You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

VIỆN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG


-----------

TIỂU LUẬN
Ý NGHĨA SỬ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Tiến Dũng


Sinh viên thực hiện: Mai Trần Duy
Nguyễn Anh Mười
Sái Văn Lượng
Lê Thành Chỉnh

2
Hà Nội - năm 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................................3
2. Mục đích, yêu cầu:...........................................................................................................3
3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu:..................................................................................3
NỘI DUNG..................................................................................................................................5
Chương 1: Tình hình thế giới và Viêt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.............................5
1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam:...............................5
2. Sự chuyển biến về kinh tế- xã hội ở Việt Nam.................................................................7
3. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam...................9
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời:...................................................................................10
Chương 2: Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam..................................................12
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử; là sản phẩm của sự kết
hợp Chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. 12
2. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo
cách mạng những năm đầu thế kỷ XX................................................................................14
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy cách mạng Việt Nam đã trở thành một
bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới........................................................................15
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết
định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam.. 16
5. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc- Hồ
Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta..................................................17
KẾT LUẬN................................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................20
ĐÁNH GIÁ................................................................................................................................21

2
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động
nhất, hào hung nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành
được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện những
bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu là thắng lợi của cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là
thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và đến
nay chúng ta cũng khẳng địng công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã và đang giành được những thắng lợi lớn, "có ý nghĩa lịch sử sâu
sắc"… Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc không thể phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày nay, nhân dân Việt
Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ đã và
đang được trực tiếp hưởng thụ
những thành quả của cách
mạng, từ sự lãnh đạo tài tình,
sáng suốt của Đảng, việc giáo
dục cho các thế hệ thấy được
vai trò và sự cống hiến to lớn
của Đảng và đặc biệt là thấy
được ý nghĩa to lớn từ sự xuất
hiện, sự ra đời của Đảng cộng
sản Việt Nam (3- 2- 1930) là vô
cùng quan trọng. Năm 2010 cũng là năm kỉ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng.
Do vậy, em lựa chọn đề tài: "Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng
sản Việt Nam" làm đề tài tiểu luận của mình.

2. Mục đích, yêu cầu:


Là công dân của một đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa, chịu sự dìu dắt của
Đảng Cộng Sản, chúng ta phải nắm vững phải quán triệt được tư tưởng đúng đắn
của Đảng, không ngừng nâng cao hiểu biết về Đảng và vai trò củaĐảng. Tư
tưởng của Đảng là một tư tưởng đúng, tư tưởng mang tính khoa học biện chứng
và điều đó đã được lịch sử chứng minh. Đựơc chứng minh ngay việc ra đời của
Đảng Cộng Sản, sự ra đời của Đảng Cộng Sản hoàn toàn hợp quy luật.
Vai trò của Đảng Cộng Sản vô cùng to lớn, vai trò đó có ảnh hưởng quan
trọng và không thể thiếu đối với lịch sử và tương lai của nhân loại.

3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu:


Nghiên cứu về ý nghĩa của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đối với
lịch sử dân tộc Việt Nam không còn là vấn đề mới, mà đây là vấn đề có lịch sử
3
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

nghiên cứu từ rất lâu và cũng được sự quan tâm của nhiều tác giả, nhóm tác giả,
nhiều cơ quan, tổ chức… và đến nay vấn đề này cũng được công bố rộng rãi, là
một trong những nội dung giảng dạy ở không chỉ các trường cao đẳng, đại học,
mà còn ở các cấp học phổ thông. Như vậy, đây là vấn đề đã mang tính phổ biến
và không còn là mới. Song, tác giả lựa chọn cách tiếp cận là đặt trực tiếp sự ra
đời của Đảng trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thế giới để qua đó làm nổi bật lên
ý nghĩa sự ra đời của Đảng.
----------------------------------------

4
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

NỘI DUNG
Chương 1: Tình hình thế giới và Viêt Nam cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt
Nam:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên bình diện thế giới xuất hiện những
biến cố lịch sử mang tính chất là bước ngoặt của xã hội loại người.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính bước chuyển
này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt: Mâu
thuẫn vốn có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất đã phát triển đến mức cần phải giải quyết. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất
yếu của cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù
cách mạng vô sản, cách mạng XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân
mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư
bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh
hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất
(1914- 1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và
trở thành một vấn đề mang tính thời đại.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị trí và
được xem là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, đó là lý luận của Chủ nghĩa
Mác- Lênin. Không những thế, lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênnin cũng chỉ ra
cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng mình.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác- Lênin đã xây dựng nên học thuyết lý
luận cách mạng không ngừng, với nội dung cơ bản: Giai cấp công nhân, sau khi
đã trưởng thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều
kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp
nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong kiến, thành
lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân (gọi tắt là chuyên chính công nông). Một cuộc cách mạng như vậy được gọi
là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Sự hoàn thành triệt để cuộc cách
mạng đó có nghĩa là tạo lập chiếc cầu trực tiếp để chuyển sang cách mạng XHCN
và giữa chúng không có ''bức tường thành ngăn cách''.
Lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và đặc biệt là Lý luận cách mạng
không ngừng đã chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa như Việt
5
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

Nam, đó là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con đường cách mạng vô
sản. Đồng thời Lênin cũng chỉ ra việc cần thiết phải xây dựng một Đảng cộng
sản kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh
mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học,
cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917.

Cờ huy hiệu Liên Bang CHXHCN Xô Viết

Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng


mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế
Vị trí của Liên Bang CHXHCN Xô Viết
giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa.
Cách mạng Tháng Mười đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản
trên thế giới: Đản cộng sản Đức, Đảng cộng sản Hunggari (1918), Đảng cộng sản
Mỹ (1919), Đảng cộng sản Anh, Đảng cộng sản Pháp (1920)…
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời
của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc
tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân
tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò tiên phong kể từ sau khi Ăngghen qua đời
năm 1895).
Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô sản
thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc
tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô
sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân". Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam:
"Xem trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng, chuyên nghiên
cứu và giúp đỡ cho cách mệnh bên Á- Đông… Xem khẩu hiệu Đệ tam quốc tế,
chẳng những rằng "vô sản giai cấp" mà lại thêm câu "… và dân tộc bị áp bức
trong thế giới liên hiệp lại"… Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn
làm cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế". Như vậy, tình hình
thế giới và những đặc điểm trên đây của thời đại có ảnh hưởng to lớn tới cách
mạng Việt Nam đặc biệt là quá trình hình thành Đảng cộng sản Việt Nam.

6
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

2. Sự chuyển biến về kinh tế- xã hội ở Việt Nam.


Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược
Việt Nam. mặc dù nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, song các phong trào đấu
tranh đều lần lượt thất bại. Đến 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai
trị ở nước ta và bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách phản
động và hà khắc.
Về chính trị, Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người
Pháp: Toàn quyền Đông Dương, Thống đốc Nam Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm
sứ Trung Kỳ, Công sứ các tỉnh. Biến vua quan Nam Triều thành bù nhìn tay sai.
Biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chúng dùng chính sách chia để trị. Chia nước ta thành 3 kỳ sát nhập với Lào,
Campuchia lập liên bang Đông Dương, nhằm xóa tên nước ta trên bản đồ thế
giới. Mỗi kỳ có chính sách khác nhau hòng chia rẽ và gây thù hận giữa các sứ
làm cho dân tộc ta không đoàn kết thống nhất, không tạo sức mạnh tổng hợp
chống lại chúng.
Về kinh tế, 1897 Pháp tiến
hành khai thác thuộc địa lần 1,
sau chiến tranh hế giới I (1914-
1918), chúng khai thác lần 2 - để
bù vào những tổn thất trong chiến
tranh (vốn đầu tư với tốc độ
nhanh, giai đoạn 1924 - 1928 hơn
6 lần 1847 - 1918), tập trung vào
hai khu vực chủ yếu là đồn điền
cao su và mỏ than.
Tăng cường ngân hàng để
cho vay nặng lãi và thâu tóm để
kiểm soát các hoạt động kinh tế ở
Đông Dương. Chúng tăng thuế
lên 2 - 3 lần so với trước, độc
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời
quyền thuốc phiện, rượu, muối. sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp

Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực kỳ man rợ và chiếm đoạt ruộng đất
của nông dân làm 50% nông dân ta mất ruộng đất. Đời sống nhân dân vô cùng
cực khổ.
Chúng du nhập phương thức sản xuất TBCN làm cho quan hệ kinh tế ở
nông thôn bị phá vỡ và hình thành nên những đô thị, khu dân cư và trung tâm
kinh tế mới.
Chúng duy trì phương thức sản xuất phong kiến, kết hợp hai phương thức
sản xuất để thu lợi nhuận siêu ngạch.

7
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

Chúng không du nhập phương thức sản xuất TBCN một cách hoàn chỉnh,
chính vì thế mà Việt Nam không thể tiến lên TBCN bình thường được. Vì vậy
nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu - vừa mang tính chất tư bản
thực dân - vừa mang tính chất phong kiến.
Về văn hóa, Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa nô dịch, ngu
dân, gây tâm lý tự ti, vong bản để chúng dễ bề thống trị... đồng thời chúng còn
tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn không cho ảnh hưởng đến văn hóa tiến bộ
trên thế giới vào Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đó nói rõ về chính sách này: "Chủ
nghĩa tư bản Pháp đó vào Đông Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó
đã dựng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những
bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách
thê thảm. Tụi xin nhấn mạnh từ "đầu độc" bằng thuốc phiện, bằng rượu... Chúng
tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong
cảnh ngu dốt tối tăm và chúng tôi không có quyền tự do học tập".
Sự thống trị của thực dân Pháp đã để lại nhiều hậu quả trong nền
kinh tế- xã hội Việt Nam.
Về Kinh tế, nền kinh tế Việt Nam không thể tiến lên TBCN bình thường
được, trái lại nó phát triển chậm chạp, què quặt, mất dần tính độc lập, ngày càng
lệ thuộc vào kinh tế Pháp; nó bị kìm hãm trong vòng lạc hậu - vừa mang tính chất
TB thực dân - vừa mang tính chất phong kiến.
Về xã hội, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn trong xã hội cũng bị chi phối bởi đặc
điểm này; xã hội Việt Nam hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen lẫn nhau, song
mâu thuẫn chủ yếu nhất nổi lên lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.
Về giai cấp cũng bị phân hóa triệt để do chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp, ngoài những giai cấp vốn có (địa chủ phong kiến và nông dân), xã
hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản, vô sản.
Thái độ chính trị của các giai cấp cũng có sự phân hoá sâu sắc, theo đó trong các
giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản đều có những bộ phận có thể lôi kéo, lợi
dụng trong lực lượng cách mạng; các giai cấp tiểu tư sản và nông dân đều có tinh
thần hăng hái cách mạng, là lực lượng quan trọng của cách mạng. Đặc biệt là
công nhân, tuy chiếm khoảng 1% dân số nhưng là lực lượng duy nhất có khả
năng lãnh đạo cách mạng nếu được trang bị Chủ nghĩa Mác- Lênin.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh
hướng khác nhau đã diễn ra: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi
nghĩa của nông dân Yên Thế (1885 – 1913), Phong trào Đông Du (1906 – 1908),
Phong trào Duy Tân (1906- 1908), Phong trào yêu nước dân chủ công khai
(1925 - 1926), Phong trào cách mạng Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu
nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau đã diễn ra: Phong trào Cần Vương
(1885 – 1896), Khởi nghĩa của nông dân Yên Thế (1885 – 1913), Phong trào
8
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

Đông Du (1906 – 1908), Phong trào Duy Tân (1906- 1908), Phong trào yêu
nước dân chủ công khai (1925 - 1926), Phong trào cách mạng quốc gia tư sản,
gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng (1927 - 1930)... Nhưng tất
cả các phong trào đều lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
3. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Trước yêu cầu bức bách
phải tìm con đường cứu nước
mới, tháng 6 năm 1911, Nguyễn
Ái Quốc sang phương Tây, nơi có
nền khoa học - kỹ thuật phát triển,
có tư tưởng dân chủ, tự do xem họ
làm thế nào rồi về giúp đồng bào
mình thoát khỏi gông cùm nô lệ.
Tháng 7 – 1920, Nguyễn ái
Quốc được đọc bản luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Danh thiếp của Nguyễn Ái Quốc khi làm thợ ảnh ở Paris
Lênin. Bản luận cương đã đáp
ứng nguyện vọng tha thiết của Người là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào.
Từ đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ III.
Tháng 12 - 1920 tại đại hội Đảng xã
hội Pháp ở Tua đã diễn ra cuộc tranh luận
gay gắt là gia nhập quốc tế III hay ở lại
quốc tế II. Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành gia nhập quốc tế III và tham gia sáng
lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh
dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời
hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu
nước đến với chủ nghĩa cộng sản. Từ chiến
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội toàn quốc
sĩ yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản.
lần thứ XVIII Đảng Xã hội tháng 12-1920
Sau khi đã lựa chọn chắc chắn cho
mình con đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và
tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Từ 1921 đến 1923, Nguyễn ái Quốc hoạt
động tại Pháp, thành lập "Hội liên hiệp thuộc địa",
viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và
được xuất bản lần đầu tiên ở Pari vào 1925.
Từ tháng 6 - 1923 đến 1924, Nguyễn ái
Quốc đi Liên Xô tham dự nhiều Hội nghị và Đại
hội quốc tế.
9
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

Từ 11-11-1924 đến 1927, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc,


thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông. Tháng 6 - 1925, Người
sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Bìa cuốn “Đường cách mệnh” xuất
Đây là bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt bản lần đầu tiên năm 1927
tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ
1925 - 1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Đầu năm
1927, những bài giảng của Người được tập hợp thành sách với tên gọi “Đường
cách mệnh”, với những nội dung cơ bản vạch ra phương hướng cơ bản về chiến
lược và sách lược của cách mạng ở Việt Nam.
Năm 1928, Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên chủ trương “Vô sản hóa”,
Đến 1929 phong trào công nhân và phong
trào yêu nước phát triển rất mạnh mẽ. Các
yếu tố thành lập Đảng đã xuất hiện, Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên bị phân
liệt, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần
lượt ra đời. Yêu cầu của phong trào dân tộc
dân chủ ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự lãnh
Hội nghị thành lập đảng cộng sản Việt Nam
(3-2-1930). Ảnh chụp tranh của Phan Kế An đạo của một Đảng Cộng sản.
Nguyễn ái Quốc với tư cách là biệt phái viên của Quốc tế cộng sản, triệu tập các
tổ chức cộng sản và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ 6- 1 đến 7-2-1930 tại Cửu Long-
Hương Cảng- Trung Quốc.
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời:
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước thì
những đồng chí hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long Hà Nội vào đầu 3-1929
để tiến hành thành lập ra chi bộ cộng sản (CS) đầu tiên ở trong nước và chi bộ
này đã ra nghị quyết: phải thành lập ra Đảng Cộng Sản. Cuối 3-1929 đại hội kì
bộ Bắc Kỳ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng được tiến
hành và đại hội này đã thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi bộ cộng sản
đầu tiên đồng thời đại hội cũng cử đại biểu đi dự ĐẠI HỘI thanh niên toàn quốc
và giao nhiệm vụ cho các đồng chí đại biểu: phải đấu tranh để chủ trương thành
lập Đảng được chấp thuận tại đại hội thanh niên toàn quốc.
Ngày 1-5-1929: đại hội lần thứ I của Việt Nam thanh niên CM đồng chí
hội được tiến hành tại Hương Cảng Trung Quốc. Tại đại hội này, đoàn Đại biểu
Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng lại không được đại hội chấp thuận.
Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập ra tổ chức cộng sản đầu
tiên là Đông Dương Cộng Sản Đảng (6-1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí
thư.
7-1929: Thành lập An Nam Cộng Sản Đảng.

10
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

9-1929: Thành lập Đông Dương Cộng Sản liên đoàn.


Trước sự xuất hiện 3 tổ chức
cộng sản ở trong nước thì Quốc tế
CS đã viết thư kêu gọi những người
CS ở Việt Nam là phải nhanh
chóng hợp nhất 3 tổ chức CS, thành
lập Đảng CS đồng thời giao nhiệm
vụ cho đồng chí Nguyễn Ai Quốc
là thay mặt quốc tế CS hợp nhất 3
tổ chức CS thành lập ra Đảng CS.
Sau chỉ thị của quốc tế CS đồng
Cờ Đảng Cộng Sản Việt Nam
chí Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay
ngay vào việc chuẩn bị các văn kiện cho hội nghị hợp nhất và khi mọi công tác
chuẩn bị đã hoàn tất thì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức CS tiến hành 3 đến 7-2-1930
tại Hương cảng Trung Quốc: Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến xung đột cũ,
quyết định thành lập Đảng CS và lấy tên là Đảng CS Việt Nam, thông qua chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng, bầu Ban chấp hành trung ương lâm
thời. Hội nghị được coi như là hội nghị thành lập Đảng và các văn kiện do Hội
nghị thông qua chính là cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước ngoặc vĩ đại
trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp Công nhân Việt
Nam đã trưởng thành. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa Chủ
nghĩa Mác-Lenin và phong trào Công nhân. Đây là quy luật thành lập Đảng của
giai cấp Công nhân Việt Nam.

---------------------------------------
“Tôi chỉ có một Đảng Việt
Nam”.
Hồ Chí Minh

“Nước VIệt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”.
Hồ Chí Minh

11
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

Chương 2: Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản


Việt Nam
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử; là
sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt
Nam và hệ tư tưởng Mác- Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử.
Trước ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, hàng loạt các phong trào đấu
tranh nổ ra của nhiều giai - tầng trong xã hội, với nhiều khuynh hướng chính trị
khác nhau: tiêu biểu cho khuynh hướng phong kiến là Phong trào Cần Vương do
vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết khởi xướng. Do lực
lượng của phong trào quá mỏng nên phong trào sớm bị thất bại. Điều đó cho thấy
giai cấp địa chủ phong kiến không còn đủ vai trò và uy tín để kêu gọi và triệu tập
lực lượng trong quần chúng nhân dân.
Cùng thời gian với phong trào Cần Vương còn có phong trào đấu tranh
của giai cấp nông dân lớp dưới mà tiêu biểu là cuộc đấu tranh gần 30 năm của
nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Nhưng còn "nặng cốt cách
phong kiến" nên phong trào cũng đi vào kết cục là thất bại.
Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của Việt
Nam Quốc dân đảng (1927 - 1930). Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn
Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất
theo khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản,
địa chủ, cả học sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về chủ trương Đảng mô phỏng chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn.
Về chính trị, Đảng chủ trương đánh Pháp, xóa bỏ chế độ vua quan, lập dân
quyền, nhưng chưa bao giờ có đường lối chính trị rõ ràng, cụ thể. Về tổ chức
Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ TW đến cơ sở nhưng chưa bao giờ có một
hệ thống tổ chức thống nhất. Về phương pháp đấu tranh, nặng ám sát cá nhân, lấy
bạo động làm lối thoát.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở
Yên Bái vào 9- 2- 1930 với
phương châm “không thành
công cũng thành nhân” đã bị
thực dân Pháp dìm phong trào
trong biển máu. Vai trò của
Việt Nam quốc dân Đảng trong

12
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của cuộc khởi
nghĩa Yên Bái.
Trong khi các giai cấp, tầng lớp đều lần lượt bước lên vũ đài chính trị
nhưng đều không được lịch sử chấp nhận thì với nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá rộng
rãi vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước Việt
Nam và đang khẳng định được sức mạnh của mình. Nếu như những năm 1919-
1925, phong trào công nhân được đánh giá là đã có bước phát triển hơn với
"những cuộc bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên qui mô lớn hơn và thời
gian dài hơn" thì từ 1925, phong trào công nhân Việt Nam được đánh giá là có
sự chuyển hoá "từng bước từ tự phát sang tự giác".
Trong những năm 1926- 1929, phong trào công nhân Việt Nam đấu tranh
dưới sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công
hội đỏ và các nhóm cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc bãi công liên tiếp nổ
ra. Tiêu biểu là cuộc bãi công của 1.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, 500
công nhân đồn điền cao su Cam Tiến... Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng
40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn quốc. Theo số liệu thống kê,
năm 1927 có 7 cuộc đấu tranh lớn, thì năm 1929 là 24 cuộc, năm 1930 lên tới 98
cuộc (với số người tham gia từ 350 người lên tới 31.680 người).
Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam thời kỳ này mang tính chất
chính trị rõ rệt và diễn ra trong phạm vi cả nước. Trong mỗi cuộc đấu tranh đã có
sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công
nhân đã đạt đến trình độ "tự giác", được đánh giá là thuần thục về chính trị. Bản
thân phong trào công nhân có sức lôi cuốn đối với phong trào yêu nước và có thể
nói, nó quyết định phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Như vậy, trong khi các phong trào đấu tranh theo nhiều khuynh hướng chính trị
khác nhau, đồng thời cũng là sự xuất hiện của nhiều giai - tầng trong xã hội trên
vũ đài chính trị...nhưng tất cả đều không được lịch sử chấp nhận. Với sự nỗ lực
của Nguyễn ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác-
Lênin được thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước làm
cho các phong trào này có khuynh hướng phát triển từ tự phát sang tự giác.
Chính xu hướng đó đã làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi hỏi phải thành lập
Đảng cộng sản ở Việt Nam, làm cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên sau khi
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đã bị phân liệt dẫn đến sự ra đời của 3 tổ
chức cộng sản và cuối cùng là sự tất yếu phải hợp nhất để thành lập một đảng
cộng sản duy nhất. Điều đó khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là
sự lựa chọn của chính lịch sử, là sản phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố Chủ nghĩa
MácLênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
2. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng
khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng những năm đầu thế kỷ XX.
Trước ách áp bức của thực dân Pháp xâm lược, các phong trào đấu tranh
của nhân dân Việt Nam diễn ra mạnh mẽ theo nhiều khuynh hướng chính trị khác
13
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

nhau, qua đó cũng chứng kiến nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau lần lượt bước
lên vũ đài chính trị với nhiều đường lối, phương pháp tiến hành đấu tranh khác
nhau nhưng cuối cùng đều rơi vào cùng một kết cục là thất bại.
Phong trào Cần Vương với sự lãnh đạo của giai cấp địa chủ lớp trên, giai
cấp đã không còn đủ năng lực và uy tín lôi kéo, vận động lực lượng nhân dân.
Khởi nghĩa Yên thế "nặng cốt cách phong kiến" vì hoạt động đấu tranh của nghĩa
quân chỉ dựa vào tài thao lược của một lãnh tụ, khi lãnh tụ mất, phong trào cũng
vì thế mà tan rã. Đông Du có phương pháp đấu tranh đúng đắn là dùng bạo động
nhưng lại không biết xác định bạn thù, đồng thời lại không có biện pháp cụ thể
phù hợp để thực hiện bạo động. Duy Tân thì phương pháp đấu tranh cải lương,
không tưởng. Việt Nam quốc dân đảng biểu thị tính bồng bột, hăng hái nhất thời
của tầng lớp tiểu tư sản... nhìn chung tất cả các phong trào thất bại vì không có
đường lối đấu tranh phù hợp với xu thế của thời đại; không có giai cấp lãnh đạo
giữ vị trí là giai cấp trung tâm của thời đại.
Với những biến cố lịch sử đã xuất hiện trên thế giới cho thấy phạm trù của
cách mạng thế giới đã chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, tất cả các cuộc
cách mạng trên thế giới, kể cả cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng
lợi phải đi theo đường lối của cách mạng vô sản và theo đó, giai cấp cách mạng
nhất, giữ vai trò tiên phong, có sứ mệnh lịch sử là giai cấp trung tâm của thời đại
lúc này tất yếu phải là giai cấp vô sản. Vì vậy, khi Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời với Cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn, khẳng định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam là: chủ trương làm "tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", khẳng định rõ ràng giai
cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản: "Đảng là đội tiền
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng"... Với những quan điểm
này, Cương lĩnh đã đặt cách mạng mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cuộc cách
mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sự trưởng thành
vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam. Trong khi các phong trào của các giai
cấp, các tầng lớp khau nhau trong xã hội Việt Nam đều lần lượt thất bại thì phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân lại từng bước khẳng định sự lớn mạnh của
mình không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng; không chỉ về qui mô ngày càng
lớn mà cả về tính tự giác, tính chính trị của các phong trào ngày càng được thể
hiện rõ nét hơn... Đúng như Hồ Chí Minh nhận xét: "Việc thành lập Đảng là một
bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng
tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng". Và
kể từ đây, ngọn cờ dân tộc được lịch sử trao cho giai cấp công nhân Việt Nam,
giai cấp công nhân Việt Nam đã tự mình trở thành dân tộc, trở thành giai cấp dân
tộc, nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc.

14
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy cách mạng
Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới.
Do CNTB đã phát triển đến giai đoạn cao, giai đoạn ĐQCN, mâu thuẫn
nội tại của CNTB đã và đang tạo ra tính tất yếu của các cuộc cách mạng vô sản
và trên bình diện thế giới, cuộc cách mạng vô sản đầu tiến đã giành thắng lợi
hoàn toàn. Vì vậy, thời đại mới đã mở, đó là thời đại của cách mạng vô sản,
phạm trù cách mạng thế giới đã chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cho
nên tất cả các cuộc cách mạng trên thế giới, kể cả cách mạng giải phóng dân tộc
muốn giành thắng lợi phải đi theo đường lối của cách mạng vô sản.
Song, ở Việt Nam trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, các
phong trào đấu tranh lại chủ yếu diễn ra theo hai khuynh hướng chính trị cơ bản
là phong kiến và tư sản. Đây đều là những khuynh hướng cách mạng không còn
phù hợp với thời đại mới nếu như không muốn khẳng định là "quay ngược bánh
xe lịch sử". Từ chỗ không có đường lối cách mạng phù hợp với xu thế vận động
và phát triển của lịch sử nhân loại; không có giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai
cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại, cho nên các phong trào đấu tranh theo
các khuynh hướng phong kiến và tư sản đã không tìm thấy cho mình không chỉ
lực lượng trong nước mà quan trọng hơn là sự đoàn kết liên minh chặt chẽ với
lực lượng cách mạng thế giới để chống lại một kẻ thù đã trở thành hệ thống thế
giới. Do vậy, đây cũng được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn
đến kết cục thất bại của các phong trào.
Với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, Chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá rộng rãi vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho các phong trào này, đặc biệt là phong
trào công nhân phát triển mạnh mẽ, từ tự phát sang tự giác và thành quả là sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với
đường lối cách mạng đi theo cách mạng vô sản đã đặt cách mạng Việt Nam vào
quỹ đạo của cách mạng thời đại, là cơ sở tiên quyết để cách mạng Việt Nam trở
thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Từ đây, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của nhân dân thế giới; từ đây sự phát triển của phong trào cách mạng Việt
Nam cũng góp phần củng cố sức mạnh của phong trào đấu tranh cách mạng thế
giới và sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới cũng củng cố sức mạnh
cho cách mạng Việt Nam.
Đây chính là một trong những nguyên nhân làm nên những thắng lợi to
lớn của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Trong thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, ta giành chính quyền từ tay Nhật, ngoài sức mạnh "đem
sức ta tự giải phóng cho ta", chúng ta không thể phủ nhân vai trò của lực lượng
dân chủ- đứng đầu là Liên Xô và lực lượng đồng minh trong việc chống phát xít;
trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, ngoài sức mạnh
của toàn thể dân tộc với tinh thần "dựa vào sức mình là chính", chúng ta cũng

15
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

thấy rõ sức mạnh đoàn kết của không chỉ 3 nước Đông Dương, mà còn là sự
đoàn kết, ủng hộ của nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới, thậm
chí cả nhân dân Pháp, Mỹ; và ngày nay, những thắng lợi bước đầu của công cuộc
đổi mới, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, chúng ta luôn tích
cực, chủ động, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại.
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất yếu
đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy
vọt trong tiến trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
dân tộc Việt Nam. Do đó, giai cấp công nhân Việt Nam, thông qua đội tiên
phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tập hợp được giai cấp
mình mà còn vận động, lôi kéo được đông đảo các giai- tầng khác trong xã hội
trên một "mẫu số chung" đó là tinh thần yêu nước. Không những thế, việc giai
cấp công nhân nắm bá quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam là điều kiện tiên
quyết để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phân của cách mạng thế giới, cho
phép cách mạng Việt Nam không chỉ phát huy được sức mạnh toàn dân tộc mà
còn kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thông qua đó tạo nên
sức mạnh tổng hợp để cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
không ngừng củng cố, xây dựng mình vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ
chức để ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử được giao phó. Vì vậy, sự lãnh đạo của
Đảng luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bắt nguồn từ sự chuyển
hướng đúng đắn, kịp thời của Đảng trong HNTW6 (11- 1939) và HNTW8 (5-
1941) trước tình hình mới; bắt nguồn từ sự sáng suốt của Đảng trong việc dự
đoán thời cơ và chớp thời cơ thể hiện tập trung trong chỉ thị "Nhật- Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta" (12- 3- 1945); từ sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng qua các cao trào 1930- 1931, 1936- 1939... để lịch sử dân tộc Việt Nam ghi
vào dòng chảy của mình một cuộc "cách mạng thần thánh" giành chính quyền,
lập lên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; đưa nhân dân ta từ thân phận là
người nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc; đưa Đảng ta từ một Đảng
bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền...
Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đảng
cộng sản Việt Nam với đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn, sáng tạo cũng
thể hiện rõ vai trò và năng lực lãnh đạo cách mạng, là nhân tố quyết định tạo nên
sức mạnh để Việt Nam lần lượt đánh bại các tên đế quốc hùng mạnh, sừng sỏ và
hiếu chiến bậc nhất thế giới.
Với đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính", Đảng đã phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc với tinh thần

16
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

"thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ", tất cả các lực lượng, không phân biệt già trẻ, gái trai, không phân chia
đảng phái, tôn giáo... đều đóng góp sức mình cho cuộc kháng chiến, làm nên một
trận địa chống thực dân Pháp xâm lược; với đường lối tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng tiếp tục tạo được thế trận "toàn dân đánh giặc,
cả nước đánh giặc" trog cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cùng với việc
phát huy sức mạnh của toàn dân, Đảng cũng đưa ra đường lối ngoại đúng đắn,
sáng suốt tạo nên sức mạnh tổng hợp của không chỉ 3 nước Đông Dương, sức
mạnh của hệ thống XHCN, mà còn tập hợp được sức mạnh của cả lực lượng tiến
bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ... tạo
thành một một sức mạnh tổng hợp để làm nên những thắng lợi oanh liệt của dân
tộc, quét sạch ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân cả cũ và mới; đưa dân tộc Việt
Nam vào hàng ngũ những dân tộc tiên phong đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Sau khi đất nước giành được độc lập, thống nhất, Đảng tiếp tục phát huy
tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, đặc biệt trong công cuộc đổi mới. Đảng đã
đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới trong khi công cuộc Cải cách, Cải
tổ của các nước trong hệ thống XHCN lại đi vào bế tắc, thậm chí là thất bại. Với
bản chất cách mạng và khoa học, Đảng đã không ngừng bổ sung và hoàn thiện
đường lối cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, mạng lại "những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử" sau 20 năm đổi mới, không ngừng nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
5. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh
đạo Đảng ta.
Sống trong bối cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất
Thành đã sớm nuôi trí đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng cho dân tộc. Khi ra đi
tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã không tán thành đường lối cứu nước
theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản, nhưng ngay từ đầu Nguyễn Ái Quốc chưa
có được một quan niệm cần có một tổ chức chính trị lãnh đạo đấu tranh giải
phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc gặp và tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy
ở đấy con đường giải phóng cho dân tộc, đưa đất nước đi lên độc lập - tự do -
hạnh phúc, đó là đường lối cỏch mạng theo con đường cỏch mạng vụ sản.
Với quan điểm "cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô
sản giai cấp mọi nơi". Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành một quá trình chuẩn bị về
chính trị tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự
nỗ lực của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ra đời vào ngày 3- 2- 1930
là sự vận dụng sáng tạo học thuyết của Chủ nghĩa Mác- Lênin về đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa.

17
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam không chỉ ở sự nố lực của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, mà còn ở hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó nổi bật là
những quan điểm tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam. Những quan
điểm tư tưởng đó luôn có tác dụng định hướng, soi đường chỉ lối cho Đảng Cộng
sản Việt Nam giữ vững và phát huy được vai trò là một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, đưa dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên vì mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
---------------------------------------

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.


Hồ Chí Minh
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác chác ta phải cùng nhau giữ lấy
nước.”
Hồ Chí Minh

18
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

KẾT LUẬN
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử phát triển của nhân loại đang có
những chuyển biến vô cùng quan trọng, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH đã
mở, tình hình đó đòi hỏi những chiến sỹ cách mạng trên thế giới phải nhìn nhận
được xu thế phát triển của thời đại mà đề ra được đường lối và tìm ra được giai
cấp lãnh đạo cách mạng phù hợp
Việt Nam chịu ách thống trị của thực dân Pháp, trước ách áp bức bóc lột
nặng nề, mâu thuẫn dân tộc đang diễn ra hết sức gay gắt, nhiều phong trào đấu
tranh của nhiều lực lượng và theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau đều
lần lượt thất bại. Phong trào cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng về
đường lối và giai cấp lãnh đạo.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ thiên tài
của mình đã sớm nắm bắt được xu thế của thời đại và nhu cầu của cách mạng
Việt Nam, đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác- Lênin con đường cách mạng giải phóng
cho dân tộc, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đó là đường lối cách mạng
theo con đường cách mạng vô sản. Với quan điểm "cách mệnh trước hết cần có
đảng cách mệnh", Người đã nỗ lực chuẩn bị mọi điều kiện cho sự ra đời của
Đảng. Và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3- 2- 1930, đã mang
những ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Tìm hiểu sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh trong
nước và quốc tế như trên mới thấy hết được những ý nghĩa to lớn của sự ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng thấy được sự vĩ đại của Nguyễn Ái
Quốc- Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng. Sự vĩ đại ấy là ở chỗ Người đã
sớm đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản; ở chõ
Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một hệ thống quan điểm về Đảng Cộng
sản Việt Nam có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, giúp chúng ta củng cố niềm
tin vững chắc vào sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng.

19
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo- Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam- Nxb
CTQG- Hà Nội. 2006.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo- Một số chuyên đề Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
tập I, II - Nxb CTQG- HN. 2007.
3. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X-
NXB CTQG- HN. 2006.
4. Đảng cộng sản Việt Nam- Ban chấp hành trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết lý
luậnBáo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-
2006)- NXB CTQG- HN. 2005.
5. Lê Mậu Hãn- Các Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam- Nxb CTQG- HN.
2000.
6. TS. Đinh Xuân Lý- Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam-
Nxb CTQG- HN. 2007.
7. TS Đinh Xuân Lý (chủ biên)- Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh-
Nxb CTQG- HN. 2003.
8. TS Doãn Hùng, TS Ngọc Hà, TS Đoàn Minh Huấn- Đảng cộng sản Việt Nam
những tìm tòi và đổi mới trên con đường lên chủ nghĩa xã hội (1986- 2005)- Nxb
Lý luận chính trị- HN. 2006.
9. Trang web của tạp chí cộng sản http://www.Tapchicongsan.org.vn và các tài
liệu thu thập từ internet.

20
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Tiểu Luận Lịch sử Đảng

ĐÁNH GIÁ
Thành viên Phân công nhiệm vụ Mực độ đánh giá
Mai Trần Duy Tham khảo tài liệu, xây Tốt
dựng nội dung chương 1
Nguyễn Anh Mười Thiết kế bố cục bài tiểu Tốt
luận, hoàn thiện chương
1
Sái Văn Lượng Sưu tầm ảnh, dẫn chứng, Tốt
xây dựng nội dung
chương 2
Lê Thành Chỉnh Hoàn thiện nội dung Tốt
chương 2

21

You might also like