You are on page 1of 31

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA




BÀI TẬP LỚN


MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
NHỮNG YẾU TỐ DẪN ĐẾN SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LỚP L06 --- NHÓM 21 --- HK 222
NGÀY NỘP
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Kim Oanh

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Nhiệm vụ Hoàn thành

Lài Chí Thông 2010662 Còn lại 100%

Đỗ Thị Nhật Ánh 2010140 2.1 2.3 100%

Nguyễn Thị Vân Anh 2010124 2.4 100%

Võ Minh Hiếu 2010256 Chương 1 100%

Nguyễn Thị Đăng Nguyên 2011708 2.2 100%

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................... 2


Chương 1 ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỈ XIX -
ĐẦU THẾ KỈ XX ....................................................................................................... 2
1.1 Đặc điểm kinh tế và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX .... 2
1.1.1 Tình hình thế giới cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ....................................2
1.1.2 Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ......... 3
1.2 Tình hình giai cấp và mâu thuẫn giai cấp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX -
đầu thế kỉ XX ..........................................................................................................4
1.2.1 Các giai cấp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX .........................4
1.2.2 Mâu thuẩn giai cấp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ..............5
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................. 5
Chương 2 QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG ........7
2.1 Các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời .........................................7
2.1.1. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến ......................7
2.1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản ................8
2.2 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng ........................ 10
2.2.1 Vai trò lựa chọn con đường giải phóng dân tộc ......................................11
2.2.2 Quá trình chuẩn bị cho việc thành lập Đảng .......................................... 13
2.3 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và sự ra đời các tổ
chức Cộng sản ở Việt Nam ................................................................................. 18
2.3.1 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản ............................. 18
2.3.2 Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản ........................................................ 19
2.4 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời .................................................................. 22
2.4.1 Hội nghị thành lập Đảng ......................................................................... 22
2.4.2 Cương lĩnh chính trị của Đảng ................................................................ 25
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 26

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 27

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 29


PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam ta từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị bao vây,
cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra. Nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã nhanh chóng khôi phục
và phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động không
ngừng được cải thiện, có được một nền chính trị ổn định, vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Việt Nam trở thành một trong những nước
xã hội chủ nghĩa đầu tiên tiến hành đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhân dân Việt Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam -
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Dưới sự ủng hộ
của nhân dân, Đảng đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam
thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ chính quyền trong chiến tranh giải phóng và
chiến tranh giữ nước; là kim chỉ Nam dẫn đường cho Việt Nam trở thành một nước
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhưng để thấu hiểu
được ý nghĩa và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sự ra đời của Đảng cần được
tìm hiểu rõ ràng. Đây là lý do chính mà nhóm lựa chọn đề tài tiểu luận “Những yếu tố
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bài tiểu luận gồm hai chương:
Chương 1 : Đặc điểm kinh tế, xã hội việt nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
Chương 2 : Quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt nam và vai trò của Nguyễn
Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng
Bài tiểu luận nhầm mục đích trình bày những bằng chứng cho thấy nhu cầu cần
có Đảng lãnh đạo của dân tộc Việt Nam và phân tích những điều kiện mà dân tộc ta đã
đạt được để thành lập một chính Đảng. Từ đó chứng minh được sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam là tất yếu và kịp thời. Bên cạnh đó, bài tiểu luận còn trình bày
những bước chỉ đạo đầu tiên, mang tính chiến lược của Đảng, mà từ đó con đường độc
lập của dân tộc Việt Nam được rộng mở. Nhóm mong muốn một lần nữa khẳng định
tầm quan trọng của sự kiện Đảng ta ra đời và trên hết là củng cố niềm tin của độc giả
rằng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc tôn, không chỉ ở thời kỳ
kháng chiến chống ngoại xâm mà còn kéo dài đến tận ngày hôm nay.

1
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1 : ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI VIỆT NAM


CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX

1.1 Đặc điểm kinh tế và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
1.1.1 Tình hình thế giới cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Sau chiến thắng vang dội của chính quyền Xô Viết ở Cung Điện Mùa Đông
26/10/1917, đến ngày 3/11/1917 Đảng Bô-sê-vích đã giành được thắng lợi trên cả
nước đã đặt dấu mốc cho cách mạng tháng Mười Nga thành công, lật đổ chính quyền
tư sản và trở thành nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công mang nhiều ý nghĩa to lớn đến cục diện thế giới, trong đó có cả
Việt Nam. Một là, chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính
trị thế giới. Hai là, mở ra một khuynh hướng đấu tranh mới, từ tư bản chủ nghĩa sang
xã hội chủ nghĩa. Ba là, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của
những nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Thắng lợi Cách mạng
Tháng Mười Nga không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản đối với các nước tư bản, mà còn tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa.

Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến thắng của giai cấp
công nhân trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế
III). Đại hội thành lập “Đệ Tam Quốc tế” tổ chức ở Mátxcơva từ ngày 2 đến 6/3/1919,
có 51 đại biểu thay mặt cho 30 nước tới dự. Trong đó có Đảng Xã hội Pháp tham gia
nhờ vào sự bỏ phiếu tán thành gia nhập của đồng chí Nguyễn Ái quốc (12/1920 tại
Tua). Ngoài đại biểu phương Tây còn có đại biểu các nước phương Đông như Triều
Tiên, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ. Với sự tham gia bởi đông đảo các nước chứng tỏ
Quốc tế III là tổ chức của giai cấp lao động của cả các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Đại hội được tiến hành dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin và được ông thông qua đề
cương “Về dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản”. Đề cương vạch trần bản chất giai
cấp của dân chủ tư sản, giải thích ý nghĩa của chính quyền Xô viết - một hình thức
chuyên chính vô sản. Lênin khẳng định rằng chỉ có nền dân chủ tư sản và dân chủ vô
sản, không có nên dân chủ thứ ba. Dân chủ vô sản là nền dân chủ cao nhất, do vậy

2
nhiệm vụ của Quốc tế III là phải xác lập được dân chủ vô sản. Quốc tế III đã tạo ra
môi trường hoạt động quốc tế thuận lợi giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc và những người yêu
nước Việt Nam nghiên cứu khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các Đảng, các
phong trào trên thế giới. Đồng thời, “Đệ Tam Quốc tế” còn tổ chức nhiều lớp học ở
trường Đại học phương Đông và các lớp ở Quảng Châu để bồi dưỡng đào tạo cán bộ
Việt Nam. Chính nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản thông qua các phân bộ của
mình trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam đã làm cho các phong trào này có một bước chuyển biến căn
bản từ tự phát sang tự giác, từ nhỏ lẻ rời rạc đi đến có tổ chức để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam. Quốc tế Cộng sản trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo
phong trào cách mạng vô sản thế giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch đường
hướng chiến lược cho cách mạng vô sản mà còn quan tâm giải quyết vấn đề dân tộc và
thuộc địa.

1.1.2 Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Với vị trí địa chính trị quan trọng trong châu Á, Việt Nam trở thành đối tượng
nằm trong âm mưu xâm lược của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua với nhiều đế
quốc khác. Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và
từ đó từng bước thôn tính Việt Nam. Sau nhiều Hiệp ước được ký kết giữa thực dân
Pháp với triều Nguyễn, Hiêp ước Patenotre ngày 6/6/1884 đánh dấu thời điểm Việt
Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới
gót sắt của kẻ thù hung ác”1. Từ năm 1897, thực dân pháp tiến hành khai thác thuộc
địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa lần thứ hai quy mô lớn với số vốn đầu tư khổng lồ, tốc độ nhanh. Do sự du
nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự
thay đổi, quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ hình thành nên những đô thị mới, những
trung tâm kinh tế và tụ điểm dân cư mới. Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột,
cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ
sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác
thuộc địa. Nhưng thực dân Pháp không du nhập hoàn toàn phương thức tư bản chủ
nghĩa vào Việt Nam mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai
1
(2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 401.
3
phương thức để thu lợi nhuận siêu ngạch, chính vì thế Việt Nam không thể theo con
đường tư bản chủ nghĩa được khiến cho Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và
phụ thuộc vào thực dân Pháp.

Bằng cách duy trì chính quyền phong kiến làm tay sai, thực dân Pháp đã tiến
hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa trên nước ta. Pháp thi hành chính sách
“chia để trị”, phân nước ta thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, nhập với Lào và
Campuchia nhằm xoá tên nước ta ra khỏi bản đồ thế giới, đồng thời áp đặt các chế độ
chính trị khác nhau nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc ta. Mưu đồ biến Việt Nam
thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột
sức lao động người bản xứ, cùng nhiều loại thuế khóa nặng nề. Đưa ra các hình thức
xử phạt tàn bạo nhầm đàn áp những người Việt Nam yêu nước chống Pháp.

Về văn hoá chúng thi hành chính sách văn hoá nô dịch gây tâm lý tự ti, vong bản,
khuyến khích mê tín dị đoan, thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù
nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã
hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn
và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng
“khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta
bị cấm đoán, chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa
tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để thuận lợi trong
việc cai trị.

1.2 Tình hình giai cấp và mâu thuẫn giai cấp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu
thế kỉ XX
1.2.1 Các giai cấp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Từ năm 1858 đến năm 1930, trước tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam
cùng với chính sách cai trị và khai thác bốc lột của thực dân Pháp đã khiến những giai
cấp cũ vốn có của chế độ phong kiến gồm địa chủ và nông dân bị phân hoá, đồng thời
xuất hiện những tầng lớp, giai cấp mới bao gồm có công nhân, tư sản và tiểu tư sản với
địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có thái độ khác nhau.

Giai cấp địa chủ là giai cấp cũ được chia thành bốn bộ phận: Một bộ phận địa
chủ câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc ra sức đàn áp
4
phong trào yêu nước và bóc lột nhân dân; Một bộ phân khác nêu cao tinh thần dân tộc
khởi xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến; Một
số trở thành lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản
động; Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản.

Giai cấp nông dân là một lực lượng hùng hậu, chiếm số lượng đông đảo nhất. Là
một giai cấp cũ ngoài mâu thuẫn giai cấp vốn có với giai cấp địa chủ, từ khi thực dân
Pháp sang xâm lược, giai cấp nông dân còn mâu thuẫn sâu sắc với thực dân Pháp, họ
vừa bị đế quốc, vừa bị địa chủ bóc lột nặng nề, cuộc sống càng khốn khổ. Chính vì sự
căm thù thực dân, phong kiến ấy nên đây là giai cấp có tinh thần đấu tranh kiên cường
bất khuất, sẵn sàng hưởng ứng và tham gia các cuộc đấu tranh để giành lại độc lập tự
do cho dân tộc và khao các giành lại ruộng đất cho dân cày.

Giai cấp công nhân là giai cấp mới được ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa,
đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trưc tiếp và chặc chẽ với giai cấp
nông dân do ra đời trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến làm việc trong
các đồn điền, hầm mỏ với đồng lương ít ỏi bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột nên
đời sống khổ cực, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh
chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo
cách mạng.

Giai cấp tư sản chia làm hai bộ phận: Một bộ phận gắn liền với lợi ích tư bản
Pháp; Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm,
bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế lẫn địa vị chính trị. Vì thế, phần lớn tư sản dân tộc Việt
Nam có tinh thần dân tộc và yêu nước nhưng chỉ ở một mức độ nhất định, không có
khả năng tập hợp các giai cấp để tiến hành cách mạng.

Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề sống tự
do,... đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản. Bị đế quốc, tư bản chèn
ép, khinh miệt do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước, có khả năng tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.

1.2.2 Mâu thuẩn giai cấp ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Trong giai đoạn trước đây, trước khi thực dân Pháp xâm lược, mâu thuẫn vốn có

5
của xã hội Việt Nam trong giai đoạn là mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với đế quốc
phong kiến là chủ yếu. Xuất phát trong lòng của chế độ phong kiến, trải qua 10 triều
đại phong kiến đã khiến cho quan hệ bốc lột của địa chủ đối với nông dân ngày càng
gay gắt. Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp địa chủ, lấy vua chúa làm trung
tâm, bóc lột nhân dân, dùng mồ hôi nước mắt của nông dân để chu cấp cho các quan
lại và quân lính, áp bức và bóc lột nhân dân. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX, mâu
thuẫn trong xã hội Việt Nam cũng thay đổi, dưới tác động của chính sách cai trị và
chính sách kinh tế, văn hoá và giáo dục của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã diễn ra
quá trình phân hoá sâu sắc. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
đều mang thân phận mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức,
bóc lột. Vì vậy ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai
cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược, đánh đuổi thực
dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Cùng đó là mâu thuẫn ở
giai đoạn trước, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ
yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ hàng đầu. Bởi lẽ, do tính chất xã hội Việt Nam lúc này là nước thuộc địa nửa phong
kiến, mâu thuẫn giữa nông dân với đế quốc phong kiến “là mâu thuẫn chính nhất ở quê
nhà”, cần phải đứng dậy chống ngoại xâm trước hết, yêu cầu độc lập dân tộc là cấp
bách hơn so với yêu cầu chống phong kiến đòi ruộng đất. Chủ nghĩa đế quốc xâm lược
ở nước ta chủ yếu là áp bức và bóc lột nông dân, cho nên thực chất của vấn đề thuộc
địa cũng là ảnh hưởng tới nông dân, nó gắn chặt với cách thức giải quyết giữa hai
nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm và chống phong kiến. Và đó cũng là đường lối chính
trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội mà
Đảng ta sau khi thành lập đã lựa chọn đó là chống đế quốc Pháp, giải phóng dân tộc
giành lại chủ quyền.
Tiểu kết chương 1

Bối cảnh lịch sử thế giới từ nửa sau thế kỷ XIX với những nhân tố đã góp phần
ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam. Thứ nhất là sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản
trở thành tư bản độc quyền đã gây ra nhiều hậu quả có tác động mạnh mẽ đến tình hình
Việt Nam. Hai là ảnh hưởng của cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin
6
từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống
đế quốc, thời đại phong trào giải phóng dân tộc. Ba là ảnh hưởng của sự thành lập
quốc tế cộng sản đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau nhiều lần nhượng bộ của triều đình nhà Nguyễn, Thực dân Pháp đã chính
thức bước vào giai đoạn 61 năm đô hộ nước ta bằng 19 điều khoản trong hiệp ước
Patenotre. Như vậy, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đã có những
biến đổi rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác
bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hoá những giai cấp cũ; tạo nên những tầng lớp,
giai cấp mới với thái độ chính trị khác nhau; đồng thời làm xuất hiện những mâu thuẫn
mới trong xã hội Việt Nam. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày
càng gay gắt. Các giai cấp, tầng lớp đều mang trong mình thân phân người dân mất
nước, hoàn cảnh tương tự nhau, bị chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc ở những mức độ khác
nhau. Nhưng họ đều có chung một tinh thần yêu nước, cùng muốn đứng lên chống lại
thực dân Pháp, giành lại độc lập cho đất nước. Đây là yếu tố quan trọng nhất để hình
thành khối đại đoàn kết toàn dân, nhưng cũng là một bài toán khó khi cần có người
đứng ra giải quyết, chỉ đạo và điều lái con tàu cách mạng dân tộc.

Chương 2 : QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG

2.1 Các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời

2.1.1. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến

Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng thực dân
Pháp và ký các Hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884), song phong trào chống
thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) do Hàm
Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh
thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở
(Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào
Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc
7
khởi nghĩa như Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881 - 1887), Bãi Sậy
của Nguyễn Thiện Thuật (1883 - 1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885 -
1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ
sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập do
lịch sử đặt ra.

Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ
yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô
hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy Tân (1904), tổ chức phong trào
Đông Du (1906 - 1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật chống đế quốc Pháp không
thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi (1911) bùng nổ và
thắng lợi. Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập
hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc,
nhưng rồi cũng không thành công.

Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí,
nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp
pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho
nước Việt Nam. Ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những
nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Ở
Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy Tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp
với phong trào đấu tranh chống thuế (1908).

Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể
tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của
dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.

2.1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế
lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam
đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ
thể với các hình thức khác nhau.
8
Năm 1919 - 1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ
lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hóa bài trừ ngoại hóa, chống độc
quyền thương cảng Sài Gòn, chống việc độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ, đòi
thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.

Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư
sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo
quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền
lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.

Năm 1925 – 1926 đã diễn ra phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư
sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như Việt Nam Nghĩa
đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà
xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng
thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê
(Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)… Có nhiều phong trào đấu tranh chính
trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và
để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926).
Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc
vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy
nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày
càng bị phân hóa mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản
( như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu
biểu là Phục Việt, Hưng Nam).

Năm 1927 – 1930, phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời
và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25/12/1927). Cội nguồn Đảng này là
Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và
Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở
Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt
Nam trong quân đội Pháp.Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ
nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương
đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ

9
có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ
trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một
hệ thống tổ chức thống nhất.

Ngày 9/2/1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm
mộ phu Bazin tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước.
Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các
lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng
với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.

Ngày 9/2/1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái
với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. Ở một số địa phương như Thái
Bình, Hải Dương… cũng có những hoạt động phối hợp.

Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân
Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn
chiến sĩ yêu nước bị bắt và kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô vang
khẩu hiệu “Việt Nam vạn tuế”. Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào
dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.

Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những
hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của
giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất
nhỏ yếu cả về kinh tế lẫn chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc.

Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đăc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất
là lớp thanh niên tri thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường
mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu
mới của nhân dân Việt Nam.

2.2 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng

10
2.2.1. Vai trò lựa chọn con đường giải phóng dân tộc

Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến hàng loạt các cuộc khởi nghĩa
của nhân dân chìm trong bể máu, mang trong mình lòng yêu nước thương nòi, một
truyền thống bất khuất của dân tộc và lòng căm thù giặc sâu sắc, đồng thời vượt qua
hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc quyết định ra đi tìm
đường cứu nước.

Ngày 5/6/1911, Người lấy tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên chiếc tàu Latouche
Treville thuộc hãng Vận tải hợp nhất, rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) chính thức bắt đầu
cuộc hành trình ra đi tìm đường cứu nước. Trong thời gian từ năm từ 1911 đến năm
1920, Nguyễn Ái Quốc đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục. Người vừa phải tìm việc
làm để kiếm sống, vừa tự học tập và tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Ở đâu
Người cũng quan sát, so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu thực chất, không dừng lại ở
hình thức bên ngoài. Sau một thời gian sống và hoạt động ở nước ngoài, chứng kiến
cuộc sống của nhân dân lao động ở nhiều nước trên nhiều châu lục, bằng tư duy thực
chứng, Người đã nhận thức được rằng: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
mối tình hữu ái là thật mà thôi - Tình hữu ái vô sản"2 từ đó xác định rõ kẻ thù và lực
lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.

Năm 1917, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đi đến Pháp và
tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga và về V.I.Lênin. Trước khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con
đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, với hành trang chủ nghĩa yêu nước - nhân
văn truyền thống và với những nhận thức mới có tính nhân loại về vấn đề dân tộc - con
người. Hồ Chí Minh đã tìm hiểu nhiều học thuyết và xem xét các hình mẫu cách mạng
điển hình như cách mạng tư sản Pháp và Mỹ, nhưng Người đều chối từ. Sự từ chối đó
xuất phát từ nguyên nhân căn bản là những học thuyết tư sản và mẫu hình cách mạng
dân tộc và xã hội này đã không giải quyết “đến nơi” vấn đề con người như tuyên ngôn
cách mạng của nó rằng công nông vẫn cực khổ và chỉ là sự thay đổi kẻ bóc lột mà thôi.

2
(2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr.287.
11
Người đã thấy rõ những tuyên bố của giai cấp tư sản "chỉ là trò bịp lớn"3. Tìm hiểu về
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, Người viết: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng
cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư
bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm
cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh
Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công
nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin"4.

Tháng 6/1919, Nguyễn Tất Thành thay mặt Hội những người An Nam yêu nước
ở Pháp gửi tới hội nghị Versailles bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” (gồm tám
điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam). Sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn
trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực
dân.

Tháng 7/1919, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Những luận điểm ấy đã giải đáp những vấn
đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý
luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản và cách mạng giải
phóng các dân tộc thuộc địa đã cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc cơ sở lý luận quan
trọng cho những kết luận mà Người rút ra từ khảo sát thực tiễn dân tộc cũng như thực
tiễn thế giới về con đường giải phóng và phát triển dân tộc. Từ đó Nguyễn Ái Quốc
xác định thái độ ủng hộ, bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, gia nhập Quốc tế Cộng
sản. Người đã khẳng định: "Ðây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta"5.

Năm 1923, Người tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Matxcova. Sau
khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Người xác định: “Muốn cứu nước

3
(2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 416
4
(2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr.304.
5
(2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr.562.
12
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”6.
Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Với quá trình này, Người
đã bắt tay vào chuẩn bị các điều kiện cho một chính đảng trong tương lai.

2.2.2. Quá trình chuẩn bị cho việc thành lập Đảng

Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục
khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức, bắt đầu những bước chuẩn bị về tư tưởng,
về chính trị, về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác- Lênin về Việt Nam.

Một là, chuẩn bị về tư tưởng - chính trị

Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa
khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ
báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống
công nhân, Tạp chí Cộng sản và Tập san Thư tín quốc tế. Thông qua nhiều phương
thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực, kiên trì tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc
lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi,
thức tỉnh nhân dân áp bị áp bức đấu tranh giải phóng. Đồng thời tiến hành tuyên truyền
tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, ra sức xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa
những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa.

Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa
nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố
cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân
các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Để
truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên do Người thành lập đã
xuất bản tờ báo Thanh niên nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và phương
hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam, Người chỉ rõ bản
chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân
6
2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 30
13
tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.

Năm 1927, tác phẩm Đường Kách Mệnh được xuất bản, xác định rõ con đường,
mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng, trình bày, phân tích
những điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng. Trong tác
phẩm Đường Kách Mệnh, Người đã khẳng định về Cách mạng Việt Nam như sau:
“Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không
có bàn chỉ nam”7.

Về chính trị, xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của
V.I.Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra những luận
điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định, con đường cách
mạng của mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối
chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh
phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân
dân. Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không
phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách
mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính
quốc”.

Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp
lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên

7
(2002), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 267 - 268.
14
minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh; còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”8. Do vậy,
Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là
việc của một hai người”9.

Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”10. Phong trào “Vô sản hóa”
do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát động từ ngày 29/9/1928
đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ
chức của công nhân.

Hai là, chuẩn bị về tổ chức - chính trị

Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản - cho dân
tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ,
tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Vì vậy, sau một thời
gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng
11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi có đông người Việt Nam yêu
nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng
2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm
Cộng sản Đoàn.

Tháng 6 /1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
- một tổ chức yêu nước, tiền cộng sản, phù hợp với trình độ của phong trào cách mạng
Việt Nam lúc bấy giờ - tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội
đã công bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập
tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ
nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm năm
cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay thảnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Tống bộ là cơ
quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu. Thấm nhuần

8
(2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr.288.
9
Nguyễn Ái Quốc (1927), Đường Kách Mệnh, trang 11.
10
(2011), Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 289.
15
nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc
xác định Đảng Cộng sản phải có lý luận tiên phong dẫn được, phải giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kỷ luật tự giác và nghiêm minh, đoàn
kết thống nhất, gắn bó với nhân dân. Tin tưởng vào thanh niên - thế hệ trẻ và là tương
lai của dân tộc, Nguyễn Ái Quốc không những tập hợp thanh niên vào một tổ chức mà
còn đào tạo họ thành những lớp người kiên trung của Đảng. Đó là Đinh Đức Cảnh,
Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ và Lê Hồng Phong.

Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ
đạo), tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin và
phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng
tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21/6/1925 ra số đầu tiên,
đến tháng 4/1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau khi
Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4/1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong
Tổng bộ vẫn tiếp tục việc xuất bản và hoạt động cho đến tháng 2/1930 với 202 số (từ
số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng Hải). Một số lượng lớn báo Thanh niên
được bí mật đưa về nước và tới các trung tâm phong trào yêu nước của người Việt
Nam ở nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt
Nam. Ngoài ra còn một số các tờ báo định kỳ khác như: tờ tuần báo Công nông (xuất
bản cuối 1926 – 1928) đối tượng tuyên truyền chủ yếu là công nhân và nông dân; tờ
Lính cách mệnh xuất bản đầu 1927 đến 1928, lấy binh sĩ Việt Nam trong quân đội
Pháp ở Đông Dương làm đối tượng tuyên truyền.

Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc
trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên
tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa năm
1925 đến tháng 4/1927, Hội đã tổ chức được trên mười lớp huấn luyện tại nhà số 13 và
13B đường Văn Minh, Quảng Châu (nay là nhà số 248 và 250). Sau khi được đào tạo,
các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo
khuynh hướng vô sản. Trong số học viên được đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng
chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) và trường Quân
chính Hoàng Phố (Trung Quốc).

16
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4/1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcova
và sau đó được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Au. Năm 1928,
Người trở về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan).

Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những
người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
Á - Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên
của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở
vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên
phong. Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” (1927) của Người là sự chuẩn bị tập trung và
chu đáo về lý luận chính trị cho Đảng ta, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối chính trị
của cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đường Cách mệnh đã chỉ
ra mục tiêu giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu, trước hết
của cách mạng Việt Nam và các nước thuộc địa là giải phóng dân tộc; về sự cần thiết
phải đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp vô sản thuộc địa, đoàn kết
giữa các nước thuộc địa hình thành mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc; về khả
năng nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản của cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa; cách mạng Việt Nam sau khi giành thắng lợi sẽ đi lên Chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng muốn thắng lợi phải có Đảng lãnh đạo, phải có lý luận khoa
học dẫn đường và có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn.

Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu
phát triển cơ sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn
chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản nhưng chương trình hành động đã
thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra
đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác
- Lênin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành
lập chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh
hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu
nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

17
2.3 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và sự ra đời các tổ chức
Cộng sản ở Việt Nam

2.3.1 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản

Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên và tổ chức, vận động nhân dân đấu tranh đã dấy lên một phong trào dân tộc dân
chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân.

Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào đã diễn ra với những hình thức sơ khai
như bỏ trốn tập thế, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký, đưa đơn phản kháng, rồi
tiến dần lên những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi công. Năm
1907 đã nổ ra cuộc bãi công đầu tiên của 200 công nhân viên chức hãng Liên hiệp
Thương mại Đông Dương (LUCI) ở Hà Nội. Năm 1912, có cuộc bãi công của công
nhân Ba Son và cuộc bãi khóa của học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn… Ngoài ra,
công nhân còn tham gia các phong trào yêu nước khác: công nhân mỏ than Đông Triều
tham gia đội nghĩa quân của lãnh binh Pha và lãnh binh Hy (1892); công nhân làm
đường Phủ Lạng Thương - Lạng Sơn tham gia phong trào khởi nghĩa Yên Thế, tập
kích các đạo quân đóng dọc đường sắt và nhà ga (1894); những bồi bếp và công nhân
làm trong quân đội Pháp tham gia vụ đầu độc binh lính và sĩ quan Pháp ở Hà Nội
(1908); công nhân tham gia khởi nghĩa Duy Tân ở Huế (1916); trong cuộc binh biến ở
Thái Nguyên, công nhân tham gia trực tiếp chiến đấu, hoặc rèn vũ khí cho nghĩa quân
(1917).

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân ở nước ta ngày càng đông
đảo và tập trung hơn. Trong những năm 1919 - 1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu
biểu là các cuộc bãi công của công nhân viên chức các cơ sở công thương tư nhân Bắc
Kỳ, công nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn, Chợ Lớn (1922), các nhà máy dệt, rượu, xay
xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương (1924). Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của
hơn 1000 công nhân Xưởng sửa chữa tàu thủy Ba Son, Sài Gòn (8/1925) do Tôn Đức
Thắng tổ chức, không chịu chữa chiến hạm Michelet để thực dân Pháp chở quân đi
đàn áp phong trào nổi dậy chống xâm lược của nhân dân Trung Quốc tại các thành phố
có tô giới của đế quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách đòi tăng lương 20%, thu nhận

18
những công nhân bị sa thải được trở lại làm việc. Cuộc bãi công được công nhân nhiều
xưởng ở Sài Gòn - Chợ Lớn ủng hộ. Chủ hung hãn đe dọa, nhưng không khuất phục
được, cuối cùng chúng phải nhượng bộ, chịu tăng 10% lương cho công nhân. Mặc dù
vậy, sau khi trở lại làm việc công nhân Ba Son còn tìm cách lãn công, kéo dài thời hạn
sửa chữa, làm cho chiến hạm Michelet phải nằm chờ 4 tháng mới nhổ neo đi lên
hướng Bắc được. Ngoài ra, trong phong trào dân chủ những năm 1925 - 1926, công
nhân đã tham gia các cuộc mít tinh biểu tình đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu, để
tang Phan Châu Trinh,...

Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919 - 1925 đã có bước phát triển
mới so với trước chiến tranh. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy
mô lớn hơn và thời gian dài hơn.

Từ năm 1926 đến năm 1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra
đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong những năm 1926 -
1927, mỗi năm có hàng chục cuộc bãi công. Trong hai năm 1928 - 1929 nổ ra hơn 40
cuộc đấu tranh, tiêu biểu là các cuộc bãi công ở Nhà máy xi măng Hải Phòng, Nhà
máy sợi Nam Định, Nhà máy diêm và Nhà máy cưa Bến Thủy, Xưởng sửa chữa ô tô
Avia Hà Nội, Nhà máy sợi Hải Phòng, Mỏ than Hòn Gai, Nhà máy xe lửa Trường Thi
(Vinh), Xưởng sửa chữa tàu thủy Ba Son (Sài Gòn), Đồn điền cao su Phú Riềng,v.v…
Các cuộc đấu tranh đó đã kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với những khẩu hiệu chính
trị, vượt ra ngoài phạm vi một nhà máy, đồn điền, bước đầu có sự liên kết nhiều ngành,
nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt
tuy chưa được đều khắp. Phong trào phát triển mạnh mẽ, có sức quy tụ và dẫn đầu
phong trào yêu nước nói chung.

2.3.2 Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản

Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát
triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng. Yêu
cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội
bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản
ở Việt Nam.

Phong trào Vô sản hóa (1928) của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên diễn ra
19
mạnh nhất là ở Bắc Kỳ, làm cho phong trào cách mạng ở đây phất triển sôi nổi hơn,
yêu cầu thành lập đảng cộng sản cũng xuất hiện sớm hơn. Cuối tháng 3/1929, một số
phần tử tiên tiến họp ở nhà số 5 Đ, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng
sản đầu tiên, gồm 7 đảng viên (Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh
Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tôn), do Trần Văn Cung làm Bí
thư. Chi bộ tích cực chuẩn bị để đi đến thành lập một đảng cộng sản thay thế cho Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Tháng 5/1929, tại Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp
tại Hương Cảng đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến
thành lập đảng cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự dẫn đầu kiên quyết
đấu tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu đó không được chấp nhận,
đoàn đại biểu Bắc Kỳ liền rút khỏi Đại hội về nước.

Ngày 17/6/1929, tại nhà số 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở
cộng sản ở miền Bắc họp đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng,
thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa liềm và cử ra Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời của Đảng.

Trước nhu cầu của phong trào cách mạng và với sự ra đời của Đông Dương Cộng
sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên ở Trung Kỳ và Nam Kỳ vạch ra kế hoạch tổ chức đảng cộng sản. Ngày 25/7/1929,
các đồng chí trong bộ phận Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc
gửi Đông Dương Cộng sản Đảng một bức thư thông báo rằng họ quyết định lập một
Đảng Cộng sản bí mật. Một số hội viên giác ngộ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc được tổ chức thành một chi bộ với danh nghĩa chi
bộ của An Nam Cộng sản Đảng. Một số chi bộ cộng sản lần lượt thành lập ở Nam Kỳ.
Theo đồng chí Hà Huy Tập, An Nam Cộng sản Đảng họp Đại hội tại Sài Gòn để thông
qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tuy hai tổ chức cộng sản trên hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công kích lẫn
nhau, song từ sự ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đến sự xuất hiện các tổ
chức cộng sản là một xu thế phát triển khách quan của phong trào cách mạng Việt
Nam lúc bấy giờ.

20
Cùng với sự phân hóa trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt
Cách mạng Đảng cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ. Tân Việt cách mạng Đảng ra đời
là kết quả của sự phân hóa nội bộ các nhóm tiểu tư sản yêu nước trong cuộc đấu tranh
giữa hai đường lối cách mạng vô sản và tư sản trong phong trào dân tộc Việt Nam.
Tiền thân của Tân Việt cách mạng Đảng là Hội Phục Việt (1925), đổi thành Hội Hưng
Nam (1926). Để giao thiệp với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tháng 7/1926
Hội Hưng Nam đổi thành Việt Nam cách mạng Đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng
chí Hội (7/1927). Trong khoảng thời gian 1926 - 1928, nhiều lần Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên và Việt Nam cách mạng Đảng bàn việc hợp nhất nhưng không đi
đến kết quả. Vì thế, ngày 14/7/1928 Việt Nam cách mạng đồng chí Hội họp Đại hội ở
Huế, quyết định tổ chức ra một đảng “tự lập” lấy tên là Tân Việt Cách mạng Đảng.
Tân Việt ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
ngày càng phát triển, lý luận Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tân Việt, cuốn hút nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến đi theo
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong nội bộ Tân Việt đã diễn ra cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng cách mạng và cải lương, cuối cùng xu hướng
cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân
Việt đã ngả sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Số tiên tiến còn lại chuẩn bị
để tiến tới thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng (6/1929) và An Nam cộng sản Đảng
(8/1929) tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa trong Tân Việt, những đảng viên tiến tiến
đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản.

Tháng 9/1929, họ công bố Tuyên đạt, nêu rõ “những người giác ngộ cộng sản
chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng
viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng
chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn”11 . Đây là một chính
đảng cách mạng vô sản. Mục tiêu của đảng là đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho
xứ Đông Dương, xóa bỏ nạn người bóc lột người, xây dựng chế độ công nông chuyên
chính, tiến lên chế độ cộng sản chủ nghĩa. Theo kế hoạch, Đông Dương Cộng sản Liên

11
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.404.
21
đoàn sẽ họp đại hội chính thức vào 1/1/1930 song trên đường đến địa điểm đại hội, các
đại biểu đã bị địch bắt, song Đảng vẫn tích cực hoạt động.

Chỉ trong bốn tháng ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời, điều đó chứng tỏ
xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam.
Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở ở nhiều địa phương trong cả
nước và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng. Phong trào công
nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng,
chống cướp ruộng đất và phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, tạ
thành một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ khắp cả nước.

2.4 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

2.4.1 Hội nghị thành lập Đảng

Các phong trào dân tộc ở Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, do đó đòi
hỏi sự lãnh đạo của một chính đảng. Ba tổ chức đảng đang tồn tại nhưng hoạt động
riêng rẽ làm phân tán sức mạnh của các phong trào cách mạng. Trước tình hình đó,
ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản gửi đến tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng
sản ở Đông Dương, chỉ ra: "Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong
trào quần chúng công nhân và nông dân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều
nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của cuộc cách mạng ở Đông Dương".
Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: "Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả
những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai
cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông
Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương"12 .
Nhưng tài liệu chưa đến tay những Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc lúc này được nghe thông báo về tình hình không thống nhất các
tổ chức cộng sản trong nước. Ngày 23/12/1929, Người đã từ Xiêm tới Hương Cảng,
Trung Quốc. Ngày 6/1/1930, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương
“Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị kéo dài đến tuần đầu của tháng
12
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 404.
22
2/1930. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9/1960 quyết nghị từ
nay trở đi lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập
Đảng”13 .

Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình
Cửu và Nguyễn Đức Cảnh) và hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng (Nguyễn
Thiệu và Châu Văn Liêm). Tổng số đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng và An
Nam cộng sản Đảng cho tới Hội nghị hợp nhất là 310 đồng chí (ở Xiêm: 40, Bắc Kỳ:
204, Nam Kỳ: 51, Trung Quốc và nơi khác: 15, Trung Kỳ thì ghép vào Bắc Kỳ và
Nam Kỳ)14.

Để tiến tới mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam, hội nghị
đã xác định rõ vấn đề quan trọng là phải phê bình và tự phê bình những thành kiến
giữa các tổ chức cộng sản, phải xóa bỏ những khuyết điểm, thành thật hợp tác. Tiếp đó
hội nghị thảo luận thông qua Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thống nhất các tổ chức
cộng sản trong nước.

Hội nghị đã chỉ ra những sai lầm khuyết điểm của từng tổ chức cộng sản. Đối với
An Nam Cộng sản Đảng: điều kiện công nhận đảng viên chính thức quá khắt khe, điều
kiện gia nhập công hội, nông hội, học sinh hội cũng quá khắt khe. Sai lầm khuyết điểm
của Đông Dương Cộng sản Đảng: điều kiện công nhận đồng chí chính thức và điều
kiện kết nạp vào công hội cũng quá khắt khe. Sai lầm về tổ chức đảng là có tính bè
phái, xa rời quần chúng, làm tan ra Thanh Niên và Tân Việt trái với đường lối của
Quốc tế Cộng sản.

Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thành lập
một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, cử Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời: Bắc Kỳ và Trung Kỳ do Trung ương Đông Dương Cộng sản Đảng lãnh
đạo sẽ cử năm ủy viên, Nam Kỳ sẽ do Trung ương Đông Dương Cộng sản Đảng và
Ban Chấp hành lâm thời An Nam Cộng sản Đảng giới thiệu hai đảng viên (đưa vào
Trung ương mới).

13
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 404, t.2, tr.19,
t.4, tr.401, t.21, tr.904.
14
PGS, NGND.Lê Mậu Hãn - PGS,TS.Trình Mưu - GS,TS. Mạch Quang Thắng, Giáo trình Lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam, Bộ giáo dục và đào tạo.
23
Tiếp đó hội nghị đã thảo luận thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Chủ
trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội phản đế, thu hút những công
nhân, nông dân không thể kết nạp vào Đảng, các tri thức, tiểu tư sản. Cử cán bộ lãnh
đạo, đưa các tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên , Tân Việt gia nhập Hội
Phản đế, kết nạp những người ưu tú vào Đảng.

Thành lập Hội Cứu tế do đảng viên được Đảng cử ra phụ trách, tuyên truyền phát
triển hội viên. Hội làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị bảo vệ, giúp đỡ các chiến sĩ và gia
đình về vật chất khi bị chính quyền bắt bớ, kết án, tù đày… Hội nghị quyết định bỏ
những tờ báo của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, thay vào
đó xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền.

8/2/1930, các đại biểu về nước thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng. Ban
chấp hành Trung ương lâm thời gồm có: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn
Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phan Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo. Thành lập
các xứ ủy: Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ ủy bắc Kỳ, Nguyễn Phong Sắc là Bí thư Xú ủy
Trung Kỳ, Ngô Gia Tự là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt lớn trong lịch sử đấu tranh
của dân tộc Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức được thành lập là một tổ chức cách mạng
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong chào yêu nước
Việt Nam đầu thế kỉ XX. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là một bộ phận của cách mạng thế giới, được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế
giới, cùng với sức mạnh dân tộc tạo nên những thắng lợi vẻ vang, góp phần tích cực
vào sự nghiệp đấu tranh giành hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ nhân loại trên thế
giới. Ngay từ ngày mới thành lập "Đảng ta liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn
kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường
dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách

24
mạng”15.

2.4.2 Cương lĩnh chính trị của Đảng

Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua các văn kiện gồm có Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Những văn kiện
này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung
cơ bản là xác định về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của cách mạng
Việt Nam sau khi thành lập Đảng. Xác định phương hướng chiến lược là “ làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cụ thể:

Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, dựng ra
Chính phủ công – nông – binh và tổ chức quân đội công nông.

Về kinh tế, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
mới, tịch thu ruộng đất của đế quốc chia cho dân cày nghèo, mở mang công – nông
nghiệp, miễn thuế dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ.

Về văn hóa xã hội, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ
thông theo hướng công nông hóa.

Cương lĩnh đã xác định rõ lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp
công nhân, nông dân, phải dựa vào dân cày nghèo, làm cách mạng ruộng đất, lôi kéo
tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung
tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất
là làm cho họ về phe trung lập. Bộ phận nào phản cách mạng thì phải lật đổ. Công
nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông quan Đảng Cộng sản. Không bao giờ được
hi sinh quyền lợi của giai cấp công nhân, nông dân cho giai cấp nào khác.

Về mối quan hệ quốc tế, xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng nhân dân vô sản
trên thế giới, đặc biệt là vô sản Pháp.

Các chủ trương trên phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
"Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút

15
Bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
25
lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp"16 .

Song bản luận cương này vẫn còn một số hạn chế: không vạch ra được đâu là
mâu thuẫn chủ yếu, không đề ra được mối liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong
cuộc chiến tranh dân tộc và bọn tay sai, đánh giá không đúng vai trò vị trí của các giai
cấp tầng lớp khác vì vậy không lôi kéo được bộ phận có tinh thần yêu nước.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lính đúng đắn và sáng tạo.
Tuy rằng không hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam, nhưng đã đáp ứng được nhu
cầu khách quan của lịch sử, phù hợp xu thế phát triển thời đại mới, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, quan điểm giai cấp. Tư tưởng cốt lõi là cách mạng tư sản dân quyền và
cách mạng ruộng đất, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh rất
phù hợp với nguyện vọng tha thiết của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng
đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn, còn các đảng phái của giai cấp
khác hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng - giai cấp công
nhân không ngừng được củng cố, tăng cường.

Tiểu kết chương 2

Sau khi nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, những mâu thuẫn
trong nước phát sinh và không thể hòa giải giữa các giai cấp, tầng lớp đã làm nổi dậy
nhiều phong trào đấu tranh chủ yếu theo hai khuynh hướng chính là khuynh hướng
phong kiến và khuynh hướng dân chủ tư sản. Tuy nhiên, các phong trào trên đều bị
thất bại trước sự đàn áp của Thực dân Pháp. Trong khi đó, chàng thanh niên 21 tuổi,
Nguyễn Ái Quốc, đã bước chân đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước để tìm lấy con
đường giải phóng dân tộc. Bằng những khảo sát thực nghiệm và những kiến thức thu
nhập được, đặc biệt là lý luận của V.I.Lênin giúp Người xác định được chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản là một con đường mới giúp dân tộc ta giành lại được độc lập.
Sau đó, dưới sự hỗ trợ của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị chu toàn
nhiều bước về tư tưởng, tổ chức, chính trị cho ngày Việt Nam ta thực sự có được một
tổ chức lãnh đạo. Từ khi các tư tưởng cách mạng vô sản được chủ động truyền bá vào
Việt Nam, hàng loạt các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng vô sản đã diễn ra,

16
Ban XDĐ (23/08/2019), Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập từ https://dangcongsan.vn/tu-
lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-
cuoc-thi/-hoi-nghi-thanh-lap-dang-cong-san-viet-nam-532787.html.
26
chủ yếu là các cuộc bãi công, tập kích, đấu tranh đòi quyền lợi của giai cấp công nhân.
Đồng thời, các công tác chuẩn bị về tổ chức chính trị trên đã làm hình thành ba tổ chức
Cộng sản ở nước ta gồm Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và
Tân Việt Cách mạng Đảng. Mặc dù các tổ chức cộng sản trên hoạt động cùng một mục
đích nhưng diễn ra riêng rẽ, không nhất quán hay thậm chí còn công kích lẫn nhau.
Đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản đã
triệu tập đại biểu các tổ chức trên để tiến hành hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Cũng tại hội nghị thành lập Đảng, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã được thông qua với các nội dung gồm đường lối, nhiệm vụ, chiến
lược của cách mạng Việt Nam trên toàn bộ các phương diện như chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội, quân sự và quan hệ ngoại giao. Có thể nói, kể từ đây con thuyền cách
mạng Việt Nam đã có người với đầy đủ trí tuệ, bản lĩnh đứng ra chèo lái; dân tộc Việt
Nam đã có được một tổ chức lãnh đạo đúng đắn và kịp thời; con đường đi đến độc lập,
tự do đã được soi sáng bởi ngọn đuốc đi đầu mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam.

KẾT LUẬN
Tóm lại, với bài tiểu luận “Những yếu tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam”, nhóm đã giải quyết các vấn đề đã đề ra bằng cách trình bày trong hai
chương chính. Chương 1 Đặc điểm kinh tế, xã hội việt nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ
XX đã mô tả bức tranh tình hình thế giới và tình hình Việt Nam, chủ yếu nhấn mạnh sự
xâm lược của chủ nghĩa thực dân đã ảnh hưởng sâu sắc đến nội tình đất nước Việt
Nam, làm cho tất cả các tầng lớp giai, giai cấp đều bị kiềm hãm, áp bức, bốc lộc nặng
nề và từ đó cũng làm trổi dậy tinh thần dân tộc, đấu tranh chống các thế lực cai trị tàn
bạo.Và Chương 2 Quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt nam và vai trò của
Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng đã từng bước chỉ các hình thức đấu tranh
khác nhau của các tầng lớp, giai cấp yêu nước, tiêu biểu là người hùng của dân tộc
Việt Nam, trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Nguyễn Ái Quốc và hình thức
đấu tranh theo khuynh hướng vô sản mà Người đã toàn tâm tìm kiếm, áp dụng và
chuẩn bị chu toàn, dẫn đến sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng
27
Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai
cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ra đời,
Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải
phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam,
mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính
đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất
của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ
đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt gần 90 năm qua.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] (2011), Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.

[2] Ban XDĐ (23/08/2019), Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập từ
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-
su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/-hoi-nghi-thanh-lap-dang-
cong-san-viet-nam-532787.html.

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia -
Sự thật.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia Tập 1, Hà Nội.

[5] Nguyễn Ái Quốc (2022), Đường Cách Mệnh, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật.

[6] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Trung cấp lý luận
chính trị “Nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”, Nxb Lý luận Chính trị.

[7] Ngô Đức Hải (28/01/2021), Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, truy cập từ
https://www.tuyengiaokontum.org.vn/Lich-su/cuong-linh-chinh-tri-dau-tien-cua-dang-
3051.html.
[8] Tạp chí Tuyên giáo (7/6/2021), Con đường sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, truy cập từ https://btgtu.camau.dcs.vn/con-duong-
sang-lap-dang-cong-san-viet-nam-cua-nguyen-ai-quoc-ho-chi-
minh.650.650?fbclid=IwAR3TVuexz9PqapFxyJRpOu6LZP6GzZCslrKvON2BSGMy
kbLrCeEC4CuzM6A.

[9] Trần Dân Tiên (1970), Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb.
Văn học.

29

You might also like