chính quyền Nhật nhiều nơi tê liệt, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn
sàng, chủ động, tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
24.Trọng tâm 3: Hoàn cảnh thế giới tác động đến sự ra đời của Đảng
cộng sản việt nam như thế nào? (giáo trình 36-38)
- Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa), đẩy mạnh quá trình xâm chiếm
và nô dịch các nước nhỏ, yếu, biến các quốc gia này thành thuộc địa của
các nước đế quốc, chính sự chuyển biến này đã làm cho mâu thuẫn trong
thế giới tư bản ngày càng sâu sắc, gay gắt. Trước bối cảnh đó, nhân dân
các dân tộc bị áp bức đã đứng dậy đấu tranh, tạo thành phong trào giải
phóng dân tộc mạnh mẽ lan rộng khắp nơi, nhất là ở châu Á. Cùng với đó
là phong trào đấu tranh GCVS chống lại GCTS, từ đó đã tác động mạnh
mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 về sau đã ảnh
hưởng, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
chống giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa và phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có cả Việt Nam.
- Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản, do V.I Lênin đứng đầu, được thành lập,
trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng
vô sản thế giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch đường hướng chiến
lược cho cách mạng vô sản mà còn đề cập các vấn đề dân tộc và thuộc
địa; giúp đỡ chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc. Cùng với đó, Quốc tế
Cộng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và
thúc đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô
sản thông qua chủ nghĩa Mác - Lênin. Những hoạt động trên đã ảnh
hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đông Dương.

→ Về bản chất, sự ra đời của Đảng là 1 việc tất yếu phải diễn ra, nhưng chính
các sự kiện trên thế giới cùng với sự xuất hiện của tư tưởng Mác- Lênin trong
bản luận cương đã thúc đẩy tiến trình ra đời của Đảng diễn ra nhanh hơn.
25.Trọng tâm 4: Vai trò của Hồ Chí Minh trong chuẩn bị thành lập
Đảng?

https://tinhuyquangtri.vn/vai-tro-cua-chu-tich-ho-chi-minh-voi-viec-
thanh-lap-dang-cong-san-viet-nam
(Giáo trình trang 49-58)

Vai trò của Hồ Chí Minh trong chuẩn bị thành lập Đảng:
- Tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Từ khi Bác Hồ ra
đi tìm đường cứu nước (năm 1911) đến năm 1920 bác đã đi qua rất nhiều
các quốc gia khác nhau. Chính quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó
đã giúp bác có nhận thức rõ hơn, khái quát hơn về tính chất những bước
ngoặc quan trọng và về diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân. Cụ thể: Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc
ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột”, bản chất của cách mạng tư sản là
không triệt để: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là
cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi, không triệt để, tiếng nói là
cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột công nông trong
nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa”. Do đó, khi bắt gặp được tư tưởng
của chủ nghĩa Mác -Lênin (năm 1920 Bác đã đọc được sơ thảo luận
cương lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin) người đã
tìm thấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc, đó là con đường
cách mạng vô sản.
- Tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào trong nước và chuẩn
bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
+ Về tư tưởng: dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án bản
chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước
thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đứng lên đấu
tranh giải phóng → Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác
định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng
thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô
sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác - Lênin, xây dựng mối
quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động
Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
+ Về chính trị: Hình thành một hệ thống luận điểm chính trị.
● Khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức
là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đường lối chính
trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho
dân tộc, tự do hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng
nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
● Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới.
● Xác định lực lượng cách mạng: Ở nước nông nghiệp lạc hậu,
nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến
bóc lột nặng nề vì thế phải thu phục và lôi cuốn được nông
dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực
cách mạng. Người còn xác định rằng: cách mạng “là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai
người”.
● Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản: “Trước hết
phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cùng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
+ Về tổ chức:
● Huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người
tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán
bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin.
● Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ
cách mạng cho 75 đồng chí.
● Chủ nghĩa Mác - Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những
chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong
trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân,
giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự
giác.
- Chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. (TRANG 61-64)
+ Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với
tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23/12/1929, Bác
Hồ đến Hồng Kông triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến Cửu Long (Hồng Kông) để
tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính
đảng duy nhất của Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1 đến
ngày 7/2 năm 1930, tại Hội nghị Bác đã phê phán những quan
điểm sai lầm của các tổ chức Cộng sản hoạt động riêng lẻ và nêu
chương trình của Hội nghị. Với sự nhất trí cao, hội nghị đặt tên
Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chính cương vắn
tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng - là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc sáng
tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, độc lập
và tự do là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
=> Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định
cho những bước phát triển nhảy vọt mới trong lịch sử phát triển
của dân tộc Việt Nam, là kết quả từ sự nhạy bén về chính trị, sự
chủ động cao, sự lãnh đạo sáng suốt cùng với lối tư duy khoa học
và tầm nhìn mang tính chiến lược của Bác trong việc thực hiện
trọng trách lịch sử đối với dân tộc, đối với đất nước. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chính là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện không thể tách rời với tên
tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

26.Trọng tâm 5: Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thời kì pháp xâm
lược việt nam qua các chính sách của Pháp?

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/
thuc-dan-phap-xam-luoc-viet-nam-la-khai-hoa-van-minh-mot-luan-dieu-
xuyen-tac/13773.html
Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thời kì Pháp xâm lược Việt Nam qua
các chính sách của Pháp là:
- Trên phương diện chính trị, pháp lý:
+ Để duy trì ách thống trị của mình, Pháp thực hiện chính sách chia
để trị (chia nước ta thành ba miền Bắc, Trung, Nam; chia giữa các
tôn giáo; giữa các dân tộc với nhau, và giữa nội bộ của các dân
tộc), lập nhà tù nhiều hơn trường học.
+ Về công lý thì càng không được thực thi, “lẽ phải” đương nhiên
thuộc về người da trắng, vì thế mà bất cứ tên thực dân nào cũng có
thể giết chết, tàn sát hoặc cưỡng dâm người bản xứ; nếu có bị đưa
ra tòa thì cũng được tha bổng.
- Trên phương diện kinh tế:
+ Thực hiện thuế thương nghiệp (đánh thuế nặng đối với hàng hóa
của các nước khác còn hàng hóa của Pháp thì không) nhằm biến
Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ độc quyền hàng hóa của
Pháp.
+ Hạn chế công nghiệp phát triển, đặc biệt là công nghiệp nặng; tăng
cường thủ đoạn bóc lột, vơ vét tiền của của nhân dân ta bằng cách
đánh thuế nặng (thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế muối,
thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác).
- Trên phương diện văn hóa- xã hội:
+ Áp dụng chính sách ngu dân; tăng cường thực hiện chính sách đầu
độc, trụy lạc, tệ nạn xã hội đối với người dân, nhất là đối với thanh
niên; thực hiện chính sách độc quyền, khuyến khích tiêu thụ rượu,
thuốc phiện. “Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến một nghìn năm
trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một
nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học”.
+ Việc giảng dạy được thực hiện bằng tiếng Pháp và chương trình
mang tính nhồi sọ, nô dịch và ngu dân, làm sai lệch lịch sử dân tộc
Việt Nam, nghiêng hẳn về tuyên truyền cho nền văn hóa Pháp, phủ
nhận sự tồn tại độc lập của nền văn minh bản địa, nhằm làm lạc
hướng, tạo ra trong thanh thiếu niên tư tưởng lệ thuộc Pháp, khiếp
sợ trước sức mạnh vật chất của chính quốc, hàm ơn đối với “công
khai hóa” của chủ nghĩa thực dân và do đó sẵn lòng phục tùng
Pháp, biến họ thành những kẻ mất gốc, quên đi nguồn gốc dân tộc
và lịch sử nước mình (chúng quyết tâm đồng hóa dân tộc ta).
+ Không chỉ vậy, thực dân Pháp còn tăng cường kiểm soát các ấn
phẩm, nhất là báo chí, sử dụng phương tiện văn hóa để tuyên
truyền cho chủ nghĩa thực dân, công kích tư tưởng tiến bộ, phong
trào cách mạng trên thế giới. Họ “cấm học sinh đọc tác phẩm của
Huygô, Rútxô và Môngtexkiơ”, vì lo sợ tư tưởng của các nhà khai
sáng sẽ tác động đến thanh niên.
- Bài học:
+ Giành lại quyền tự do dân chủ.
+ Xây dựng, tăng cường tình đoàn kết dân tộc, tránh xa những tư
tưởng gây chia rẽ, thù địch, công kích nhằm phá vỡ khối đại đoàn
kết dân tộc. Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo, vùng
miền.
+ Mở cửa hội nhập, giao lưu trao đổi mua bán với các nước khác trên
thế giới, nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế như ngày nay.
+ Xóa bỏ các loại sưu cao, thuế nặng.
+ Nâng cao nhận thức của người dân thông qua việc mở thêm trường
học, tăng cường xóa mù chữ ở mọi độ tuổi.
+ Tăng cường giáo dục, tuyên truyền một cách đúng đắn về nền văn
hóa, lịch sử dân tộc.
- Ngoài những chính sách cai trị mang tính tiêu cực như trên thì trong
chính sách cai trị của Pháp vẫn đem lại cho nước ta những mặt tích cực
nhất định:
+ Về mặt thương nghiệp, giao thương buôn bán trong nước có sự
phát triển hơn.
+ Về giao thông vận tải được đầu tư, phát triển, mở rộng hơn (đặc
biệt trong ngành đường sắt).
+ Vẫn giữ lại, tiếp thu những cái hay chứ không bài trừ, triệt tiêu một
cách mù quáng để đưa đất nước phát triển theo đúng tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm.
27. Trọng tâm 6: Những thuận lợi và khó khăn của phía thế giới (Anh,
Pháp, tưởng kéo vào đằng sau có Mỹ hỗ trợ vũ khí phương tiện chiến
tranh bên trong có những lực lượng nổi dậy chống phá cách mạng)
và trong nước (đói, dốt, ngoại xâm) đối với vai trò lãnh đạo của Đảng
sau Cách mạng tháng 8 thành công? (trật tự thế giới 2 cực), kết quả
kháng chiến kiến quốc đạt được thành tựu gì? (GT 128)

Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước VN bước sang 1 chặng đường mới và
nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất.
Về thuận lợi:
Thuận lợi về quốc tế sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, cục diện thế giới và
khu vực có những thay đổi lớn cho CM của VN. Liên Xô trở thành thành trì của
chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông, Trung Âu, đc sự ủng hộ và giúp đỡ của
Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội, hệ thống xã
hội chủ nghĩa đang hình thành. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa châu Á, châu phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao, phong trào đấu
tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
Thuận lợi ở trong nước VN: Thuận lợi của nước ta lúc bấy giờ rất cơ bản,
nhân dân ta đã giành quyền làm chủ bước đầu được hưởng quyền lợi do chính
quyền Cách mạng đưa ra nên rất phấn khởi, gắn bó với chế độ. Cách mạng nước
ta có Đảng, đứng đầu là chủ tịch HCM sáng suốt lãnh đạo.
Về khó khăn:
Trên thế giới: phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ
thống thuộc địa thế giới”, ra sức tấn công đàn áp phong trào CM thế giới, trong
đó có CM VN. Do lợi ích cục bộ của mình các nước lớn ko có nước nào ủng hộ
lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của nhà nước VN Dân chủ cộng
hòa. VN nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây tách biệt hoàn
toàn với thế giới bên ngoài. CM 3 nước Đông Dương nói chung, CMVN nói
riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi, khó khăn, thử thách hết sức to lớn và rất
nghiêm trọng.
Ở trong nước:
- Nạn đói, nạn dốt: hệ thống chính quyền CM mới đc thiết lập, còn rất non
trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết
sức nặng nề. Nhà nước VN dân chủ cộng hòa tiếp quản 1 nền Kinh tế xơ
xác, tiêu điều, Công nghiệp đình đốn, Nông nghiệp bị hoang hóa, 50%
ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống
rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc
phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944, đầu năm
1945 làm 2 triệu người chết đói.
- Ngoại xâm: Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là quân
đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật đã lũ lượt
kéo vào nước ta. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 2 vạn quân Tưởng kéo
vào đóng ở HN và hầu hết các tỉnh. Theo sau chúng là tay sai thuộc các tổ
chức phản động như VN Quốc dân Đảng (Việt Quốc), VN Cách mạng
đồng minh hội (Việt Cách) về nước hòng cướp chính quyền của ta. Từ vĩ
tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay
trở lại xâm lược. Lợi dụng tình hình đó, bọn phản động trong nước ngóc
đầu dậy, làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng. (thù trong giặc
ngoài)
→ Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của VN
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói,
nạn dốt và thù trong, giặc ngoài.
Kết quả kháng chiến kiến quốc:
- Về chính trị - xã hội: đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới
- chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cần thiết. Ngày 6/1/1946, cuộc
Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội đã diễn ra trên toàn lãnh thổ Việt Nam,
lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân được thực hiện quyền công dân,
được bầu những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất
nhà nước. Lực lượng vũ trang được chú trọng xây dựng, lực lượng cách mạng
tăng lên một cách đáng kể.
- Về kinh tế, văn hóa: đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa
bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân
quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được phục hồi. Cuối năm 1945, nạn đói cơ
bản được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện.
Tháng 11/1946, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và
tổ chức khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa
mới đã bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào
diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối 1946 cả nước đã có thêm
2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
- Về bảo vệ chính quyền cách mạng: (ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng
đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam bộ, Đảng
đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động
phong trào Nam tiến chi viện Nam bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra
Trung bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ
thù, Đảng, Chính phủ ta đã thực hiện sách lược nhân nhượng với quân đội
Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng
chống Pháp ở miền Nam.). Cái này mới là kết quả nè: → Nhờ vào sự linh hoạt
trong đường lối chỉ đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã có thêm thời
gian hòa hoãn để xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp, một cuộc chiến không thể tránh khỏi.
28.Trọng tâm 7: Đường lối kháng chiến chống Pháp (Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến, chỉ thị toàn dân kháng chiến, tác phẩm kháng
chiến nhất định sẽ thắng lợi của Trường Chinh, Việt nam chúng ta
nhờ đường lối chiến tranh nhân dân mà đánh thắng Pháp và can
thiệp Mỹ).

https://luathoangphi.vn/duong-loi-khang-chien-chong-phap-cua-dang-ta-
la-gi/
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/uong-loi-chien-tranh-nhan-dan-danh-bai-am-
muu-chien-luoc-cua-thuc-dan-phap-va-can-thiep-my-464554
- Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng được thể hiện trong các văn
kiện:

+ Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng
(12/12/1946).
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946).
+ Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường
Chinh (9/1947).

– Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
– Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám,
“đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
– Tính chất kháng chiến: trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
– Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến tranh
cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.
– Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,
thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Cụ thể:
+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên
đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là
một pháo đài.
+ Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao. Trong đó:
● Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân
tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
● Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện “du
kích chiến” tiến lên “vận động chiến”, đánh chính quy, là “triệt để dùng
du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa
đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
● Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát
triển nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp
quốc phòng.
● Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa
dân chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
● Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm
phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập,…
+ Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng
nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”
của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta
mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
+ Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây
bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc
đó cũng không được ỷ lại.
+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định
thắng lợi.
Ý nghĩa của đường lối kháng chiến
– Đối với trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải
công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương;
làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc
chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc,
tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn
cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân
ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
– Đối với quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và
cách mạng thế giới, cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân
Pháp.

29.Trọng tâm 8: Phân tích đường lối kháng chiến chống pháp, mĩ và chỉ
ra những điểm tương đồng.

https://luathoangphi.vn/duong-loi-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-
1954-1975/
`

Chủ trương của Đảng ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp: (đọc
trọng tâm 7 sẽ đầy đủ hơn á).
Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.

– Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.

– Tính chất kháng chiến: trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.

– Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến
tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.

– Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,
thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên
đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là
một pháo đài.

+ Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao. Trong đó:

Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu
chuộng tự do, hòa bình.

Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến
lên vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động chiến.
Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa
đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.

Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển
nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân
chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với
dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập,…

+ Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng
nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”
của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta
mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

+ Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây
bốn phía.

+ Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó
cũng không được ỷ lại.

+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định
thắng lợi.

Chủ trương của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ:

– Quyết tâm chiến lược:

- Mục đích kháng chiến: Quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ, bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước
nhà.
- Phương châm kháng chiến: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính,
càng đánh càng mạnh, tập trung lực lượng của cả 2 miền, mở những cuộc
tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian
tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
- Tư tưởng chỉ đạo đối với Miền Nam: con đường phát triển cơ bản của
cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân; ngoài ra không có con đường nào khác. Giữ vững và phát triển
thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục duy trì
đấu tranh quân sự và đấu tranh tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi
giáp công (chính trị, quân sự, binh-địch vân), đánh địch trên cả ba vùng
chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, thành thị). Trong giai đoạn
này, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ vị trí ngày
1 quan trọng.
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế,
quốc phòng vững chắc trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ bảo vệ miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, động viên sức người, sức của để chi viện cho cuộc
chiến tranh giải phóng miền Nam và tích cực chuẩn bị đề phòng địch
trong tường hợp chúng mở rộng chiến tranh cục bộ.
- Về mối quan hệ nhiệm vụ cách mạng của 2 miền:
+ Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, miền Nam là tuyền
tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Chúng ta phải bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá
hoại của Mỹ ở miền Bắc, ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về
mọi mặt nhất là kinh tế và quốc phòng, đồng thời, vừa tiếp tục xây
dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò của hậu phương với
tiền tuyến lớn. Hai nhiệm vụ trên không tách rời nhau mà gắn bó
mật thiết với nhau. Đế quốc Mỹ xâm lược VN ta thì khi chúng đặt
chân đến đâu trên đất nước ta, mọi người dân đều có nghĩa vụ tiêu
diệt chúng, khẩu hiệu của nhân dân ta lúc này là “tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”.
+ Nghị quyết trung ương lần thứ 11, 12 năm 1965 với nội dung như
trên thể hiện tư tưởng nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập và
chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách
mạng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Đó là đường lối chiến tranh, toàn dân, toàn diện, lâu
dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới, cơ sở Đảng
lãnh đạo để đi tới thắng lợi vẻ vang.

ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG NHA AE:

- Đảng ta có đường lối chiến lược đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ của
đất nước.
- Nhân dân ta đoàn kết một lòng, không phân biệt trai, gái, già trẻ… quyết
tâm đánh đuổi giặc giành lại độc lập.
- Đường lối chiến tranh nhân dân kết hợp đấu tranh toàn diện trên nhiều
mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa… cũng là một nước đi khôn ngoan của
Đảng
- Đề ra những phương châm phù hợp với từng thời kỳ của đất nước, giúp
nâng cao tinh thần đấu tranh của quân và dân ta. Hơn nữa, đưa ra từng
bước đi cụ thể, dự đoán được tình hình của trận đấu và kết hợp với sự
linh hoạt, ứng biến kịp thời của Đảng đã góp phần quan trọng tạo nên
chiến thắng của dân ta.
- Đề ra mục tiêu rõ ràng là: “nhất quyết phải giành được độc lập” để củng
cố tinh thần và tư tưởng của người dân.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và
sức mạnh quốc tế.
- Đều có sự cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa,...
- Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn
dân tộc, đoàn kết quốc tế

You might also like