You are on page 1of 38

TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG


TIỂU LUẬN
TÍNH TẤT YẾU LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG

GVHD:
SVTH:
Mã lớp học:

1.
2.

Thành phố Hồ Chí Minh,


TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG


TIỂU LUẬN
TÍNH TẤT YẾU LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG

GVHD:
Mã lớp học:
SVTH: Nh

Thành phố Hồ Chí Minh,


MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................3
4. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu.............................................................................3
5. Bố cục.........................................................................................................................3
6. Đóng góp đề tài..........................................................................................................4
B- NỘI DUNG................................................................................................................5
Chương 1: Nguyễn Ái Quốc và quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác– Lênin về trong
nước và chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng..........................5
1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam....................................5
2. Phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu XX.................................7
3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và khuynh hướng đấu tranh vô
sản .............................................................................................................................9
Chương 2: Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sứ
mệnh lịch sử của Đảng................................................................................................17
1. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản....................................................................17
2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam......20
3. Sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam............................................................24
4. Ý nghĩa lịch sử và thành tựu..............................................................................27
Chương 3: Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sứ mệnh lịch sử từ khi thành lập
cho tới nay...................................................................................................................31
C- KẾT LUẬN..............................................................................................................33
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................34
A- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giữa lúc nhân dân ta đang đứng trước khủng hoảng về đường lối cứu nước. Nhiều
nhà yêu nước lúc bấy giờ tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì Bác- Nguyễn Ái
Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Trải qua bao nhiêu năm,
Người nghiệm ra rằng: Chủ nghĩ tư bản và chủ nghĩ đế quốc chính là cội nguồn cho
sự đau khổ của nhân dân lao động và công nhân. Sau sự thành công đầy vang dội của
“cách mạng tháng Mười Nga”, đồng thời sự tiếp cận với lý luận Mác-Lênin, Người
nhận ra con đường duy nhất muốn cứu nước và giải phóng tầng lớp nhân dân đó
chính là “cách mạng vô sản”. Từ đây, mở ra một bước ngoặt lớn đối với tình hình
nước ta.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Bên cạnh đó,
chuẩn bị lý luận về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh rằng:
cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải
có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-
Lênin. Cuối cùng, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời dưới sự hợp nhất của các tổ chức
Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn) để theo một đường lối chính trị đúng đắn, thống nhất tư tưởng, mục tiêu
thống nhất đất nước, giải phóng công nhân và nhân dân lao động. Đi qua suốt 90 năm
dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ
khó khăn, gian khổ, giành được những thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất
nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế
quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, nhóm chúng em xin chọn đề tài “Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam và sứ mệnh lịch sử của Đảng” để làm rõ hơn về tầm
quan trọng của sự ra đời và sứ mệnh của Đảng đối với dân tộc ta.
1
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước như các PGS., TS, Th.s
dưới đây đã làm rõ, phân tích, đánh giá về tầm quan trọng sự ra đời và sứ mệnh lịch
sử của Đảng đối với tình hình đất nước ta thời bấy giờ.
PGS., TS. Nguyễn Trọng Phúc (2015) đã nhận định sứ mệnh lịch sử và bản lĩnh
chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ trách nhiệm trước đất nước và
dân tộc, từ trí tuệ, đạo đức và ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của
Đảng và dân tộc. Với phẩm chất cao cả đó, Đảng là lương tâm, danh dự và trí tuệ của
thời đại mới của dân tộc Việt Nam, là sức mạnh để Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam vượt qua mọi khó khăn.
Thạc sĩ Bùi Hữu Thêm (2017) đã khẳng định con đường sáng suốt của Nguyễn Ái
Quốc khi vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh “đen tối
như không có đường ra” của Việt Nam để đi theo con đường cách mạng vô sản. Thúc
đẩy các phong trào cách mạng diễn ra mạnh mẽ tất yếu cần một chính đảng đại diện
để lãnh đạo là Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất đủ sức nắm quyền lãnh đạo phong
trào cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
PGS, TS. Vũ Trọng Lâm (2020) xác định nhà nước và xã hội nào cũng đều do
giai cấp nhất định lãnh đạo thông qua chính đảng đại diện cho giai cấp ấy. Đảng Cộng
sản Việt Nam là chính đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, do
tương quan lực lượng chính trị Việt Nam quy định, được lịch sử lựa chọn, được nhân
dân tin tưởng, trao gửi trọng trách bằng hiến định và được khẳng định bằng năng lực,
hiệu quả lãnh đạo.
Thượng tướng, Viện sĩ, TS KHQS Nguyễn Huy Hiệu (2019) làm rõ tầm quan
trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành
được những thắng lợi vĩ đại. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và
khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam) đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
đưa cả nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.

3
Trung tướng, PGS.TS Trần Vi Dân (2020) thấy được Đảng cộng sản Việt Nam
không ngừng phát huy vai trò lãnh đạo của mình: Xây đựng đường lối chính trị đúng
đắn, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, xây dựng thế trận lòng dân vững
chắc đồng bảo bảo vệ độc lập dân tộc,…
PGS.TS. Lê Văn Yên (2020) với đề tài “Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi trong tiến trình cách mạng Việt Nam” đã nhìn nhận rằng vai
trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong tiến trình cách mạng
Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp logic: nghiên cứu tổng quát các sự kiện trước và sau khi
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước và tình hình đất nước ta trước và sau khi
thống nhất Đảng để rồi thấy được sứ mệnh lịch sử, tầm quan trọng của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
 Phương pháp lịch sử: liệt kê những thắng lợi mà Đảng lãnh đạo từng bước
mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước ta.
 Phương pháp phân tích và tổng hợp: nghiên cứu chi tiết đường lối chính trị
của Đảng. Từ đó, tổng hợp để thấy được cái hay trong việc lãnh đạo nhân dân từng
bước đi đến độc lập dân tộc.
4. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu
4.1. Mục tiêu:
Nhận định về hành trình tìm đường cứu nước theo kiểu mới của Nguyễn Ái Quốc
và làm rõ tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác- Lênin đối với sự ra đời của Đảng. Từ
đó, thấy được sứ mệnh của Đảng từ quá khứ đến hiện tại đều hướng tới nhân dân.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Giai đoạn thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
5. Bố cục
Tiểu luận ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Nguyễn Ái Quốc và quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về
trong nước và chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng cho việc tổ chức thành lập Đảng.
4
Chương 2: Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sứ
mệnh lịch sử của Đảng.
Chương 3: Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sứ mệnh lịch sử từ khi thành
lập cho tới nay.
6. Đóng góp đề tài
Đối với người học:
Tiểu luận giúp học viên biết rõ về quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và
thấy được sứ mệnh của Đảng trong việc lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này tới
thắng lợi khác trong vòng 90 năm qua.
Thông qua những kiến thức đã trang bị giúp người học có kỹ năng đọc hiểu, chọn
lọc, phân tích, tổng hợp khái quát về con đường Đảng đi suốt 90 năm qua, phản biện,
bác bỏ những thông tin sai lệch về Đảng. Từ đó, ra sức học tập, thực hiện mọi chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
Đối với cơ sở đào tạo:
Thấy được những chính sách của Đảng không ngừng hoàn thiện, đổi mới, xóa bỏ
những tiêu cực trong Đảng để đưa đất nước trở thành một nước cộng nghiệp hóa –
hiện đại hóa.
Đối với bộ môn lịch sử Đảng:
Tạo được hứng khởi khi học bộ môn này. Đồng thời, xây dựng cho học viên niềm
yêu thích nghiên cứu.
Tìm ra nhiều cái mới làm tăng cái hay cho giáo án giảng dạy của bộ môn.

5
B- NỘI DUNG
Chương 1: Nguyễn Ái Quốc và quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác– Lênin về trong
nước và chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng.
1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam
1.1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp
bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống
nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác-Lênin
từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là
ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản
(Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2. Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách
chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước

6
của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương,
chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một
chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc
lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều
hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống
đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn
cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên
tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu. Sự phân
hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một
bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình
thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều
mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên
đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc
này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu
tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng
đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại.
Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm
dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo
(1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng
không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế
tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách
mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
7
2. Phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu XX
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, Pháp lợi dụng sự kiện vua Tự Đức qua đời, triều đình
rối ren. Pháp tấn công Thuận An, triều đình Huế tỏ ra nhu nhược, sợ hãi xin hàng.
Lúc này pháp yêu cầu triều đình ký hiệp ước Harmand 1883. Pháp được toàn quyền
nắm giữ mọi giao thương của Việt Nam với nước ngoài bao gồm cả Trung Quốc.
Triều đình Huế thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì, cắt tỉnh Bình
Thuận vào Nam kì thuộc Pháp; cắt 3 tỉnh Thanh- Nghệ- Tĩnh sát nhập vào Bắc Kì.
Triều đình chỉ được cai quản ở Trung Kì nhưng phải thông qua viên khâm sứ Pháp ở
Huế. Sau khi triều đình Huế kí kết với Pháp hiệp ước Harmand, quan lại có động thái
không đồng tình với nhà vua, nhân dân căm phẫn, khiến cho phong trào kháng chiến
chống Pháp diễn ra càng mạnh mẽ. Thực dân pháp nhận thấy sự phản đối, nên tiến
hành ký hiệp ước Patonot 1884 nhằm xoa dịu tinh thần quần chúng lấy lòng vua quan
phong kiến bù nhìn. Nhưng điều này không làm cho phong trào yêu nước ở Việt Nam
bị dập tắt.
Phong trào đánh dấu một bước ngoặt và ở ra phong trào đấu tranh ở nước ta là
phong trào Cần Vương (1885- 1896) do sĩ phu vân thân lãnh đạo. Hưởng ứng lời kêu
gọi của vua Hàm Nghi, phong trào Cần Vương phát triển trên diện rộng, đây là phong
trào dân tộc tô thắm cho tinh thần hào hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam nhưng
không giành được thắng lợi. Hưởng ứng phông trào Cần Vương, thủ lĩnh Đinh Công
Tráng và Phạm Bành đã dương cao ngọn cờ tập hợp hơn 300 nghĩa binh để mở đầu
cho khởi nghĩa Ba Đình (1886- 1887), không chịu nổi đợt tấn công của quân Pháp
1887, Phạm Bành và Đinh Công Tráng quyết định rút quân khỏi căn cứ Ba Đình
nhiệm vụ “diệt; thủ” của giặc Pháp đã thất bại hoàn toàn. Tiếp đến là các cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu khác như: Bãi Sậy của Nguyện Thiện Thuật (1883- 1892), Hương Khê
của Phan Đình Phùng (1885- 1895). Nổi bật là khởi nghĩa nông dân Yên Thế kéo dài
từ 1884- 1913 dưới sự chỉ huy của Đề Thám- người rất yêu chuộng tự do, độc lập,
quyết tâm giải phóng cảnh cá chậu chim lồng, vì dân mà chiến đấu. Làm cho thực dân
Pháp lo ngại nhất và tổn thất nhiều nhất. Tuy nhiên cuộc khỏi nghĩa vẫn thất bại.

8
Tiếp nối phong trào Cần Vương, đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu lập ra Hội Duy
Tân (1904) tổ chức phong trào Đông Du (1906- 1908), với chủ trương dựa vào đế
quốc Nhật để chống Pháp, đưa du học sinh sang Nhật nhằm đào tạo nhân tài, củng cố
lực lượng kháng chiến, tuy nhiên 9/1908 thực dân Pháp cấu kết với Nhật, trục xuất
những người Việt khỏi đất nhật. Chủ trương chống Pháp của Phan Bội Châu không
thành. Trong lúc đó bùng nổ Cách mạng Tân Hợi (1911) của Tôn Trung Sơn. Tư
tưởng đấu tranh ảnh hưởng đến con đường đấu tranh của Phan Bội Châu. Năm 1912,
Phan Bội Châu cùng các đồng chí thành lập Việt Nam Quang phục hội nhằm đánh
đuổi thực dân Pháp nhưng bất thành.
Phan Châu Trinh chủ trương nâng cao trình độ trí độ trí tuệ, đạo đức phát triển
kinh tế- văn hóa, giáo dục để tự lực tự cường, tiến đến mưu cầu độc lập. Ông viết
những bản kiến nghị gửi lên chính quyền thực dân Pháp, yêu cầu sửa đổi chính sách
cai trị để người Việt tiến lên văn minh. Phong trào Duy Tân đang trên đà phát triển,
Tháng 3/1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ bùng nổ. Thực dân pháp lợi dụng
thời cơ đàn áp thẳng tay, ra lệnh đóng cửa các trường học, giải tán hội buôn. Phan
Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội. Phong trào Duy Tân bức tử 1908.
Các phong trào đấu tranh đầu thế kỷ XX đều thất bại do nguyên nhân chủ yếu
sau: Khuynh hướng dân chủ tư sản không còn phù hợp với thời đại mới; các phong
trào giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước diễn ra đơn lẻ dễ dàng bị thực dân pháp
đàn áp. Các phong trào hoạt động dựa vào người lãnh đạo, người lãnh đạo mất phong
trào tan rã, không chủ động xây dựng lực lượng vũ trang.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914- 1918), tinh thần dân tộc, dân chủ càng
lớn mạnh, vươn lên đấu tranh chống thực dân Pháp bằng nhiều hình thức khác nhau:
Xuất hiện Đảng lập hiến (1923) của Bùi Quang Chiêu, ban đầu tổ chứng đưa ra nhiều
khẩu hiệu đòi quyền tự do nhưng về sau lại chấp nhận thỏa hiệp khi Thực dân Pháp
đồng ý nhượng bộ một số quyền lợi; sự ra đời Quốc dân Đảng (1927) với mục tiêu
dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến để thành lập Việt Nam Độc lập
Cộng hòa.

9
Tổng thể các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đúc quần chúng tham gia với đa dạng hình thức
đấu tranh thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ chống thực dân nhưng đều thất bại. Mặc
dù thất bại, nhưng các phong trào yêu nước đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của
quần chúng nhân dân, góp phần thúc đẩy các nhà yêu nước có khuynh hướng dân chủ
tư sản, giải phóng dân tộc, đất nước.
3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và khuynh hướng đấu tranh
vô sản
Tháng 6 – 1911, Nguyễn Ái Quốc đã lên đường đi tìm con đường cứu nước mới
để trở về nước giúp đồng bào thoát khỏi xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, điểm đến
mà Người nhắm đến là các nước phương Tây – nơi có khoa học – kỹ thuật phát triển
và những tư tưởng dân chủ tự do.
Người đã đi qua nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản phát triển
như Anh, Pháp, Mỹ với tên gọi Văn Ba. Sau nhiều nghiên cứu và khảo sát thực tiễn,
Người nhận thấy rằng cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp “chưa đến nơi” vì quần
chúng nhân dân vẫn đói khổ.
Vào cuối năm 1917, giữa lúc chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Người trở
lại nước Pháp. Tại đây, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp,
tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ báo
Việt Nam hồn để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp. Trong những ngày hoạt
động cách mạng sôi nổi đó, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ
làm chấn động toàn cầu. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng đến ánh
sáng của cách mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách
mạng vĩ đại đó.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị
Vecxay (1919) để phân chia quyền lợi. Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho những người
Việt Nam yêu nước sống tại Pháp đưa lên Hội nghị bản yêu sách đòi quyền tự do, dân
chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, bản yêu sách đó lại không được chú
ý đến ở Hội nghị. Từ thất bại đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra: Những lời tuyên bố dân tộc
10
tự quyết của bọn Đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc bị áp bức muốn độc lập, tự
do thực sự, trước hết phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải
phóng cho mình.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát
triển mạnh mẽ. Quốc tế Cộng sản do Lênin đứng đầu thành lập (1919) và tuyên bố
kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của các nước phương Đông. Tháng 7
– 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương đã đáp ứng đúng nguyện
vọng mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ: độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.
Tháng 12 – 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (Tours), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Đây chính là một bước ngoặc lớn trên con đường giải phóng dân tộc của Người. Bằng
tài trí và kinh nghiệm hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời
đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sửa. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ
phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến
với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cách mạng
vô sản.
Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đẩy mạnh việc nghiên cứu lý
luận giải phóng dân tộc theo học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin để tuyên truyền vào
nước ta, tiến hành chuẩn bị tư tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập đảng cộng sản
ở Việt Nam.
Năm 1921, dưới sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng với
một số chiến sỹ cách mạng khác lập ra Hội liên hiệp thuộc địa, tập hợp tất cả người
dân thuộc địa sống ở Pháp đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân. Hội đã cho xuất
bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ
bút…
Cuối năm 1921, Nguyễn Ái Quốc trình bày về dự thảo nghị quyết về vấn đề “Chủ
nghĩa cộng sản và các thuộc địa”, đưa kiến nghị thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa

11
trực thuộc ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng
Cộng sản Pháp (họp ở Mácxay) và được chấp nhận.
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa được thành lập và Nguyễn Ái Quốc được
cử là trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông Dương.
Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài đăng trên các báo: Người cùng khổ (Le Paria),
Nhân Đạo (L’Humanité) của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công nhân (La
Vieouvrière) của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp. Người viết Bản án chế độ thực dân
Pháp (Le Procès de la colonization Franỗaise) và được xuất bản đầu tiên ở Pari năm
1925. Bằng những bằng chứng cụ thể, sinh động, tác phẩm đã tố cáo các tội ác tày
trời của bọn thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa trước dư luận Pháp và toàn thế
giới.
Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp công nhân ở “chính quốc” và
nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, cách mạng vô sản ở các nước “chính quốc”
và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối quan hệ hữu cơ với
nhau. Do đó, để đảm bảo cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối
cùng thì cần sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên.
Các dân tộc thuộc địa có sẵn trong mình một sức mạnh vô cùng to lớn, hiểu về
giá trị của sự đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, nếu quyết tâm vùng lên đấu tranh
thì chắc chắn chủ nghĩa đế quốc sẽ sụp đổ.
Bản án chế độ thực dân Pháp đã vạch trần sự tàn ác, ngang ngạnh của thực dân
Pháp trên các nước thuộc địa, hướng nhân dân các nước đến với con đường giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản. Ở nước ta, trước hết là các tiểu tư
sản, thành phần tri thức, nhờ các bài viết của Nguyễn Ái Quốc trong thời kỳ ấy mà
hướng đến con đường cách mạng của người để đấu tranh giải phóng đất nước, đòi lại
độc lập cho dân tộc.
Tháng 6 – 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Matxcova tham dự Hội nghị Quốc tế nông
dân, đồng thời trực tiếp nghiên cứu kinh nghiệm cách mạng Tháng Mười Nga và chủ
nghĩa Lênin. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô và tạp
chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản.
12
Năm 1924, Người tham gia Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và các đại hội của
Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Phụ Nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ. Trong
hai bản tham luận quan trọng đọc tại Hội nghị Quốc tế nông dân và Đại hội lần thứ V
của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đề cập hai vấn đề lớn như sau:
Một là, tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc
với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
Hai là, vấn đề nông dân ở các nước thuộc địa.
Người thẳng thắn phê phán một số đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa đã
coi nhẹ vấn đề thuộc địa, chưa biết kết hợp phong trào cách mạng ở “chính quốc” và
ở các nước thuộc địa để lập nên một mặt trận đấu tranh chung.
Ngày 11-11-1924, Nguyễn ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây
Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia,
Malaixia, v.v., thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hạt nhân là
Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Đây là một
bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam. Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng
Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khoá học một số
được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được
cử đi học trường quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn trở về nước để "truyền bá lý luận
giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân".
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ
tại Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất
bản thành sách với tên gọi là Đường kách mệnh. Trong tác phẩm này, Nguyễn ái
Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Người nêu chân lý "muốn sống, phải làm cách mệnh", "cách mệnh là việc chung
của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người". Việc giải phóng dân tộc,
chủ yếu là do nhân dân ta tự làm lấy, vì vậy phải làm cho mọi người Việt Nam hiểu rõ
13
"vì sao làm cách mệnh", "không làm không được". Đường kách mệnh nhấn mạnh tính
chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc; lực
lượng cách mạng bao gồm "sỹ, nông, công, thương", trong đó công nông là "chủ cách
mệnh", là "gốc cách mệnh", còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị đế quốc
áp bức, song không cực khổ bằng công nông nên ba hạng ấy chỉ là "bầu bạn cách
mệnh của công nông".
Đường kách mệnh đã chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy
phải động viên, tổ chức và lãnh đạo đông đảo quần chúng vùng lên "đánh đuổi tụi áp
bức mình đi". Người phê phán hành động ám sát cá nhân và những khuynh hướng cơ
hội chủ nghĩa khác chỉ "xúi dân bạo động mà không biết cách tổ chức, làm cho dân
quen thói ỷ lại mà quên tính tự cường". Quần chúng một khi được giác ngộ, có tổ
chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch. Đường kách mệnh cũng còn chỉ
rõ rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cần được sự
giúp đỡ quốc tế, nhưng "muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy
mình đã". Cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa quan hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng thúc đẩy nhau trong quan hệ
bình đẳng. Đường kách mệnh khẳng định: muốn đưa cách mạng đến thắng lợi,
"Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không
có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam".
Đường kách mệnh dành một phần thích đáng để giới thiệu các tổ chức chính trị
của Quốc tế Cộng sản như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên... và hướng dẫn
nhân dân Việt Nam tham gia các tổ chức đó.
Đường kách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập
chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tháng 4-1927, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng Trung Quốc, đàn áp
những đảng viên cộng sản và những người cách mạng. Nguyễn ái Quốc phải rời

14
Quảng Châu sang Liên Xô. Mùa thu năm 1928, Người về Thái Lan tiếp tục công việc
chuẩn bị thành lập Đảng.
Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng cứu nước
giải phóng dân tộc theo con đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc ngày càng chiếm
ưu thế.
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương "Vô sản
hóa", đưa hội viên của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trong nước, cùng
sống và làm việc với công nhân, đồng thời cũng là phương thức truyền bá lý luận giải
phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng của Nguyễn
ái Quốc - Hồ Chí Minh đã phải "chọc thủng lưới sắt của bọn thực dân Pháp" mới đến
được với nhân dân Việt Nam ta.
Cùng với cuộc đấu tranh chống lại chính sách khủng bố của bọn đế quốc, những
người theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng của học thuyết
Mác-Lênin còn phải đấu tranh với các đề xướng và vận động thành lập các chính
đảng quốc gia, thành lập "khối dân tộc". Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng
kiên quyết đấu tranh chống lại quan điểm lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Phạm
Quỳnh, thuyết "trực trị" của Nguyễn Văn Vĩnh. Cuộc đấu tranh chống lại đường lối
của Việt Nam Quốc dân Đảng, một đường lối dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản
không kém phần gay gắt.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với việc xây dựng các tổ chức
cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị
quan trọng. Số hội viên của Hội tăng nhanh. Năm 1928, có 300 hội viên, năm 1929,
có 1.700 hội viên. Tổ chức công hội cũng đã được xây dựng trong nhiều nhà máy,
hầm mỏ. Một số đảng viên tiên tiến trong Tân Việt cũng ngả theo Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên. Nhiều người đã trở thành hội viên của Hội.

15
Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức, vận động nhân dân đấu
tranh đã dấy lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc
biệt là phong trào công nhân.
Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào đã diễn ra với những hình thức sơ khai
như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký, đưa đơn phản kháng, rồi
tiến dần lên những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi công. Năm
1907, đã nổ ra cuộc bãi công đầu tiên của 200 công nhân viên chức hãng Liên hiệp
Thương mại Đông Dương (LUCI) ở Hà Nội. Năm 1912, có cuộc bãi công của công
nhân Ba Son và cuộc bãi khóa của học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn... Ngoài ra,
công nhân còn tham gia các phong trào yêu nước khác: công nhân mỏ than Đông
Triều tham gia đội nghĩa quân của lãnh binh Pha và lãnh binh Hy (1892); công nhân
làm đường Phủ Lạng Thương - Lạng Sơn tham gia phong trào khởi nghĩa Yên Thế,
tập kích các đạo quân đóng dọc đường sắt và nhà ga (1894); những bồi bếp và công
nhân làm trong quân đội Pháp tham gia vụ đầu độc binh lính và sĩ quan Pháp ở Hà
Nội (1908); công nhân tham gia khởi nghĩa Duy Tân ở Huế (1916); trong cuộc binh
biến ở Thái Nguyên, công nhân tham gia trực tiếp chiến đấu, hoặc rèn vũ khí cho
nghĩa quân (1917).
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân ở nước ta ngày càng đông
đảo và tập trung hơn. Trong những năm 1919-1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu
biểu là các cuộc bãi công của công nhân viên chức các sở công thương tư nhân Bắc
Kỳ, công nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn, Chợ Lớn (1922), các nhà máy dệt, rượu, xay
xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương (1924). Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của
hơn 1.000 công nhân Xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son, Sài Gòn (8-1925) do Tôn Đức
Thắng tổ chức… Cuộc bãi công được công nhân nhiều xưởng ở Sài Gòn - Chợ Lớn
ủng hộ. Chủ hung hãn đe dọa, nhưng không khuất phục được, cuối cùng chúng phải
nhượng bộ, chịu tăng 10% lương cho công nhân. Mặc dù vậy, sau khi trở lại làm việc
công nhân Ba Son còn tìm cách lãn công, kéo dài thời hạn sửa chữa, làm cho chiến
hạm Misơlê phải nằm chờ 4 tháng trời mới nhổ neo đi lên hướng Bắc được. Ngoài ra,
16
trong phong trào dân chủ những năm 1925-1926, công nhân đã tham gia các cuộc mít
tinh, biểu tình, đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh, v.v..
Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919-1925 đã có bước phát triển
mới so với trước chiến tranh. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy
mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Từ năm 1926 đến năm 1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra
đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong những năm 1926-
1927, mỗi năm có hàng chục cuộc bãi công. Trong hai năm 1928-1929 nổ ra hơn 40
cuộc đấu tranh, tiêu biểu là các cuộc bãi công ở Nhà máy xi măng Hải Phòng, Nhà
máy sợi Nam Định, Nhà máy diêm và Nhà máy cưa Bến Thủy, Xưởng sửa chữa ô tô
Avia Hà Nội, Nhà máy sợi Hải Phòng, Mỏ than Hòn Gai, Nhà máy xe lửa Trường Thi
(Vinh), Xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son (Sài Gòn), Đồn điền cao su Phú Riềng, v.v..
Các cuộc đấu tranh đó đã kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với những khẩu hiệu chính
trị, vượt ra ngoài phạm vi một nhà máy, đồn điền, bước đầu có sự liên kết nhiều
ngành, nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng
lên rõ rệt tuy chưa được đều khắp. Phong trào phát triển mạnh mẽ, có sức quy tụ và
dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.

17
Chương 2: Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sứ
mệnh lịch sử của Đảng.
1. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng
lớp nhân dân lao động Việt Nam dâng lên mạnh mẽ và có ý thức chính trị vô sản rõ
rệt. Vào lúc này, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên không còn thích hợp
và đủ sức lãnh đạo phong trào, đòi hỏi phải sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách
mạng. Yêu cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc
đấu tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam.
Phong trào Vô sản hóa (1928) của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên diễn ra
mạnh nhất là ở Bắc Kỳ, làm cho phong trào cách mạng ở đây phát triển sôi nổi hơn,
yêu cầu thành lập đảng cộng sản cũng xuất hiện sớm hơn. Những người tiến tiến
trong Việt Nam cách mạng thanh niên Bắc Kỳ thấy cần thiết phải có một đảng thật sự
của giai cấp công nhân, một Đảng Cộng sản, mới có đủ khả năng để đưa cách mạng
Việt Nam tiến lên.
1.2. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản
Tháng 3-1929, những người tích cực trong Kỳ bộ Việt Nam cách mạng Thanh
niên Bắc Kỳ họp ở số nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng
sản đầu tiên ở Việt Nam. Chi bộ này gồm 8 người: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh,
Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Dương Hạc Đính
và Nguyễn Tuân, do Trần Văn Cung làm Bí thư.
Chi bộ thảo luận và thống nhất nhận định về phong trào của giai cấp công nhân
và tổ chức đảng nhằm xác lập dần dần quyền lãnh đạo thật sự của giai cấp vô sản Việt
Nam, một nhân tố quyết định thành công triệt để của cách mạng. Chi bộ khẳng định
việc lập tổ chức cộng sản này chỉ là hạt nhân để xây dựng Đảng Cộng sản sau này,
xác nhận rằng vai trò của tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên trước đây là cần
thiết, nhưng đến giờ không còn đủ sức lãnh đạo phong trào nữa, do đó cần giải thể và
18
thành lập một chính đảng duy nhất của giai cấp vô sản, đó là đảng cộng sản thay thế
cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Chi bộ đề ra nhiệm vụ:
-Tổ chức cộng sản này phải giữ bí mật để phát triển thêm những đồng chí cộng
sản, thành lập các tổ và các chi bộ khác ở tỉnh; trong Đại hội Việt Nam cách mạng
thanh niên sắp tới, sẽ vận động các đại biểu tán thành chủ trương tồ chức Đảng Cộng
sản.
- Vận động các đại biểu địa phương bầu trong số những người trong tổ chức
cộng sản đầu tiên làm đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc.
- Nắm chắc Kỳ bộ Việt Nam cách mạng thanh niên Bắc Kỳ, hướng họ vô sản
hoá để phát triển tổ chức công hội, nông hội, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và lãnh
đạo các cuộc đấu tranh.
Sự kiện chi bộ cộng sản thành lập ở Bắc Kỳ tháng 3- 1929 là một thắng lợi đầu
tiên về mặt tổ chức của xu hướng cách mạng vô sản ở Việt Nam. Nó chứng tỏ giai
cấp công nhân Việt Nam đang mạnh mẽ vươn lên giành quyền lãnh đạo cách mạng.
Nó là cơ sở cho sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng sau này.
Tháng 5-1929, tại đại hội Đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp
tại Hương Cảng đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc
tiến thành lập đảng cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự dẫn đầu kiên
quyết đấu tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu đó không được chấp
nhận, đoàn đại biểu Bắc Kỳ liền rút khỏi Đại hội về nước. Sau khi về nước, đoàn đại
biểu Bắc Kỳ đã giải thích lý do thoát ly Đại hội và khẳng định đã có đủ những điều
kiện để thành lập chính đảng cách mạng.
Ngày 17-6-1929, khoảng 20 đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại
số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng Sản
Đảng; thông qua qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm làm Đảng kỳ và quyết
định bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận và cử ra Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời của Đảng.
Trước những ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu
nước ở Nam Kỳ theo xu hướng cộng sản, lần lượt tổ chức những chi bộ cộng sản.
19
Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng
được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí
Bônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Nam Cách mạng đảng là một tố chức thanh niên yêu
nước có cả Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…chịu tác động mạnh mẽ của Hội Viêt
Nam Cách mạng Thanh niên đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tân Việt ra
đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng
phát triển, lý luận Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc có ảnh hưởng
mãnh mẽ đến Tân Việt, cuốn hút nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến tới đi theo Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên. Trong nội bộ Tân Việt đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa
hai khuynh hướng tư tưởng cách mạng và cải lương, cuối cùng xu hướng cách mạng
theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã ngã
sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Số tiên tiến còn lại chuẩn bị để tiến tới
thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng tác động
mạnh mẽ đến sự phân hóa trong Tân Việt, những đảng viên tiên tiến đã tách ra thành
lập các chi bộ cộng sản.
Tháng 9-1929, những người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn
việc thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và Tuyên đạt, khẳng định “ …
những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt Cách mạng Đảng trịnh
trọng truyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt Cách mạng Đảng, toàn thể thợ
thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn… Muốn làm tròn nhiệm vụ thì trước mắt của Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn là một mặt xây dựng cơ sở chi bộ của Liên đoàn tức là thực hành cải tổ Tân
Việt Cách mạng Đảng thành đoàn thể cách mạng chân chính…”. Đây là một chính
đảng cách mạng vô sản. Mục tiêu của đảng là đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho
xứ Đông Dương, xóa bỏ nạn người bóc lột người, xây dựng chế độ công nông chuyên
chính, tiến lên chế độ cộng sản chủ nghĩa. Cho đến cuối tháng 12-1929, tại Đại hội
các đại biểu liên tỉnh tại nhà đồng chí Nguyễn Xuân Thanh - Ủy viên Ban chấp hành
20
liên tỉnh (ga Chợ Thượng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), nhất trí quyết định “Bỏ tên
gọi Tân Việt. Đặt tên mới là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn”.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929
đã khẳng định bước tiến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu hướng và nhu cầu
bức thiết của lịch sử Việt Nam. Trong Báo cáo gửi Quốc hội Cộng sản ngày 28-2-
1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Hội An Nam Thanh niên Cách mạng do chúng tôi tổ
chức từ năm 1925. Có thể nói rằng, nó là quả trứng, mà từ đó, nở ra con chim non
cộng sản.”
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ đường lối của Quốc
tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là
đảng cách mạng chân chính, tình trạng đó không tránh khỏi phân tán về lực lượng và
thiếu thông nhất về tổ chức trên cả nước. Đặc biệt, cuối năm 1929, hai tổ chức: Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng tranh chấp ảnh hưởng trong quần
chúng, bài xích lẫn nhau và mỗi tổ chức đều muốn đứng ra thống nhất các tổ chức
cộng sản.
Trước tình hình đó, ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng
sản Đông Dương, nêu rõ: “Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong
trào quần chúng công nhân và nông nhân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều
nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của cuộc Cách mạng ở Đông Dương”. Vì
vậy: “Nhiệm vụ quan trọng và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông
Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp vô sản, nghĩa là một
Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và
là tổ chức duy nhất ở Đông Dương”.
2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “Một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác". Chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Về chính
21
trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối
ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển
hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt
Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam
thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị
riêng. Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách
bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng
nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ
thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. Về văn
hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản ảnh
hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch
sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt. Phần lớn
giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa
chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức
độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận
người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn
thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là
mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà
đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược.
Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân
Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào
khủng hoảng về đường lối cách mạng. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các
cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh
mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên
các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến
như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương
Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng
22
Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương
Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước.
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều
nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911
người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này)
ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành
độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian
khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và
nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm
1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt
Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi
Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân
tộc Việt Nam. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin đăng trên báo
Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc
lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình. Từ ngày 25 đến 30/12/1920,
Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu
Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành
lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Từ năm 1921-1930,
Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ
sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn
bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức
23
nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại
trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung
Quốc). Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng
chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự
ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại
Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930,
những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng)
đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một
nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ
chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải
thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng
sản ở Việt Nam.
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung
Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản.
Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo
luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột
cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương". Hội nghị đã
nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến
công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc
lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược
vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập
24
Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy
ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời
kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung
cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức
thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng
sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam,
quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ
chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của
sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn
bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của
những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã
trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc
Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế
giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng
góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân
loại trên thế giới.
3. Sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời gánh vác trách nhiệm là một tất yếu, thực hiện sứ
mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, đồng thời chính trong quá trình lãnh đạo của
cách mạng, Đảng ta được tôi luyện, xây dựng, trưởng thành, không ngừng phát triển
25
lớn mạnh, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta lập nên những kỳ
tích vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và mang tầm thời đại. Trong những cao trào cách mạng
giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945, vượt lên sự khủng bố khốc liệt của thực dân
Pháp và sau đó là phát xít Nhật, khi hàng vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu
nước bị bắt, tù đày và giết hại, trong đó có nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của
Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng bị phá vỡ nghiêm trọng, song trải qua 15 năm đấu
tranh liên tục, Nhân dân Việt Nam đã chớp được thời cơ “ngàn năm có một”, giành
được thắng lợi trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, giành chính quyền trong
toàn quốc, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đối với dân
tộc Việt Nam, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là trang sử vẻ vang chói lọi, làm rạng
rỡ truyền thống lịch sử kiên cường, ý chí bất khuất, anh dũng và đoàn kết nhất trí một
lòng của toàn dân tộc, nó “đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng
xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc”.
Đánh giá về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp
lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc”.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới
thành lập phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách do thiên tai, địch họa.
Với bản lĩnh và uy tín chính trị của mình, Đảng đã có những quyết sách sáng suốt, kịp
thời lãnh đạo từng bước diệt “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, đưa cách mạng
nước ta vượt qua giai đoạn “nước sôi lửa bỏng”. Chín năm kháng chiến trường kỳ, ta
càng đánh càng mạnh, thực dân Pháp càng lâm vào thế bị động.

26
Thắng lợi Điện Biên Phủ (5/1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã
làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng; cổ vũ toàn dân, toàn quân một lòng một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của
Đảng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Đây cũng là “Lần
đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân
hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là
một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Việt Nam có
ảnh hưởng lan tỏa rộng lớn và sâu sắc tới cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa, thức tỉnh, cổ vũ các phong trào yêu nước, cách mạng ở các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc ở Á - Phi - Mỹ Latinh đứng lên tự giải phóng mình, giành lấy tự do
và độc lập dân tộc, dẫn tới sự tan rã và sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân cũ đã tồn tại hàng trăm năm, góp phần to lớn làm thay đổi sâu sắc bộ
mặt thế giới trong thế kỷ XX.
Sau năm 1954, khi ách thống trị thực dân kiểu cũ đã bị lật đổ, thực dân Pháp phải
gánh chịu thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ - cường quốc số một thế giới về tiềm lực kinh
tế và quân sự, với dã tâm của mình đã hất cẳng Pháp, tiếp tục tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược nước ta với mức độ và quy mô ngày càng lớn hơn. Trong bối cảnh đó,
Đảng ta đã căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, so sánh thế và lực giữa ta và
địch, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, với trí tuệ và kinh
nghiệm lãnh đạo của mình đã đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn,
sáng tạo, đó là tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam và tổ chức thực hiện đường lối
đó phù hợp với điều kiện cụ thể và sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong từng
giai đoạn. Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Báo cáo
chính trị tại Đại hội IV (năm 1976) của Đảng chỉ rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng
thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào
lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về
sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch
27
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc.
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 91 năm qua đã
chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Thông
qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành,
xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của
Nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng
chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh
nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa
sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
4. Ý nghĩa lịch sử và thành tựu
4.1. Ý nghĩa lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi thành lập cho
đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh
của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt
Nam. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 90 năm qua đã minh
chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất
nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua 90 năm lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức được vị
trí, vai trò, trọng trách của mình trước vận mệnh dân tộc, tương lai của đất nước, tạo
ra những dấu mốc quan trọng của cách mạng Việt Nam “Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và
từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.

28
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong
và đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh tụ chính trị, đội tiên
phong và đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng
phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác - con
đường cách mạng vô sản”. Để thực hiện được mục tiêu đó, Người chỉ rõ: “Trước hết
phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Đảng Cộng
sản Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo nhân dân cùng một lúc phải làm tư sản cách
mạng, làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm nổi bật
nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo và cũng là một
đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng
Việt Nam. Chấm dứt sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt
Nam, khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam từ đây đã nắm quyền tuyệt đối lãnh
đạo cách mạng với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, cách
mạng Việt Nam đã có một đường lối lãnh đạo đúng đắn được đổ ra trong Chính
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng.
Có hay không vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với giai cấp và xã hội, câu
hỏi này chỉ có người dân Việt Nam mới có câu trả lời chính xác. Chính nhân dân -
chứ không phải ai khác mới là cán cân chân lý, là người đánh giá chính xác nhất vai
trò, uy tín của Đảng, là người có tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn sự lãnh đạo
đối với cách mạng Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Những kẻ bán nước cầu
vinh, vụ lợi chính trị tuyên truyền bịa đặt, giả danh, giả nghĩa… thì không đủ tư cách,
nhân phẩm để có tiếng nói trong vấn đề này. Dù họ có nỗ lực đến đâu và cố tình bịa
đặt “bóp méo sự thật” đến mức độ nào thì kết quả nhận được cũng sẽ là sự tuyệt vọng.
Đảng ta không có quyền lợi nào khác ngoài quyền lợi được phục vụ nhân dân, được
phục vụ đất nước và trên thực tế Đảng ta đã là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
29
dân. Cho dù thời cuộc có thay đổi phức tạp, khó khăn, nhưng người dân Việt Nam
vẫn một lòng theo Đảng.
4.2. Thành tựu
Với những cống hiến lớn lao của Đảng đối với Tổ quốc và với dân tộc, ngày nay
Đảng ta vô cùng xứng đáng với lời đánh giá của Bác Hồ nhân dịp kỷ niệm 30 năm
Ngày thành lập Đảng: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta
vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã lập nên những kỳ tích trong thế kỷ 20
mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của các cuộc
kháng chiến chống xâm lược giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam từ một
đất nước thuộc địa, nửa phong kiến chưa có tên trên bản đồ thế giới, đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam từ một nước nhược tiểu, đã vươn lên phát triển không ngừng. Chúng ta
đã thoát nghèo thành công, trở thành một nước có thu nhập trung bình. Năm 2019,
GDP đạt 7,02% thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao hàng đầu khu vực và trên thế
giới. Kinh tế vĩ mô ổn định, quốc phòng được giữ vững, an ninh, trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm. Từ một đất nước 95% dân số mù chữ trước năm 1945, đến nay Việt
Nam gần như xóa hẳn nạn mù chữ. Nền giáo dục Việt Nam được vinh danh trên thế
giới với nhiều giải thưởng.
Từ một đất nước đi đàm phán hòa bình, Việt Nam giờ đã trở thành một thành viên
có trách nhiệm với hòa bình, trật tự thế giới. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế
không ngừng mở rộng, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 quốc gia và
vùng lãnh thổ.
GS Vũ Minh Giang, Nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Chủ tịch
Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định: Trong thời
gian gần đây chúng ta thấy rồi, Đảng cộng sản Việt Nam rõ ràng có vị thế quốc tế hết
sức đặc biệt. Điều đó thì không ai phủ nhận những điều mà chúng ta có lẽ cần phải
suy nghĩ nhiều hơn là nguyên nhân nào dẫn tới một thực tế ấy, thì có nhiều cách phân
tích và chắc chắn là có nhiều nguyên nhân. Nhưng riêng đối với bản thân tôi thì có lẽ
30
một nguyên nhân quan trọng nếu không nói là quan trọng nhất chính là vì vị thế của
dân tộc Việt Nam trong con mắt quốc tế ngày càng được nâng cao. Dân tộc Việt Nam
được bạn bè quốc tế kính trọng."
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định với tất cả sự khiêm
tốn của người cách mạng, có thể nói rằng đất nước Việt Nam chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay. Chúng ta có thể tự hào và tin tưởng
vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta nhất định sẽ đi lên
sánh vai cùng bạn bè các nước trên thế giới.

31
Chương 3: Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sứ mệnh lịch sử từ khi thành lập
cho tới nay.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử chứa đầy máu và nước mắt, là lịch sử của
các cuộc chiến tranh vĩ đại, lịch sử đã chứng kiến sự bất lực trước nhiệm vụ tìm ra
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và chứng kiến sự chuyển giao ngọn cờ giải
phóng dân tộc vào tay giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Cho tới giai đoạn này chúng ta không còn chiến tranh tàn khốc như trước nữa nhưng
các cấp lãnh đạo Đảng của chúng ta vẫn luôn luôn cải thiện, xây dựng Đảng ngày
càng hoàn thiện, xứng đáng với lòng tin nhân dân đặt cho Đảng. Bởi vì, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng
lãnh đạo”. Điều này được thể hiện rõ trong công cuộc đổi mới đất nước và cuộc “cách
mạng” chống dịch Covid.
Hiện nay, Đảng luôn ra sức phấn đấu thực hiện Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp
nhà nước, lấy xây dựng Đảng làm then chốt. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng nhấn mạnh, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và khoá XII về xây dựng Đảng
đã khẳng định, phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và
kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt,
ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng
cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; tăng cường mối liên hệ mật
thiết với nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì Đảng đó
có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc
đi lên.
Trong thời gian đại dịch Covid hoành hành dữ dội với hơn 200 quốc gia, số người
thiệt mạng vì Covid ngày càng tăng thì ở Việt Nam đang hạn chế mức độ lây lan ít
nhất có thể, nằm trong tầm kiểm soát. Để có được điều đó, Đảng ta luôn lấy dân làm
gốc “không ai bị bỏ lại phía sau”, cùng toàn dân đoàn kết chống dịch, không ai đứng
ngoài cùng vào cuộc cùng nhau chống dịch. Chủ động vào cuộc ngay từ khi bắt đầu
32
dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước. Khoanh vùng ngăn chặn lây lan,
thực hiện giãn cách không được chủ quan, sẵn sàng đối mặt với tình huống xấu, luôn
có sẵn phương án phòng bị, không để bị động bất ngờ, nâng mức cảnh báo “chống
dịch như chống giặc”. Bên cạnh đó, có thể thấy mối quan tâm lớn nhất của người dân
trên cả nước là tình hình diễn biến của dịch COVID-19, ngay từ những ngày đầu dịch
bệnh, qua những tin nhắn đồng loạt từ Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông đến
từng điện thoại… Đã giúp mỗi người dân tiếp cận được nguồn thông tin chính thống,
ngăn chặn những thông tin sai, kịp thời để hiểu rõ sự nguy hiểm của dịch bệnh và
cách phòng ngừa. Những thông tin về diễn biến của bệnh được cơ quan chức năng
cập nhật và thông báo công khai, minh bạch trên trang của Bộ Y tế và các phương
tiện truyền thông, giúp người dân tin tưởng vào chính quyền, cũng như thấy rõ được
mức độ lây lan để có cách ứng phó hợp lý. Bên cạnh việc phòng chống dịch bệnh cần
phải tập trung phát triển kinh tế, với quan điểm tính mạng con người là trên hết, được
Chính phủ, thủ tướng Chính phủ coi là nhiệm vụ kép để thoát ra khỏi khủng hoảng.
Điều này đã được chứng minh Việt Nam là một trong số ít nước tăng trưởng “dương”
trong thời đại Covid “đốn hạ” nhiều nền kinh tế lớn.
Qua hai điều trên, sứ mệnh lịch sử và sự ra đời của Đảng một lần nữa đã được
khẳng định và phát huy.

33
C- KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đó đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của
cách mạng Việt Nam, cấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng kéo dài mấy
thập kỷ. Từ đó cách mạng Việt Nam đã có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản
Việt Nam, một Đảng kiên cường có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, độ
phát triển với những bước đi kiên cường, vững chắc, đủ sức đương đầu với mọi kẻ
thù. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh, là con người vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người sáng lập ra Đảng, có công
truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam Đảng cộng sản Việt Nam
ngay từ khi mới ra đời đó mang trong mình bản chất cách mạng và khoa học, đố kết
hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa yêu
nước, đó thúc đẩy phong trào cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa
đất nước thoát khỏi ách thống trị của hai đế quốc lớn của thế giới, giải phóng dân tộc
đưa đất nước tiến bước theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ đã chọn. Đó quả
là những thành tựu hết sức lớn lao đối với dân tộc ta, Đảng cộng sản Việt Nam đó lối
tiếp truyền thống đấu tranh bất khuất giữ gìn độc lập, chống lại mọi kẻ thù có âm mưu
đô hộ nước ta từ ngàn xưa để lại. Ngày nay Đảng cộng sản Việt Nam lại tiếp tục lãnh
đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội thể hiện vai trò của một tổ chức tiên phong trong
công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
Tìm hiểu sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh trong nước và
quốc tế như trên mới thấy hết được những ý nghĩa to lớn của sự ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam, đồng thời cũng thấy được sự vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh
trong việc thành lập Đảng Sự vĩ đại ấy là ở chỗ Người đã sớm đặt cách mạng Việt
Nam vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản, ở chỗ Người đã để lại cho Đảng ta, dân
tộc ta một hệ thống quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam có giá trị lý luận và thực
tiễn to lớn, giúp chúng ta củng cố niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo toàn diện và
tuyệt đối của Đảng.

34
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Báo quân khu 7 Online (29/01/2019). Sự ra đời và sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng
sản Việt Nam. Truy cập tại: https://bit.ly/3eZJDQm
 Cổng thông tin điện tử An Giang (01/02/2021). Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Truy cập tại: https://bit.ly/3hbGqzU
 Cổng thông tin điện tử Đại biểu nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (01/02/2013). Tính tất yếu
khách quan của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam. Truy cập tại:
http://dbndhatinh.vn/dbnd/portal/folder/tin-kt---ct---xh-40/news/tinh-tat-yeu-khach-
quan-cua-su-ra-doi-dang-cong-san-viet-nam.html
 Cổng thông tin điện tử sở nội vụ tỉnh Bắc Giang (27/03/2020). Sự ra đời và sứ
mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai cấp, dân tộc và xã hội. Truy
cập tại: https://bit.ly/3bmNSVx
 PGS.TS. Lê Văn Yên (2020). Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi trong tiến trình cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
 Tạp chí Cộng Sản (03/07/2020). Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và
xã hội là tất yếu khách quan. Truy cập tại: https://bit.ly/3tkZE8P
 Tạp chí tài chính online (11/03/2015). Đảng Cộng sản Việt Nam - Sứ mệnh lịch sử
và bản lĩnh chính trị. Truy cập tại: https://bit.ly/2RnhTND
 Thạc sĩ Bùi Hữu Thêm (2017). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu lịch sử.
Trường chính trị tỉnh Tuyên Quang.
 Trang thông tin điện tử Đảng ủy khối các Cơ quan Trung Ương (17/08/2020). Vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 và công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay. Truy cập tại:
https://bit.ly/3nOM6kI

35

You might also like