You are on page 1of 21

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

BÀI TẬP NHÓM 9


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ II (2022 – 2023)

STT HỌ VÀ TÊN MSSV


1 Nguyễn Ngọc Minh Thư BTFTIU20043
2 Trần Thị Ngọc Trâm IEIEIU20127
3 Trần Nguyễn Thảo Trang BAFNIU20445
4 Phan Khánh Trân IELSIU21391
5 Nguyễn Hải Triều IELSIU19293

Lớp: BABA21IU22 nhóm 9


Trường: Đại học Quốc Tế - ĐHQG TPHCM
Giảng viên: Lường Thị Phượng

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2023


ĐỀ TÀI SỐ 7:
Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Vì sao trong các yếu tố dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam lại
có thêm sự kết hợp của phong trào yêu nước?
MỤC LỤC
I) Mở đầu....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................1
2.1. Mục đích....................................................................................................1
2.2. Nhiệm vụ...................................................................................................2
II) Nội dung................................................................................................................... 2
1. Quan niệm tư tưởng............................................................................................2
1.1. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.................2
1.2. Đảng phải trong sạch vững mạnh..............................................................6
2. Hoàn cảnh ra đời của Đảng..............................................................................10
2.1. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX....................................10
3. Hội nghị và Cương lĩnh chính trị đầu tiên........................................................14
3.1. Hội nghị...................................................................................................14
3.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên...................................................................16
III) Kết luận.................................................................................................................17
1. Ý nghĩa Cương lĩnh...........................................................................................17
2. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng...............................................................................17
IV) Tài liệu tham khảo.................................................................................................18
V) Bảng đánh giá mức độ hoàn thành..........................................................................18
I) Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

Trong đời sống chính trị thế giới hiện đại, chế độ chính trị ở đa số các nước liên quan
đến hoạt động của các đảng chính trị, nhất là đảng cầm quyền. Khái niệm “đảng cầm
quyền” ở trên thế giới dùng để chỉ đảng nào giành được đa số ghế trong nghị viện. Một
số nước còn quy định nếu đảng nào chiếm được 2/3 số ghế trong Nghị viện, thì đảng đó
có quyền sửa đối hiến pháp. Đảng cầm quyền có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hệ
thống quyền lực của nhà nước. Sau khi đã chiếm được đa số ghế trong nghị viện, đảng
cầm quyền có quyền đứng ra lập chính phủ và mọi hoạt động của chính phủ đều phải
tuân thủ ý chí và nguyện vọng của đảng cầm quyền. Trong trường hợp không có một
đảng nào chiếm được đa số ghế trong nghị viện thì sẽ lập nên chính phủ liên minh nhiều
đảng. Những đảng không cầm quyền trở thành đảng đối lập trong nghị viện.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


2.1. Mục đích

Ở nước ta, vấn đề đảng cầm quyền không như vậy. Đảng Cộng sản Việt Nam không
phải là đảng nghị viện. Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng ta là đảng cầm quyền.
Trong bản Di chúc, Người khẳng định một lần nữa: “Đảng ta là một đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".

"Đảng cầm quyền” ở nước ta không những chỉ là đảng lãnh đạo chính quyền mà còn
là đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn xã hội. Điều này, đã được ghi trong
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Điều đó còn được thể
chế hóa và được thể hiện bằng các văn bản khác của Nhà nước ta, đặc biệt là đã được thể
hiện trong thực tế. Nhân dân ta, trên thực tế, đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng việc xác định đường lối xây dựng
và bảo vệ đất nước. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng việc tổ chức, triển khai thực hiện
đường lối, chủ trương đưa đất nước phát triển kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng hệ thống tổ chức của mình trong hệ thống chính trị

1
và bằng hành động thực tế tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo
xã hội thông qua công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương đó.

2.2. Nhiệm vụ
Đối với Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, trước hết vì sự nghiệp giải
phóng của dân tộc. Người khẳng định, sự bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đã đẩy
các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam đến tình trạng “hấp hối trong vòng tử địa”.
Người viết: “Vì áp bức mà sinh ra cách mạng, trước sự diệt vong của giống nòi, do sự
thống trị đô hộ đưa lại, người dân Việt nam ngày càng ý thức được rằng có cách mạng
thì sống, không có cách mạng thì chết, do vậy, muốn sống phải làm cách mệnh”.

Trải qua thời kỳ tranh đấu mãnh liệt, giành giật sự sống dân tộc trước bàn tay thôn
tính của các Đế Quốc trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với mục tiêu tối cao
là lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam đánh đánh đuổi bè lũ thực dân đế quốc cùng sự tàn
bạo bóc lột của chúng ra khỏi bờ cõi quốc gia và xây dựng đất nước độc lập, đi lên định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, giúp đồng bào ấm no hạnh phúc. Vai trò lãnh đạo của Đảng
ngày càng được bạn bè quốc tế công nhận, được nhân dân tin tưởng là ngọn hải đăng soi
sáng đường đi cho nhân dân lao động và cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Sự ra đời của
Đảng cộng sản Việt Nam không phải chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân hay những
người cộng sản mà trước hết để cứu lấy con Lạc, cháu Hồng. Đây là quan điểm mới mẻ,
sáng tạo của Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng ở một nước thuộc địa.

II) Nội dung


1. Quan niệm tư tưởng
1.1. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

a. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

 Cơ sở lý luận

Khi Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”,
Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin”. Người nhấn
mạnh:” Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân
Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà
2
còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới con đường thắng lợi cuối cùng, đi tới
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là học thuyết
về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về chính đảng cách mạng để đưa đến việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Người đã nêu ra nhiều luận điểm mới làm phong phú
thêm học thuyết Mác-Lênin về chính đảng cách mạng ở những nước thuộc địa mà sinh
thời Mác và Ăngghen chưa có điều kiện để đi sâu nghiên cứu, còn Lenin cũng mới đề
cập ở một chừng mực nhất định. Người nhận định: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước.

 Cơ sở thực tiễn

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa trước hết phải lãnh đạo cuộc đấu
tranh dân tộc. Vấn đề giai cấp ở thuộc địa phải đặt trong vấn đề dân tộc, đòi hỏi sự vận
dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin về Đảng Cộng sản ở thuộc địa.

Đến năm 1922, Việt Nam có 22 vạn công nhân, chiếm khoảng 1% dân số, tuy không
nhiều nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Lực lượng đó là lực lượng tiên tiến sẽ nắm
ngọn cờ tiên phong lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam. Cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân Việt Nam bắt đầu ngay khi nó ra đời và nagy2 càng phổ biến dưới quy mô lớn, ý
thức của giai cấp và chính trị rõ ràng. Nhưng trước khi ĐCSVN ra đời thì giai cấp công
nhân chưa nhận ra được sứ mệnh lịch sử của mình, còn thiếu một tổ chức lãnh đạo và
một đường lối đúng đắn. Sự phát triển của phong trào công nhân là cơ sở vật chất để
truyền bá tư tưởng Mác-Lênin vào Việt Nam. Yêu cầu tất yếu khách quan phải có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản với nhiệm vụ giải phóng cho dân tộc mình.

Trên thế giới, với thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng 10 Nga, chủ nghĩa Mác-Lênin
trở thành hiện thực và có ảnh hưởng rộng khắp nơi. Trong những năm 20 của thế kỷ XX
hàng loạt các Đảng Cộng sản đã được thành lập ở các nước và gia nhập vào Quốc tế

3
cộng sản với khẩu hiệu chiến lược:” Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức,
đoàn kết lại!”, hạt nhân là đảng Bôn-sê-vích dưới sự lãnh đạo của Lênin.

Chủ nghĩa yêu nước đã dẫn dắt Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa
chọn con đường cách mạng vô sản. Người bỏ phiếu tán thành quốc tế III và tham gia
Đảng Cộng sản Pháp, trở thành một nhà yêu nước cộng sản. Là một đảng viên của Cộng
sản Pháp, cùng với việc tìm hiểu công tác xây dựng Đảng cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cuối năm 1924, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở về Trung Quốc chuẩn bị cho
quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1930, Hồ Chí Minh triệu
tập ba tổ chức cộng sản và thống nhất thành lập một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản
Việt Nam.

b. Tính tất yếu của Đảng

“Cách mạng vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi khi có Đảng cộng sản,chính đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo”. Luận điểm đó của Mác, Ăngghen,và Lênin trước hết
bắt nguồn từ vai trò của Đảng đối với cách mạng và từ địa vị, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh đã nhận thức, quán triệt và vận
dụng sáng tạo luận điểm trên của các nhà kinh điển Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò là người lãnh đạo cách mạng
và là nhân tố quyết định hàng đầu đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thành công. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo
chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta thì mới có thể đưa cách mạng giải
phóng dân tộc đến thắng lợi và CMXHCN thành công.’’.

Hồ Chí Minh cho rằng: Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ được phát huy khi được tập
hợp, giác ngộ, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản.
Người khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn,
là vô cùng vô tận. Những lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”.

Cùng với việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh khẳng định tính tất yếu là phải có Đảng Cộng sản. Người phân tích: ‘Kinh
nghiệm thế giới và trong nước chứng tỏ rằng: Những cuộc đấu tranh tự phát của nhân

4
dân, thường không có mục đích rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, tổ chức chắc chắn. Kết quả là
thất bại. Muốn có thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo.’’

Người còn nhấn mạnh: Giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm được cách
mạng. Vì vậy trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh đã
viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thì thuyền mới chạy”. Hồ Chí Minh giải thích: “cách mạng muốn thắng lợi thì phải
có một Đảng lãnh đạo, Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức
bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ
mục đích gì mà đấu tranh, chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng...".

c. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

 Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, từ đó xây dựng đường lối
chiến lược, sách lược cách mạng.

Từ khi Đảng ra đời chỉ ra cho dân tộc Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản.
Nhờ đó cách mạng Việt Nam đã đi đúng với quy luật của lịch sử, không những phù hợp
với lịch sử dân tộc mà còn phù hợp với lịch sử của thời đại. Vì vậy, cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chỉ ra Cách mạng Việt
Nam tiến hành chiến lược là chống đế quốc và phong kiến, đồng thời vạch ra những sách
lược đúng đắn để thực hiện thắng lợi chiến lược cách mạng đã đề ra. Với chiến lược và
sách lược đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc.

 Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định phương pháp cách mạng để giải phóng dân
tộc là dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng. Đó là sự vận
dụng sáng tạo phương pháp cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện Việt Nam.

Tổ chức, đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng: Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn khỏi đi
lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và

5
định phương châm cho đúng.Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách
mạng Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh là đúng đắn.

Đảng nhận thức và giải quyết các mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Đoàn kết lực lượng cách mạng trong nước không đủ, HCM còn chỉ ra phải đoàn kết với
lực lượng cách mạng thế giới, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè và nhân dân tiến bộ thế
giới, đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.

 Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam còn được thể hiện ở vai trò tiên phong,
gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

Với quan điểm “Cán bộ là gốc của mọi việc”, HCM và Đảng ta đã luôn đề cao, chú trọng
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để qua đó, uy tín của Đảng không chỉ dựa vào
uy tín của riêng một cá nhân nào, mà là uy tín của cả tập thể, của toàn Đảng. Chính vì
vậy, cho dù trải qua bao đấu tranh gian khổ, hy sinh mất mát trong các giai đoạn kháng
chiến... nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn được duy trì cho đến tận ngày nay.

Như vậy, tất cả những điều đó 1 lần nữa đã chứng minh và khẳng định rằng sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng là một tất
yếu - điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.

1.2. Đảng phải trong sạch vững mạnh

a. Đảng là đạo đức, là văn minh

Trong bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1960), HCM khẳng
định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Người coi đạo đức cách mạng là gốc, là nền
tảng của người cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp cách mạng
theo chủ nghĩa Mác-Lênin làm cho dân tộc độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.

6
Thứ hai, Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều
phải nhằm mục đích trên. Đảng phải luôn trung thành với lợi ích dân tộc, Đảng không có
mục đích riêng; sự ra đời của Đảng chỉ có mục đích duy nhất là làm cho đất nước hùng
cường, đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi cho dân.

Thứ ba, đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: Đảng “ là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những
người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà giàu sang không
thể quyến rũ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy lực không thể khuất phục”.

Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng tức là xây
dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng văn minh, hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là một
“Đảng cách mạng chân chính”. Điều này thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của
dân tộc.

Hai là, Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh, tiến bộ
của dân tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu cầu phát
triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi ích của giai cấp đều
đặt dưới sự phát triển của dân tộc; mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp với quy
luật hoạt động của xã hội Việt Nam.

Ba là, Đảng phải luôn trong sạch vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân dân,
dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ Quốc và đem lại sự tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Đối với một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh càng chú trọng hơn việc
phòng chống các tiêu cực trong Đảng.

Bốn là, xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong việc Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng không phải là tổ chức đứng trên dân tộc.

Năm là, Đảng văn minh còn thể hiện ở chỗ đội ngũ Đảng viên, từ những đảng viên
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lí trong bộ máy nhà nước, các đoàn thể quần chúng, nhất là
những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lí chủ chốt, cho đến đảng viên không giữ
7
chức vụ lãnh đạo, quản lí đều phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong công
tác và cuộc sống hằng ngày.

Sáu là, Đảng văn minh là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, bảo vệ lợi ích dân tộc
Việt Nam, đồng thời tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các
quốc gia khác ; vì hòa bình, hữu nghị và sự phát triển chung của nhân loại.

b) Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng

 Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng và kim chỉ nam làm hành động :

Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh phải trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng
đồng thời phải luôn luôn sáng tạo, vận dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, từng
lúc, từng nơi, không được phép giáo điều.

 Tập trung dân chủ

Hồ Chí Minh đưa ra luận đề liên quan mật thiết với nhau: Tập trung trên nền tảng dân
chủ, dân chủ phải đi đến tập trung. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, phải làm cho tất cà
các đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình ở trong Đảng. Đối với tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, có lúc Hồ Chí Minh là coi tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập
trung.

 Tự phê bình và phê bình

Hồ Chí Minh coi tự phê bình, tự kiểm điểm, tự sửa chữa là việc làm thường xuyên, “như
rửa mặt mỗi ngày”. Người cho rằng, tự phê bình và phê bình là “thang thuốc” tốt nhất để
làm cho phần tốt trong mỗi tổ chức và mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu bị dần mất đi; tự phê bình và phê bình phải trung thực, kiên quyết, đúng người, đúng
việc.

 Kỷ luật nghiêm minh, tự giác

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng : “Đảng có tổ chức rất nghiêm, khắc với các Đảng khác và
các hội quần chúng. Trong Đảng chỉ kết nạp với các phần tử hăng hái nhất, cách mạng
nhất. Đảng có những điều kiện kỷ luật bắt buộc mỗi đảng viên phải theo. Không có kỷ
luật sắt không có Đảng. Đảng đã ra chỉ thị nghị quyết là phải làm. Không làm thì đuổi ra

8
khỏi Đảng”. Sức mạnh của một Đảng cộng sản bắt nguồn từ kỷ luật, muôn người như
một, cùng một ý chí và hành động.

 Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn

Quyền lực của Đảng là do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc giao
phó. Đảng phải không ngừng tự chỉnh đốn bản thân mình. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng
không có mục đích tự thân, Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài mà Đảng từ
trong xã hội mà ra, hoạt động vì Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Điều này
càng đặc biệt quan trọng hơn khi Đảng đứng trước những thử thách lớn trong quá trình
hoạt động.

 Đoàn kết, thống nhất trong Đảng

Đoàn kết trong Đảng là điều kiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; trước hết là
trong cấp ủy, trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đoàn kết trên cơ sở chủ nghĩa Mác-
Lênin, trên cơ sở cương lĩnh đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng.

 Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân

Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của toàn thể dân tộc Việt Nam. Vấn đề mối
quan hệ giữa Đảng cộng sản – giai cấp công nhân – nhân dân Việt Nam là mối quan hệ
khăng khít máu thịt. Mỗi một thành tố đều có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng tất cả
những thành tố đó cũng như sự hoạt động, sự tương tác của chúng đều có tính hướng
đích; độc lập dân tộc và với chủ nghĩa xã hội, là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 Đoàn kết quốc tế

Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế trong sáng. Điều này
xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân mà C. Mác, Ph. Ăngghen,
V.I.Lênin đã nhiều lần đề cập.

c. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên

- Phải tuyệt đối trung thành với Đảng: Cán bộ đảng viên phải tuyệt đối trung thành với
Đảng, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của cách mạng, vì mục tiêu lý tưởng của Đảng,

9
những người đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân
tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào vô luận việc gì đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích
của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau... Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu
thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho
lợi ích của Đảng.

- Cá nhân, đảng viên phải nghiêm chỉnh thực hiện Cương lĩnh, đường lối, quan điểm,
chủ trương, nghị quyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.

- Phải luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng.

- Phải luôn luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt.

- Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân: cán bộ, đảng viên là người đầy tớ trung
thành của nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân: tiên phong,
gương mẫu, chịu khổ trước nhân dân và vui sau nhân dân.

- Phải luôn luôn chịu trách nhiệm, năng động sáng tạo: cán bộ, đảng viên phải là những
người “thắng không kiêu bại không nản”, luôn luôn có tinh thần sáng tạo, hăng hái, nâng
cao trách nhiệm, dám chịu trách nhiệm trước đảng và nhân dân.

- Phải là những người luôn luôn phòng và chống các tiêu cực: Trong việc phòng chống
tiêu cực cán bộ, đảng viên phải đặc biệt phòng chống tham ô, tham nhũng, quan liêu.
2. Hoàn cảnh ra đời của Đảng:
2.1. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các
nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược
và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho
đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ
lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế
quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
10
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế
Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.

a. Bối cảnh trong nước


Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ:
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân
Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân
Việt Nam.

Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập
đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống
đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.

Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự
ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta
đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa
tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân,
xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực
dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt
Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ
thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.

Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân
Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí
cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai

11
cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản
Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị
nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư
sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp
bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân,
có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân
mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong
xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai
cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng
gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong
kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân
chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân
Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần
Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh
đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm
1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu
nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám
kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào
bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.

Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền
thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử.
Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong
trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc
về đường lối cứu nước.

12
b. Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người
tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
(1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc), đồng thời gửi
cán bộ đi học tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và Trường Lục quân Hoàng
Phố (Trung Quốc). Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều
kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.

Thế nên, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông
(Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng
sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần
thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, "Bỏ mọi thành kiến xung
đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm Cộng sản Đông Dương".Đáp ứng
những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng
11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên cũng quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu
ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành
lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ
chức Cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể
thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng
Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.

Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi
đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức,
bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược
vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
13
Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập
Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy
ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày Kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ
mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ
bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết
của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức Cộng sản, các
lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu
thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách
mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
sự đoàn kết nhất trí của những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân
Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng
lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

3. Hội nghị và Cương lĩnh chính trị đầu tiên


3.1. Hội nghị
Cuối năm 1929, Việt Nam có tồn tại ba tổ chức cộng sản hoạt động theo khuynh
hướng vô sản. Tuy nhiên, phong trào dân tộc dân chủ đang phát triển mạnh mẽ và đòi
hỏi sự lãnh đạo của một đảng cộng sản thống nhất. Sự hoạt động độc lập của ba tổ chức
cộng sản làm giảm sức mạnh và lực lượng của phong trào cách mạng. Điều này không

14
phù hợp với nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản và không đáp ứng được lợi ích của
cách mạng.

Vào ngày 27 tháng 10 năm 1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi tài liệu đến các cộng sản ở
Đông Dương về việc thành lập một đảng cộng sản ở khu vực này. Tài liệu này đã chỉ ra
rằng việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong bối cảnh phong trào của công nhân và
nông dân đang phát triển ngày càng trở nên nguy hiểm cho cuộc cách mạng ở Đông
Dương. Quốc tế Cộng sản đã nhấn mạnh rằng nhiệm vụ quan trọng và cấp bách nhất của
tất cả những người cộng sản ở Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính
chất giai cấp của giai cấp vô sản, một đảng cộng sản quần chúng duy nhất ở khu vực này.

Hội nghị này đã có sự tham dự của hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng là
Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh cùng hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng là
Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm. Tổng số đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng
và An Nam cộng sản Đảng cho tới Hội nghị hợp nhất là 310 đồng chí (Xiêm: 40 đồng
chí, Bắc Kỳ: 204 đồng chí, Nam Kỳ: 51 đồng chí, 15 đồng chí ở Trung Quốc và nơi khác;
Trung Kỳ sau đó đã được ghép vào Bắc Kỳ và Nam Kỳ).

Hội nghị đã đạt được sự đồng thuận hoàn toàn về việc sáp nhập hai tổ chức Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng chính trị duy nhất có
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện như Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng đã được thông qua trong hội nghị
này.

Nhân dịp thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã viết một Lời kêu gọi tới công nhân,
nông dân, binh lính, học sinh và tất cả những người bị bóc lột và áp bức, yêu cầu họ gia
nhập Đảng và cùng đánh đổ chế độ phong kiến An Nam, đế quốc Pháp và tư sản phản
cách mạng, để đem lại sự độc lập cho nước An Nam.

Hội nghị cũng đã lên kế hoạch sáp nhập các tổ chức cộng sản trong nước và thành lập
Ban Chấp hành Trung ương tạm thời. Sau hội nghị, vào ngày 8 tháng 2 năm 1930, các
đại biểu quốc nội đã thực hiện kế hoạch sáp nhập các cơ sở đảng trong nước. Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời của Đảng được thành lập, với sự tham gia của Trịnh Đình
Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phan Hữu
Lầu và Lưu Lập Đạo, với Trịnh Đình Cửu giữ vị trí đầu tiên.

15
Sau đó, các xứ uỷ đã được thành lập, với Đỗ Ngọc Du làm Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ,
Nguyễn Phong Sắc làm Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ và Ngô Gia Tự làm Bí thư Xứ uỷ Nam
Kỳ. Vào ngày 24 tháng 2 năm 1930, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời đã tổ chức
một cuộc họp và ra Quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam.

3.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên


Tại Hội nghị thành lập Đảng, đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và
Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Những tài liệu đó hợp lại thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng - Cương lĩnh Hồ Chí Minh.

Nội dung cơ bản như sau:

Một là, Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

Hai là, Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:

Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công
nông.

Về kinh tế, tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày
nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành
luật ngày làm tám giờ.

Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo
dục theo hướng công nông hoá. Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung dân
tộc và dân chủ, chống đế quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ
chống đế quốc giành độc lập dân tộc.

Ba là, Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với
phú nông,trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng

16
(như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ. Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây phản ánh
tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. "Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải
rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường
thỏa hiệp".

Bốn là, Về Lãnh đạo cách mạng: là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.
"Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".

Năm là, Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, "liên kết với
những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô
sản Pháp".

III) Kết luận


1. Ý nghĩa Cương lĩnh
Cương lĩnh đã phản ánh đầy đủ những quy luật vận động, phát triển nội tại, khách
quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu cơ bản và cấp bách của nhân dân ta,
đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của thời đại lịch sử mới, là cơ sở cho các đường
lối của cách mạng Việt Nam sau này.

Thể hiện sự nhận thức, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, chứng tỏ ngay từ đầu Đảng đã độc lập, sáng tạo.

2. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng

Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước trong những năm đầu thế kỷ XX, đồng thời
khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam.

Đảng ra đời là kết quả tất yếu, khách quan, phù hợp với xu thế thời đại.

Đảng ra đời là một sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển
của cách mạng Việt Nam.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã có cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường
giải phóng dân tộc và phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam

17
IV) Tài liệu tham khảo
1/ Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2000, t.12, tr.498.
2/ Đại học Duy Tân, Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng:https://kmacle.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/106/1022/chuong-1-
su-ra-doi-cua-dang-cong-san-viet-nam-va-cuong-linh-chinh-tri-dau-tien-cua- dang?
fbclid=IwAR2srPw4T7RItHPpwUKAot8VQgRNNiX6KWKOhFTdrJ5Ep3ImIuY
kK5Z4VjQ
3/ Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời như thế nào?
https://vtv.vn/hoi-dap-ve-dang-cong-san/dang-cong-san-viet-nam-ra-doi-nhu-the-nao-
20200608222820579.htm

V) Bảng đánh giá mức độ hoàn thành

Đánh giá mức độ


STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ hoàn thành

1 Nguyễn Ngọc Minh Thư BTFTIU20043 Phần I Mục 1,2 100%

2 Trần Thị Ngọc Trâm IEIEIU20127 Phần II Mục 1 100%

3 Trần Nguyễn Thảo Trang BAFNIU20445 Phần II Mục 2 100%

4 Phan Khánh Trân IELSIU21391 Phần III Mục 1,2 100%

5 Nguyễn Hải Triều IELSIU19293 Phần II Mục 3 100%

18

You might also like