You are on page 1of 35

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Câu hỏi: Bằng lý luận và thực tiễn, phân tích, chứng minh Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời 03/02/1930 là tất yếu khách quan? Quan
điểm của anh (chị) như thế nào về ý kiến cho rằng ở Việt Nam cần
thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo? Vì sao?

Giảng viên hướng dẫn: Cô Đinh Thị Điều


Lớp học phần: 221DL0617
Nhóm trình bày: Nhóm 1

TP. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 11 năm 2022


i

DANH SÁCH THÀNH VIÊN


STT Họ và tên MSSV
1 Võ Xuân Phương K214081833
2 Đặng Thị Như Ý K214030216
3 Nguyễn Trọng Tiến K214080555
4 Lê Thị Cẩm Nhung K2140712702
5 Đặng Lê Hoài Nhi K214080549
6 Đỗ Thị Tỉnh K205020755
7 Trần Ngọc Hải Nhi K214100706
8 Nguyễn Thị Vân Hiển K214070459
9 Trần Nguyễn Nhật Linh K214070461
10 Bùi Thị Khánh Trang K214071792
11 Phạm Ngọc Phương Thy K204030159
ii

DANH SÁCH HÌNH ẢNH


Hình 1.1. Hà Nội cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ảnh do người Pháp chụp, tư liệu
NXB Thế Giới...........................................................................................................2
Hình 1.2. Cách mạng Tháng Mười Nga là mốc son đánh dấu sự thắng lợi lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội (Ảnh tư liệu)..................................3
Hình 1.3. Nguyễn Ái Quốc (hàng đầu, thứ 2 từ phải) tham dự Đại hội Quốc tế
Cộng sản (lần thứ 5) tại Moskva năm 1924 cùng Joseph Gothon-Lunion (thứ 3) và
Leon Trotsky (thứ 4)..................................................................................................4
Hình 1.4. Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18
Đảng Xã hội Pháp, ủng hộ Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt
Nam đầu tiên (12/1920) (Ảnh tư liệu).......................................................................5
Hình 1.5. Cuốn "Đường Kách mệnh"-Bảo vật quốc gia được trưng bày tại Bảo tàng
Lịch sử quốc gia Việt Nam (Ảnh tư liệu)..................................................................5
Hình 1.6. Bản đồ hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc..........................................7
Hình 1.7. Đồn điền cao su thời Pháp thuộc...............................................................7
Hình 1.8. Một cửa hiệu hút thuốc phiện ở Hà Nội xưa.............................................8
Hình 1.9. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất xã hội ngày càng
cao..............................................................................................................................9
Hình 1.10. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết - Lãnh đạo phong trào Cần Vương
(Ảnh minh họa)........................................................................................................10
Hình 1.11. Các nhân vật người Vĩnh Long trong Phong trào Đông Du..................10
Hình 1.12. Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969)..................................11
Hình 1.13. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 (Ảnh chụp
lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)...............................13
Hình 2.1. Đa nguyên chính trị - bánh vẻ dân chủ, con đường thủ tiêu cách mạng. 17
Hình 2.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng.....18
Hình 2.3. Mô hình CNXH ở Việt Nam - những bài học sau 30 năm đổi mới.........22
Hình 2.4. Hoạt động tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch trên mạng xã
hội............................................................................................................................23
iii

Hình 2.5. RFA xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam...............24
Hình 2.6. Lênin phát biểu trước các binh sĩ thuộc Hồng quân Liên Xô tại Quảng
trường Đỏ ở Moskva ngày 25/5/1919......................................................................24
Hình 2.7. Người biểu tình phong tỏa trước cửa văn phòng tổng thống Ukraine.....26
iv

MỤC LỤC

DANH SÁCH THÀNH VIÊN...................................................................................i


DANH SÁCH HÌNH ẢNH.......................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................iv
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
I. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu khách quan..........................................2
1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX- XX tác động đến sự ra đời của Đảng cộng
sản Việt Nam.........................................................................................................2
1.1. Tình hình thế giới:......................................................................................2
1.2. Sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga........................................2
1.3. Quốc tế ba được thành lập..........................................................................4
1.4. Chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam..............................4
2. Tình hình trong nước tác động đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam....7
2.1. Chính sách thống trị của thực dân Pháp.....................................................7
2.2. Địa vị lịch sử của các giai cấp trong xã hội Việt Nam...............................8
2.3. Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng.....10
3. Vai trò của Bác................................................................................................11
4. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam qua cương lĩnh chính trị đầu tiên........14
II. Quan điểm về ý kiến cho rằng ở Việt Nam cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh
đạo...........................................................................................................................16
2. Thực tiễn cho thấy Việt Nam không cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo. 19
3. Những hoạt động cổ súy đa Đảng ở Việt Nam và tính nguy hiểm của thủ đoạn
này.......................................................................................................................22
KẾT LUẬN.............................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................28
1

MỞ ĐẦU
Trước tình hình diễn biến phức tạp của thế giới khi chủ nghĩa tư bản từ tự do
cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa đế quốc chuyên đi xâm lược thuộc địa. Bối cảnh
thế giới từ đó cũng nảy sinh ra nhiều quan hệ mới và mâu thuẫn mới. Sự thành
công nhất định của các phong trào cách mạng vô sản đã mở ra niềm hy vọng thoát
khỏi chế độ độc tài bóc lột của chủ nghĩa đế quốc cho các dân tộc thuộc địa và các
dân tộc bị áp bức.
Đồng thời, chủ nghĩa Mác – Lênin đã được truyền bá vào Việt Nam thông
qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tạo điều kiện cho dân tộc ta được khai
phá một nền tư tưởng mới, văn minh và toàn diện hơn. Cùng với chuẩn bị đầy đủ
về lực lượng và tư tưởng, có Cương lĩnh chính trị vạch rõ con đường xây dựng đất
nước, khẳng định sự lựa chọn duy nhất để đưa đến thắng lợi hoàn toàn chỉ có thể là
cách mạng vô sản. Từ đó, dẫn đến yếu tố khách quan ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2

I. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu khách quan.
1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX- XX tác động đến sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam
1.1. Tình hình thế giới:
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản châu Âu đã có những chuyển biến
mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội. Cụ thể, các nước Chủ nghĩa tư bản
phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Chúng
đẩy mạnh quá trình xâm lược, nô dịch biến các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi
và Mĩ Latinh thành thuộc địa của các nước đế quốc.
Trước tình hình đó, nhân dân các nước bị áp bức, bóc lột đã trỗi dậy đấu
tranh giành lại độc lập chủ quyền, tự giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của
bọn thực dân. Cuộc đấu tranh này đã diễn ra mạnh mẽ lan rộng ra khắp, nhất là ở
châu Á.
Song song với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư
sản ở các nước tư bản chủ
nghĩa, phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa cũng đóng một
vai trò quan trọng trong
cuộc chiến chống lại chủ
nghĩa tư bản, thực dân.
Phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước châu
Á đầu thế kỷ XX đã có
Hình 1.1. Hà Nội cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ảnh do người
tác động mạnh mẽ đến Pháp chụp, tư liệu NXB Thế Giới
phong trào yêu nước Việt
Nam.
1.2. Sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu
sắc tình hình thế giới, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại.
3

Nó đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người,
đưa giai cấp vô sản bị áp bức, bóc lột nặng nề thành giai cấp đứng đầu và làm chủ
xã hội; giải phóng nhân dân lao động, đưa người lao động từ thân phận nô lệ trở
thành chủ nhân của đất nước; ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước chuyên
chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý
luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Cách mạng tháng Mười
Nga đã mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử loài người, từ thế giới tư bản
chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cách mạng ở mỗi nước,
trong đó có Việt Nam, trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng
thế giới. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam cũng chính từ bản Luận cương của V.I.Lênin “Về vấn đề
dân tộc và dân tộc
thuộc địa”. Năm
1927, trong tác
phẩm “Đường
Kách mệnh”,
Người nêu rõ:
“Chỉ có đi theo
con đường Cách
mạng Tháng
Mười - con đường
Hình 1.2. Cách mạng Tháng Mười Nga là mốc son đánh dấu sự thắng duy nhất đúng
lợi lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội (Ảnh tư liệu) đắn - Cách mạng
Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. Từ kinh nghiệm lãnh đạo của
Đảng Bôn-sê-vích Nga trong đấu tranh giành chính quyền, Người đã tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo chuẩn bị đủ các điều kiện để thành lập chính đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam dựa trên các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của V.I.Lê-nin.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã khẳng định đường lối
4

giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình cách mạng Việt Nam.

1.3. Quốc tế ba được thành lập


Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản, do V.I Lênin đứng đầu, được thành lập,
trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản
thế giới. Quốc
tế Cộng sản
không những
vạch đường
hướng chiến
lược cho cách
mạng vô sản mà
còn đề cập các
vấn đề dân tộc
và thuộc địa;
Hình 1.3. Nguyễn Ái Quốc (hàng đầu, thứ 2 từ phải) tham dự Đại hội
giúp đỡ, chỉ đạo
Quốc tế Cộng sản (lần thứ 5) tại Moskva năm 1924 cùng Joseph
phong trào giải
Gothon-Lunion (thứ 3) và Leon Trotsky (thứ 4)
phóng dân tộc.
Dưới sự giúp đỡ vô cùng kịp thời và đầy đủ của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế
III), sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu.
1.4. Chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam
Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng
cách mạng vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh
hướng vô sản. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920) đã thông qua Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do V.I Lênin
khởi xướng. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
5

Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Người tìm ra con đường cứu nước. Người

Hình 1.4. Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Xã hội
Pháp, ủng hộ Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (12/1920) (Ảnh tư liệu)

từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa
phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác, đưa phong trào
yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.
Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân Pháp (Le
procès de la colonisation francaise) năm 1925, Đường Kách mệnh năm 1927, các
tờ báo do Người sáng lập như báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1922, báo
Thanh niên 21- 6-1925 và nhiều bài báo Người viết về Lênin, về Cách mạng Tháng
Mười Nga, về giai cấp công nhân... là những tài liệu truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin vào Việt Nam đầu tiên. Những tài liệu này đã có tác dụng thức tỉnh lòng yêu
nước của người dân đất Việt, chỉ rõ con đường cách mạng đúng đắn phải theo, “chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
6

Tiếp theo việc xuất bản các tác phẩm, báo chí từ năm 1922 đến năm 1925,
Nguyễn Ái Quốc cùng với những người cộng sản coi trọng hoạt động tuyên truyền,
cổ động, vì vậy một số tờ báo tiếp tục được Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Thanh
niên xuất bản năm 1926 như Tuần báo Công nông nhằm vào đối tượng công nhân,
nông dân; bán nguyệt san Lính Kách mệnh; nguyệt san Việt Nam Tiền phong, báo
Đồng Thanh, sau đó và Thân ái do Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở
Xiêm xuất bản. Tùy theo điều kiện các kỳ bộ có thể xuất bản báo chí bí mật hoặc
công khai. Theo thống kê, trước khi thành lập Đảng, các tổ chức cộng sản đã xuất
bản 37 tờ báo, tạp chí làm công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức phong trào
cách mạng.
Hình
Báo1.5.chí
Cuốn “Đường
cách mạngKách
trướcmệnh” - Bảo
khi có vật quốc
Đảng gia được
đã góp phần tuyên truyền chủ nghĩa
trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam (Ảnh tư liệu)
Mác - Lênin, đẩy mạnh phong trào đấu tranh và chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ
chức cho sự thành lập Đảng.
2. Tình hình trong nước tác động đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt
Nam
2.1. Chính sách thống trị của thực dân Pháp
Về chính trị: Thực dân Pháp tiến
hành xây dựng hệ thống chính quyền
thuộc địa bên cạnh việc duy trì chính
quyền phong kiến bản xứ làm tay sai.
Pháp thực hiện chính sách “chia để trị”
nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng
quốc gia dân tộc: chia ba kỳ (Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ
chính trị khác nhau.

Hình 1.6. Bản đồ hành chính Việt Nam thời


Pháp thuộc
7

Về kinh tế: Từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác
thuộc địa lớn: Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) và cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929). Mưu đồ của thực dân Pháp nhằm biến
Việt Nam nói riêng và Đông
Dương nói chung thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa của
“chính quốc”, đồng thời ra sức
vơ vét tài nguyên, bóc lột sức
lao động rẻ mạt của người bản
xứ, cùng nhiều hình thức thuế
khóa nặng nề.
Về văn hóa - xã hội:
Hình 1.7. Đồn điền cao su thời Pháp thuộc
thực dân Pháp thực hiện chính
sách “ngu dân” để dễ cai trị,
lập nhà tù nhiều trường học,
đồng thời du nhập những
giá trị phản văn hoá, duy trì
tệ nạn xã hội vốn có của chế
độ phong kiến và tạo nên
nhiều tệ nạn xã hội mới,
dùng rượu cồn và thuốc
phiện đầu độc các thế hệ
Hình 1.8. Một cửa hiệu hút thuốc phiện ở Hà Nội xưa
người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại
Pháp” ...
2.2. Địa vị lịch sử của các giai cấp trong xã hội Việt Nam
Địa chủ: Một bộ phận địa chủ câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai đắc
lực cho Pháp; một bộ phận khác nêu cao tinh thần dân tộc, khởi xướng và lãnh đạo
các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến, một số trở thành lãnh đạo
phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản động; một bộ phận
nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản.
8

Giai cấp nông dân: (khoảng 90% dân số) đây là giai cấp bị áp bức, bóc lột
nặng nề nhất, do đó lực lượng này hình thành nên thái độ căm thù đế quốc phong
kiến, sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa.
Giai cấp công nhân: có những đặc điểm sau: thứ nhất giai cấp công nhân là
giai cấp của những người
lao động sản xuất vật chất
là chủ yếu; thứ hai giai cấp
công nhân là giai cấp đối
lập với lợi ích cơ bản của
giai cấp tư sản; thứ ba, giai
cấp có hệ tư tưởng riêng
của giai cấp mình. Điều
này thể hiện đây là giai
cấp có năng lực lãnh đạo
Hình 1.9. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản
cách mạng.
xuất xã hội ngày càng cao
Giai cấp tư sản: bao
gồm tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam có tinh
thần dân tộc, yêu nước nhưng không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến
hàng cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản: gồm các tri thức, học sinh, giáo viên, viên chức, làm
công ăn
lương, buôn bán nhỏ, có tinh thần yêu nước cao. Tuy nhiên, do bị thực dân
áp bức,
bóc lột, khinh thường nên đời sống của họ khó khăn và bấp bênh hay dao
động thiếu kiên định, do đó tầng lớp tiểu tư sản không thể lãnh đạo cách mạng.
Các sĩ phu phong kiến: một bộ phận hướng sang tư tưởng dân chủ tư sản
hoặc tư tưởng vô sản; một số người khởi xướng các phong trào yêu nước, có ảnh
hưởng lớn.
Từ đây, ta có thể nhận thấy rằng địa chủ phong kiến, nông dân, tiểu tư sản
và sĩ phu phong kiến đều không có địa vị lịch sử người lãnh đạo cách mạng Việt
9

Nam. Tuy nhiên trong đó, đặc biệt giai cấp công nhân lúc bấy giờ lại mang đậm
nét đặc trưng và đặc điểm người lao động cách mạng, chịu 3 tầng lớp bóc lột, gần
gũi với nông dân, nội bộ thuần nhất, là lực lượng xã hội tiên tiến và là động lực
cách mạng mạnh mẽ do đó giai cấp này chính là giai cấp lãnh đạo cách mạng VN,
nhưng khi chưa có Đảng thì họ không thể thực hiện sứ mệnh lịch sử giải phóng dân
tộc nên cần thiết phải có sự hình thành Đảng Cộng Sản để đưa ra những đường lối
đúng đắn giúp giai cấp này thực hiện sứ mệnh của mình.
Từ những phẩm chất trên, giai cấp công nhân sẽ là giai cấp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu.
2.3. Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng
Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào
chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của
Trương Công Định, Thủ Khoa
Huân, phong trào Cần Vương,
phong trào Đông Du, Đông Kinh
nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc
khởi nghĩa do Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái
Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô
cùng anh dũng, nhưng đã bị thực
Hình 1.10. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết - Lãnh
đạo phong trào Cần Vương (Ảnh minh họa) dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều
thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới
thất bại của các phong trào đấu
tranh là do những người đứng đầu
các cuộc khởi nghĩa, các phong trào
chưa tìm được con đường cứu nước
phản ánh đúng nhu cầu phát triển
của xã hội Việt Nam. Cách mạng
Hình 1.11. Các nhân vật người Vĩnh Long trong
Phong trào Đông Du
10

nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một
con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc
và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
3. Vai trò của Bác
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam.
Những chuyến đi, những cuộc khảo
nghiệm, dấu chân Người từng in trên 3 đại
dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia trong
10 năm (1911 - 1920). Bác đã nhận ra rằng: Ở
đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác;
ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp
bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
Hình 1.12. Chân dung Chủ tịch
Hồ Chí Minh (1890 - 1969) lột và giống người bị bóc lột”. Bắt gặp lý tưởng
của Chủ nghĩa Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng
cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa
yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác -
Lênin, với khát vọng mang lại hòa bình cho dân tộc, Người đưa ra những thông
điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do,
hạnh phúc, dân chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội -
con đường Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam
cho hoạt động cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo,
lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa
và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần
quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ
11

rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung
của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế
giới. Đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan
hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước
thuộc địa và phục thuộc.
Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận
điểm chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các
dân tộc bị áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của
Đảng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau
này phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra
đời của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc)
để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp
đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã
giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ
tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công
của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Thông qua phong trào
“vô sản hoá”, lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ
lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu
nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở
Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp quy luật cho sự ra đời của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
12

Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Kông
(Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc. Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (2 đại
biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ Tùng
Mậu và Lê Hồng Sơn). Còn Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã thành lập, song
chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (và ngày 24/02/1930, tổ
chức này được hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam). Với sự nhất trí cao, Hội
nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chính cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm
tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể
hiện rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”, “thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc
và người cày có ruộng” để đi tới xã hội cộng sản”. Có thể thấy, trong Chánh cương
vắn tắt, Hồ Chí Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vô sản ở một nước
thuộc địa như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc
lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, ở Việt
Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là một tất yếu
lịch sử, có vai trò to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
thể hiện những nỗ lực hoạt
động nhận thức, phát triển
lý luận cách mạng gắn liền
với hoạt động thực tiễn
không mệt mỏi của Người,
Hình 1.13. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 3/2/1930 (Ảnh chụp lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh
tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
13

đặc biệt là ở những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập. Nói cách
khác, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước.
4. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam qua cương lĩnh chính trị đầu tiên
Trong hội nghị thành lập Đảng có hai văn kiện vô cùng quan trọng do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã được thông qua, đó là: Chánh cương vắn tắt của
Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng. Hai văn kiện trên đã phản ánh rõ nét con
đường cách mạng mà Đảng ta hướng đến và được chọn là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
Về khái quát, Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc thể hiện một
cách cô đọng các luận điểm cách mạng cơ bản, đánh giá một cách chính xác tính
chất xã hội Việt Nam thuộc địa; từ đó làm rõ những mâu thuẫn cơ bản, xác định
đường lối phát triển của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thực
hiện bằng sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Với tầm nhìn về con đường “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, Đảng Cộng sản xác định cách mạng giải
phóng dân tộc của dân tộc ta phải nằm trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác là tiến hành Cách mạng vô sản.
Trong đó Cương lĩnh chính trị đã làm rõ nội dung tiến hành cách mạng với các nội
dung cơ bản sau:
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”. Trong đó Cương lĩnh chỉ rõ chống đế quốc là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng
hàng đầu để giành được độc lập cho dân tộc.
Phương diện kinh tế, xã hội
Về kinh tế, Cương lĩnh khái quát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị quan trọng
với phương châm bảo đảm quyền con người, quyền tự do của công dân, quyền
bình đẳng giới, phổ thông giáo dục… được liệt kê và chỉ rõ.
14

Về xã hội kinh tế, chủ trương thủ tiêu hết các loại quốc trái, thu hết các sản
nghiệp lớn của Pháp giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thu hết ruộng đất
của đế quốc chia lại cho dân cày nghèo; mở mang nền công nghiệp của nước ta, thi
hành luật quy định về thời gian lao động đối với công nhân… Những nhiệm vụ đề
ra cho nền kinh tế và xã hội Việt Nam được xem là bước tiến vượt bậc thoát khỏi
ách thống trị dã man, hà khắc của ách thống trị ngoại bang hướng đến một xã hội
tiến bộ hơn nơi công bằng xã hội được thực hiện, giai cấp được giải phóng, con
người được tự do…
Xác định lực lượng cách mạng
Để giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, lực lượng cách
mạng phải thống nhất trong đó giai cấp nông dân là lực lượng cơ bản, giai cấp
công nhân là lãnh đạo; bên cạnh đó chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực
lượng tiến bộ, yêu nước để phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đối với
từng giai cấp, tầng lớp Đảng lại có những đối sách khác nhau: chú trọng truyền bá,
liên lạc với bộ phận tiểu tư sản, trí thức, trung nông; lợi dụng giới phú nông, địa
chủ… nhưng kiên quyết đánh đổ những bộ phận đã ra mặt phản cách mạng
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng
Đã có nhiều phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc diễn ra
song đều nhận lấy thất bại, đúc kết từ những bài học kinh nghiệm quý giá ấy,
Cương lĩnh xác định con đường duy nhất để đưa cách mạng nước ta đi đến thành
công chỉ có thể là bạo lực cách mạng của quần chúng. Không mang hình thức
khủng bố hay ám sát cá nhân mà phải tiến hành đồng bộ, dứt khoát “không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”.
Xác định tinh thần quốc tế
Đường lối cách mạng mà Đảng ta xác định không phải là con đường đơn
độc mà là một bộ phận của phong trào cách mạng vô sản thế giới. Trong khi thực
hiện giải phóng dân tộc, chúng ta cũng không quên ủng hộ các dân tộc bị áp bức và
kêu gọi sự đoàn kết, viện trợ từ phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Như vậy,
ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn nêu cao chủ nghĩa
quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
15

Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng


Cương lĩnh đã chỉ rõ vai trò là đội tiên phong, là ngọn đuốc soi đường cho
toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp một cách triệt để nhất.
Với bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ sáng tạo, Cương lĩnh chính trị đầu tiên
đã thể hiện một cách cô đọng súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt
Nam; từ đó đưa ra đường lối chiến lược rõ ràng vạch cho cách mạng một hướng đi
đúng đắn tránh việc mơ hồ trong nhận thức dẫn đến những hành động sai lầm. Với
tư duy sáng suốt mà Nguyễn Ái Quốc đã đề ra cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam
được tổ chức một cách quy mô với những định hướng rõ ràng về đường lối phát
triển, phương châm làm cách mạng… tất cả vì một mục tiêu độc lập tự do, no cơm
ấm áo cho hàng triệu đồng bào ta, hướng đến một xã hội văn minh và tốt đẹp cho
tất cả mọi người.
II. Quan điểm về ý kiến cho rằng ở Việt Nam cần thực hiện chế độ đa đảng
lãnh đạo
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam hoàn toàn không phải sự
áp đặt từ phía Đảng hay một lực lượng chính trị nào khác mà chính là sự lựa chọn
của dân tộc, của nhân dân. Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nhóm chúng em
khẳng định: “Ở Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng” với
những lý do sau:
1. Thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng xuất phát từ chủ nghĩa đa
nguyên. Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội học - triết học, tuyệt đối
hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau
trong xã hội. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp
tiến bộ trong đấu tranh chống độc quyền, bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các
nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản.
Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa
ban đầu, trở thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa
16

các nhóm, tổ chức độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phong “dân
chủ” che đậy sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản.
Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư
tưởng để giai cấp tư sản chống các nhà nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công
nhân và các trào lưu tiến bộ trên thế giới bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân

Hình 2.1. Đa nguyên chính trị - bánh vẻ dân chủ, con đường thủ tiêu cách mạng
chủ vô chính phủ, chống nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện chế độ đa
đảng, nhằm vô hiệu hóa và từng bước đẩy Đảng Cộng Sản khỏi vị trí lãnh đạo xã
hội, đòi xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản - bề ngoài đại diện cho lợi ích của
tất cả các nhóm, đảng phái đối lập, nhưng thực chất đại diện cho lợi ích của giai
cấp tư sản.
Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của thế giới, cường điệu cái
riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp;
chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa
đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp
thương. Vì vậy, đây là một học thuyết phi mác xít. Nếu áp dụng quan điểm này vào
chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của
17

giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
Với nhận thức
sáng suốt và sâu sắc
rằng: Chỉ có sự lãnh đạo
của một Đảng biết vận
dụng một cách sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của
nước mình thì mới có
thể đưa cách mạng giải
phóng dân tộc đến thắng Hình 2.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
lợi và cách mạng xã hội Minh là nền tảng tư tưởng

chủ nghĩa đến thành công, Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu để sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Người
luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng lớn mạnh về mọi mặt. Nội dung mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chăm lo cho công tác xây dựng Đảng rất phong phú.
Bản chất giai cấp công nhân Việt Nam là đi theo lý tưởng Mác - Lênin. Về bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, được Người nêu lên rõ nét, nhất quán thể hiện
sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về Đảng Cộng sản
trong điều kiện Việt Nam. Trước hết, Người khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam
là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân là “bản chất cấp 1”
của Đảng Cộng sản; đồng thời, Đảng Cộng sản còn có những bản chất ở cấp độ
khác, như “bản chất nhân dân lao động”, “bản chất dân tộc”. Giữ vững và nâng cao
bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho sự
thành công của cách mạng.
Đảng không chỉ đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đấu tranh
cho quyền lợi của tập thể, của cả dân tộc. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân
tộc nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình.
18

Đảng cũng đã khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân, Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kỳ của cách mạng. Sức mạnh của Đảng
không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân
dân lao động khác.
Như vậy, chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới
quan phi khoa học, trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong khi đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều
đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị duy
nhất tồn tại, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở
Việt Nam không cần sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận
cho việc thực hiện chế độ đa đảng.
2. Thực tiễn cho thấy Việt Nam không cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh
đạo
Thứ nhất, sự kiện hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành một Đảng, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy việc thực hiện đa đảng là không cần thiết.
Từ giữa năm 1929, ở nước ta lần lượt ra đời ba tổ chức Cộng sản (Đông Dương
cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn), các tổ
chức này hoạt động riêng lẻ và chưa có sự hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, Hội nghị hợp
nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đã diễn ra từ ngày 6/1 đến 7/2/1930 tại
Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Điều này
càng cho thấy rằng nếu một nước có nhiều Đảng sẽ dễ diễn ra tình trạng tranh
giành sức ảnh hưởng và không thống nhất. Đồng thời, nếu Việt Nam cần đa đảng
lãnh đạo thì đã không có sự kiện hợp nhất này.
Thứ hai, thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử; là ý
nguyện của nhân dân Việt Nam. Điều này được lịch sử minh chứng rõ ràng qua
các thời kỳ:
19

Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong,
lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người
lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” dữ
dội của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt
Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người dẫn dắt mình đi đến tương lai
hạnh phúc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng
Cộng sản Việt Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị
nào khác lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành
chính quyền mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội - đó chính
là công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm 1945-1946, do bối cảnh tình hình chính trị diễn biến phức
tạp, ở Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại một số đảng phái đối
lập như Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội..., nhưng
trên thực tế, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng. Các
đảng phái, tổ chức đối lập thời kỳ này đã không vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà âm
mưu phá hoại cách mạng, xóa bỏ chính quyền cách mạng non trẻ. Sự xuất hiện và
rút lui của hai đảng Việt Cách và Việt Quốc cho thấy, chỉ có Đảng Cộng sản là
được nhân dân và lịch sử Việt Nam lựa chọn, còn những đảng phái không đứng về
nhân dân đã bị lịch sử đào thải.
Trong thời kỳ 1945-1975, cuộc trường chinh 30 năm kháng chiến giải phóng
dân tộc khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử
và nhân dân lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất
có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cao cả
được lịch sử giao phó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng
mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp với đỉnh cao là Chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), chấm
dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đảng ta sau đó đã tiếp lãnh đạo nhân dân
20

tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam.
Ngày 30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giúp non sông thu về một mối.
Trong thời kỳ này, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tồn tại hai đảng khác
là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đảng này
chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ, thừa nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán.
Cũng trong thời gian này, còn có những đảng phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập với
Đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và lợi ích của nhân
dân lao động, nên cũng đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã
một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều
đảng. Với bản lĩnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ
một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng
hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một quốc gia đang phát triển hết sức
năng động. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện;
dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn
hoá, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng
được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Cụ thể, chính trị luôn ổn định,
an ninh giữ vững, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, trong những năm
qua tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 và tiếp
tục xuống dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Thu nhập bình quân đầu
người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các
nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Đến nay, khoảng 60% số xã đạt chuẩn nông
thôn mới. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y
tế miễn phí. Khoảng 70% dân số nước ta sử dụng Internet. Năm 2019, chỉ số phát
triển con người của Việt Nam thuộc nhóm cao của thế giới, nhất là so với các nước
21

có cùng trình độ phát triển, vị thế đất nước ngày càng được nâng lên trên trường
quốc tế.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang
phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của
một đảng cầm quyền, đó là: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hoá, xã hội
phát triển bền vững, an sinh xã hội được bảo đảm. Chính thực tiễn này đã khẳng
định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của
đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải
có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”.
22

Thứ ba, bài học lịch sử từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
Cũng từ thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một điều hết sức đau xót đối với cách mạng
thế giới, đó là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xô Viết và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Du vào thập niên cuối của thế kỷ XX. Đặc biệt, ở
Liên Xô, dưới tác động bởi những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch, cùng với sự “phản bội” của một số người trong Uỷ ban Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng đầu là M.Gorbachev đã đưa tới tại Đại hội bất
thường của các đại biểu nhân dân ngày 15-3-1990, quyết định xóa bỏ Điều 6 Hiến
pháp Liên Xô, hiến định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bắt đầu từ điểm
mốc này, đã
hình thành
chế độ đa
đảng ở Liên
Xô, với sự ra
đời của vô số
các tổ chức,
đảng phái
chính trị, đối
lập cạnh tranh
vai trò lãnh
Hình 2.3. Mô hình CNXH ở Việt Nam - những bài học sau 30 năm đổi mới
đạo của Đảng
Cộng sản Liên Xô, để rồi đưa tới một kết cục bi thảm: Đảng Cộng sản Liên Xô mất
quyền lãnh đạo đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trong hơn 70
năm hoàn toàn sụp đổ vào tháng 8-1991. Chính bài học thực tiễn này chỉ ra rằng,
nếu hiện nay Việt Nam chấp nhận đa nguyên, đa đảng thì kết cục rất có thể sẽ
giống như Liên Xô trước đây.
3. Những hoạt động cổ súy đa Đảng ở Việt Nam và tính nguy hiểm của thủ
đoạn này
Một số tổ chức, cá nhân rêu rao “đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”;
đòi Việt Nam phải đa đảng đối lập, đòi chia quyền lãnh đạo để có dân chủ “thực
23

sự” hoặc chỉ có thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì “xã hội Việt Nam mới
nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo” … Một số cá nhân lớn tiếng kêu gọi những
đảng viên Cộng sản hãy ra khỏi Đảng để thành lập một đảng mới, làm đối trọng
với Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên thực tế, họ đã tuyên bố rời bỏ lý tưởng cách
mạng, để thực hiện ý đồ về cái gọi là “xây dựng xã hội dân chủ”. Với vỏ bọc “vì
dân, vì nước”, “đấu tranh cho nền dân chủ ở Việt Nam”, “vì quyền lợi của nhân
dân”, những tuyên bố của họ đã làm cho một số ít người thiếu hiểu biết lầm tưởng
rằng: cứ có nhiều đảng thì xã hội sẽ có dân chủ hơn, có động lực để phát triển
nhanh hơn.
Để tăng tính thuyết phục cho những luận điệu chống phá này, chúng đã rất
kỳ công tiến hành thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những hạn chế, thiếu sót và cả
những sai lầm của Đảng trong quá khứ, đặc biệt là trong lãnh đạo lĩnh vực kinh tế,
quản lý xã hội để minh chứng cho sự cần thiết chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng
ta. Chúng đồng thời ra sức khai thác, lợi dụng sự suy thoái, biến chất của một bộ
phận cán bộ, đảng
viên để kích động
nhằm tạo sự phân
hóa sâu sắc trong nội
bộ Đảng, làm suy
yếu sức mạnh khối
đoàn kết, thống nhất
trong Đảng và giữa
Đảng với nhân dân.
Chúng hô hào,
khuyến khích, thậm
chí tạo áp lực buộc

Hình 2.4. Hoạt động tuyên truyền chống phá của các thế lực
thù địch trên mạng xã hội
24

chúng ta phải thực hiện đa đảng đối lập, đòi chia quyền lãnh đạo cho các tổ chức
chống phá.
25

Có kẻ thiển cận
cho rằng: cứ có
nền kinh tế thị
trường với nhiều
thành phần kinh tế
thì tất yếu dẫn đến
nền chính trị thị
trường, đa nguyên
chính trị, đa đảng
đối lập ở thượng
tầng kiến trúc.
Hoàn toàn không
có “cái tất yếu”
đó! Tư duy như
vậy chỉ là hình
thức, là ngụy biện,
Hình 2.5. RFA xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt vì nền kinh tế thị
Nam trường không dẫn
đến chính trị thị trường như “gan tiết ra mật”. Quy luật lịch sử đã chứng minh, tuy
cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với thượng tầng kiến trúc, nhưng thượng
tầng kiến trúc không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng mà chúng có khả
năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh tế của xã hội. Bản thân các
yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, như: chính trị, pháp lý, đạo đức,…
cũng có sự tác động qua lại với nhau; cho nên, việc hình thành các đảng phái chính
trị không chỉ phụ thuộc vào kinh tế, mà còn phụ thuộc rất lớn vào một loạt các yếu
tố khác, như: tương quan giai cấp trong xã hội, vị thế, vai trò của đảng cầm quyền,
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, truyền thống,… của một đất nước.
26

nhận mơ hồ, lẫn lộn về nhận thức, sự dao động về tư tưởng trong một bộ phận cán
bộ và nhân dân. Nếu không thực hiện được ý đồ thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, thì
cũng dễ gây nên sự chia rẽ trong xã hội và sự thiếu thống nhất về chính trị tư tưởng
trong xã hội; sự hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin của quần chúng nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, thực chất luận điểm đó là nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng ta
đối với xã hội, xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, “lái” nền dân chủ nước ta
sang nền dân chủ khác, phi xã hội chủ nghĩa. Dù không trực tiếp nói chúng ta phải
thực hiện dân chủ tư sản, nhưng cái cách “khuyên” chúng ta thực hiện đa đảng, đã
cho thấy thực chất đó là hướng nền dân chủ nước ta sang dân chủ tư sản.
Thứ ba, đó là luận điểm phản khoa học và phi lịch sử. Bởi vì, trên thực tế
không có thứ dân chủ chung chung trừu tượng, trong thời đại ngày nay chỉ có thể
là dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cái gọi là đa đảng như trong xã hội
phương Tây thực chất là sự chi phối của đảng tư sản, là biểu hiện sự tranh chấp
giữa các nhóm chính trị khác nhau của chính giai cấp tư sản. Nếu nước ta thực hiện
đa đảng thì các thế lực thù địch muốn đa đảng như thế nào, chắc chắn rằng chúng
không muốn đa đảng mà ở đó lại có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chúng sẽ bắt
chúng ta chia
quyền lãnh đạo
cho nhiều bên lãnh
đạo gây nên sự
hỗn loạn, mất sự
thống nhất trong
xã hội.

Hình 2.6. Lênin phát biểu trước các binh sĩ thuộc Hồng quân Liên
Xô tại Quảng trường Đỏ ở Moskva ngày 25/5/1919

Hình 2.7. Người biểu tình phong tỏa trước cửa văn phòng
27

Như vậy, đằng sau tất


cả những luận điệu tuyên
truyền, hoạt động chống
phá ấy, đều không ngoài
mục đích hàng đầu và quan
trọng nhất là làm suy yếu,
đi đến phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Hình 2.7. Người biểu tình phong tỏa trước cửa văn phòng
tổng thống Ukraine
Việt Nam, loại bỏ Đảng
Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là mưu đồ hết sức
thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch.
28

KẾT LUẬN
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là yếu tố khách quan khi đã chuẩn
bị đầy đủ về lực lượng và tư tưởng, có Cương lĩnh chính trị vạch rõ con đường xây
dựng đất nước, khẳng định sự lựa chọn duy nhất để đưa đến thắng lợi hoàn toàn
chỉ có thể là cách mạng vô sản. Đối với dân tộc Việt Nam, “không còn con đường
nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn
mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm
1930 với sự ra đời của Đảng ta”. Cách mạng vô sản là đường lối cách mạng đúng
đắn và duy nhất để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Sự ra đời của Đảng một bước ngoặt lịch sử vĩ đại chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối cứu nước; đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách
mạng thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam
suốt 90 năm qua đã và đang không ngừng xây dựng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong nền chính trị nhất nguyên. Nền chính trị nhất nguyên ở Việt Nam là
do nhân dân lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Mục tiêu và lợi ích của Đảng, Nhà nước và
nhân dân là thống nhất cùng thực hiện xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
29

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. LTT - Theo QDND.VN. (07/11/2016). Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng
Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam. Trích từ:
http://thanhtratinh.hatinh.gov.vn/anh-huong-cua-cach-mang-thang-muoi-nga-doi-
voi-cach-mang-viet-nam-1544773929.html
2. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc đại học hệ
không chuyên lý luận chính trị), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (23/03/2020). Nguyễn Ái Quốc và
con đường đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Trích từ:
https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-nganh-
tuyen-giao/thong-tin-tu-lieu/nguyen-ai-quoc-va-con-duong-dua-chu-nghia-mac-
lenin-vao-viet-nam-550997.html
3. Nguyễn Thị Thanh. (03/02/2021). Lịch sử ra đời Đảng Cộng Sản Việt
Nam
4. Lệ Thu. (03/02/2022). VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI
VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. Trích từ:
https://tinhuyquangtri.vn/vai-tro-cua-chu-tich-ho-chi-minh-voi-viec-thanh-lap-
dang-cong-san-viet-nam
5. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc đại học hệ
không chuyên lý luận chính trị), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật
6. Nguyễn Nam (2022) Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luật Hoàng
Phi
7. Nguyễn Việt Trường. (07/11/2012). Tính nguy hiểm của luận điểm đa
đảng. Trích từ: https://hatinh.dcs.vn/thong-tin-tu-tuong-so-82012/news/tinh-nguy-
hiem-cua-luan-diem-da-dang.html
8. Trần Thị Quỳnh. (20/06/2021). Việt Nam thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Trích từ:
https://truongchinhtri.edu.vn/home/dau-tranh-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-
dang/viet-nam-thuc-hien-dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-khong-can-da-nguyen-da-
dang-1264.html
30

9. Nguyễn Xuân Tú. (21/07/2018). Việt Nam không cần và không chấp nhận
đa đảng. Trích từ: https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/viet-
nam-khong-can-va-khong-chap-nhan-da-dang-113557
10. Tống Thế Gia. (16/01/2014). Việt Nam hiện nay không có cơ sở xã hội
cho chế độ đa đảng. Trích từ: http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-
bien-tu-chuyen-hoa/viet-nam-hien-nay-khong-co-co-so-xa-hoi-cho-che-do-da-
dang/4927.html

You might also like