You are on page 1of 30

DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2023 – 2024


Mã học phần: 232DL0619
Nhóm: 1 (ca học: UEL_Thứ 7_456)
Tên đề tài: Bằng lý luận và thực tiễn Phân tích, chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
3/2/1930 là tất yếu khách quan ? Quan điểm của anh (chị) như thế nào về ý kiến cho rằng ở VN
cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo ? Vì sao
Thành viên:
STT Họ và tên Mã số sinh viên Tỉ lệ % hoàn thành
1 Trần Ngọc Thúy K224020250 100
2 Phạm Kỳ Anh Thư K224020251 100
3 Lê Thanh Xuân K224020257 100
4 Vũ Thị Hồng Phúc K224040580 100
5 Tô Như Quỳnh K224040583 100
6 Ngô Nguyễn Quỳnh Thơ K224040585 100
7 Hồ Nguyễn Anh Thy K224040589 100
Ghi chú:
Tỷ lệ %: Mức độ phần trăm hoàn thành của từng sinh viên tham gia.
Trưởng nhóm: Lê Thanh Xuân

Nhận xét của giảng viên:


……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
Thành phố Hồ Chí Minh_tháng 3, năm 2024

Page | 1
MỤC LỤC

I. Tình hình quốc tế...................................................................................................................................................... 3


1. Sự chuyển biến của Chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó....................................................................................... 3
2. Thành công của Cách mạng tháng Mười Nga........................................................................................................ 4
3. Quốc tế III được thành lập tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời......................................4
4. Chủ nghĩa Mác-Lênin............................................................................................................................................. 5
5. Tiểu kết................................................................................................................................................................... 5
II.Tình hình trong nước và sự chuyển biến về kinh tế-xã hội Việt Nam.................................................................6
1. Về chính trị:............................................................................................................................................................ 7
2. Về kinh tế:.............................................................................................................................................................. 7
3. Về văn hoá - xã hội:................................................................................................................................................ 7
4. Những biến đổi của xã hội Việt Nam..................................................................................................................... 8
5. Kết cấu xã hội và địa vị lịch sử của các giai cấp.................................................................................................... 8
6. Tiểu kết................................................................................................................................................................. 10
III. Ba yếu tố dẫn đến sự thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam....................................................................10
1. Chủ nghĩa Mác Lênin........................................................................................................................................... 10
2. Phong trào công nhân........................................................................................................................................... 11
3. Phong trào yêu nước............................................................................................................................................. 12
*Phong trào Việt Nam trước khi có Đảng lãnh đạo.............................................................................................. 12
* Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do:........................................................................................... 15
4. Tiểu kết................................................................................................................................................................. 15
IV. Kết luận................................................................................................................................................................. 15
I. Hệ thống đa đảng:................................................................................................................................................... 16
1. Tổng quan về hệ thống đa đảng............................................................................................................................ 16
2. Những ưu điểm của hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh..................................................................................17
3. Những hạn chế và giới hạn của hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh................................................................17
II. Hệ thống đơn đảng:............................................................................................................................................... 19
1. Tổng quan về hệ thống đơn đảng:........................................................................................................................ 19
2. Ưu điểm của hệ thống chính trị một đảng cộng sản cầm quyền trong sự so sánh với hệ thống đa đảng cạnh
tranh.......................................................................................................................................................................... 20
3. Nguy cơ của hệ thống chính trị một đảng cộng sản cầm quyền trong sự so sánh với hệ thống đa đảng cạnh tranh.
.................................................................................................................................................................................. 21
IV. Quan điểm “Việt Nam cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo".....................................................................21
IV. Kết luận:............................................................................................................................................................... 26

Page | 2
A. PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI 3/2/1930 LÀ
TẤT YẾU KHÁCH QUAN

I. Tình hình quốc tế


1. Sự chuyển biến của Chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu - Mỹ có những chuyển biến mạnh mẽ trong đời
sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy mạnh quá trình xâm chiếm và nô
dịch các nước nhỏ, chủ yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ - Latinh, biến các quốc gia này thành
thuộc địa của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu
tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ,
rộng khắp, nhất là ở châu Á. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành một bộ
phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung chống tư bản, thực dân. Phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước
Việt Nam. Khi quyền lợi và sự tự do, dân chủ bị kìm chặt, vượt giới hạn chịu đựng của người dân, các
quốc gia bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo thành phong
trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là châu Á. Từ đây, vấn đề chống đế quốc giải phóng
dân tộc là một vấn đề cấp thiết và chỉ có Đảng của giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử
này.

Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ

Mâu thuẫn giữa Dân tộc thuộc địa và Chủ nghĩa đế quốc làm nảy sinh nhiều mối quan hệ
mới: mối quan hệ giữa người dân thuộc địa với người dân chính quốc, mối quan hệ giữa cách mạng
giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, mối quan hệ cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng

Page | 3
Cộng sản lãnh đạo, từ đó cho thấy cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Do đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam phải ra đời.
2. Thành công của Cách mạng tháng Mười Nga
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới.
Đây là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư
bản, mà còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Từ đó, cách mạng
Việt Nam phát triển theo Cách mạng vô sản Nga, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải ra đời.

Cách mạng Tháng Mười Nga


3. Quốc tế III được thành lập tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Tháng 3 - 1919, Quốc tế Cộng sản III do V.I. Lênin đứng đầu được
thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào
cách mạng vô sản thế giới. Quốc tế III được thành lập tạo điều kiện
nhiều điều kiện cho cách mạng Việt Nam:
 Cung cấp tài liệu tuyên truyền: Quốc tế Cộng sản đã giao nhiệm vụ
cho các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Tiệp
Khắc giúp đỡ in ấn tài liệu, chuyển tài liệu về Việt Nam,
 Đào tạo cán bộ Đảng viên giỏi cho Đảng Cộng sản Việt Nam,
nắm giữ các trọng trách cao trong Đảng và quốc tế: Hồ Chí Minh,
Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai...
 Chỉ đạo kịp thời đối với Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách
mạng: Quốc tế III thường xuyên chỉ đạo, uốn nắn kịp thời những vấn
đề thuộc về đường lối, những vấn đề chiến lược và chỉ đạo chiến lược Vladimir Ilyich Lenin - người sáng
lập ra Quốc tế Cộng sản

Page | 4
dễ dẫn đến tả khuynh hoặc hữu khuynh trong thực hiện - một điều khó tránh khỏi với một Đảng còn
non trẻ.
 Bằng những điều kiện thuận lợi trên, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ra đời.
4. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh, đặt ra yêu
cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời (Cách
mạng Vô sản), về sau được Lênin (Cách mạng Giải phóng dân tộc) và rồi phát triển trở thành
chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin có thể truyền bá vào Việt Nam. Từ đó tạo tiền đề về
tư tưởng tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ra đời.

5. Tiểu kết
Tóm lại, tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nhiều biến đổi to lớn qua đó một
mặt tạo điều kiện cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mặt khác yêu cầu Đảng Cộng sản Việt Nam phải
ra đời. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là khách quan.

Page | 5
II.Tình hình trong nước và sự chuyển biến về kinh tế-xã hội Việt Nam trong những năm
cuối TK XIX đầu TK XX:
Ngày 1-9-1958, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng bước
thôn tính Việt Nam. Trước hành động xâm lược của Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa
hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến ngày 6-6-1884 với Hiệp ước Patenotre đã đầu hàng hoàn
toàn thực dân Pháp. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến, trong đó tính thuộc địa chi phối tính phong kiến.
Sau khi xâm lược Việt Nam từ 1858 đến năm 1884, thực dân Pháp đã thống trị trên toàn cõi Việt
Nam và thi hành chế độ áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa đối với nhân dân ta.

Page | 6
1. Về chính trị:
Thực dân Pháp thực hiện chính sách cai trị chuyên chế (độc quyền cai trị), chúng tước bỏ
quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế
điển hình. Do đó mà nước ta không có sự lãnh đạo, quản lý từ lực lượng trong nước. Chúng thực hiện
“chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau cùng với Ai Lao và Cao Miên thiết lập Liên Bang Đông
Dương của Pháp (Union Indochinoise) nhằm mục đích tách Việt Nam ra khỏi bản đồ thế giới. Chúng
đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người dân. Tất cả các cuộc đấu tranh mang
tính nhỏ lẻ đều nhanh chóng bị dập tắt. Mọi quyền tự do của con người, của cá nhân đều bị cấm. Chúng
làm cho nước Việt Nam mất độc lập, nhân dân Việt Nam mất tự do.

Page | 7
2. Về kinh tế:
Thực dân Pháp thực hiện chính sách độc quyền về kinh tế. Từ năm 1897 Pháp tiến hành các
cuộc khai thác thuộc địa lớn: Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và khai thác thuộc địa
lần thứ hai (1919-1929) với mưu đồ nhằm biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành
thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao
động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.

3. Về văn hoá - xã hội:


Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học,
đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và
tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam,
ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”… Kết quả làm cho trên 90%
dân ta mũ chữ, nền văn hóa phong kiến được nhuộm màu văn hóa thực dân, tâm lý sợ Pháp xuất hiện
trong nhân dân ta.

Page | 8
Nhiều tiệm hút thuốc phiện được mở ra ở Việt Nam thời Pháp thuộc.

4. Những biến đổi của xã hội Việt Nam


Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm biến đổi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt
Nam. Các giai cấp cũ phân hóa; giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế khác nhau và do đó
cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội.
Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là
của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công
nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ chính trị khác nhau.
Xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
và thực dân Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ). Trong đó, sự khai
thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất.
Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi: từ một xã hội phong kiến độc lập chuyển sang xã hội
thuộc địa nửa phong kiến. Lúc này, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
nhưng khi chưa có Đảng thì giai cấp này không thể thực hiện sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc nên
cần thiết phải có sự hình thành Đảng Cộng Sản để đưa ra những đường lối đúng đắn giúp giai cấp này
thực hiện sứ mệnh của mình.

5. Kết cấu xã hội và địa vị lịch sử của các giai cấp


Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất (khoảng hơn 90% dân số), đồng thời là một
giai cấp bị bốc lột nặng nề nhất. Do vậy, ngoài mâu thuẫn giai cấp vốn có với giai cấp địa chủ, nông

Page | 9
dân còn có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược. “Tinh thần cách mạng của nông dân không chỉ
gắn liền với ruộng đất, với đời sống hằng ngày của họ, mà còn gắn bó một cách sâu sắc với tình cảm
quê hương đất nước, với nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc”. Đây là lực lượng hùng hậu, có
tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự do của dân tộc và khao khát giành lại ruộng
đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách
mạng lật đổ thực dân, phong kiến.
Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc địa, với việc
thực dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điển... Ngoài những đặc điểm của
giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng vì ra đời trong hoàn
cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân, cơ cấu chủ yếu là công nhân
khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời
đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách
mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Một bộ phận có lợi ích gắn
liền với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực dân Pháp, trở thành
tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm,
bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước nhưng
không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, tư bản chèn ép, khinh
miệt, họ có tỉnh thần dân tộc, yêu nước, rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị
kinh tế bấp bênh, hay dao động, thiếu kiên định, do đó tầng lớp tiểu tư sản không thể lãnh đạo cách
mạng.
Các sĩ phu phong kiến cũng có sự phân hóa: một bộ phận hướng sang tư tưởng dân chủ tư sản
hoặc tư tưởng vô sản; một số người khởi xướng các phong trào yêu nước, có ảnh hưởng lớn.

*Vì sao công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
“Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ
họ lao động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai
cấp công nhân.”
Đặc tính cách mạng giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật.
Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc,
để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức
là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh
đạo.
Giai cấp nông dân Việt Nam là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, được Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định là đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân và là đội quân chủ lực của cách
mạng. Tuy vậy, họ không thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng vì họ không gắn liền với một phương
thức sản xuất mới và không có hệ tư tưởng độc lập, họ cũng không có khả năng tự xây dựng một chế
độ xã hội mới.
Chính vì thế Giai cấp công nhân Việt Nam sẽ là lực lượng lãnh đạo cách mạng  Đảng Cộng
sản Việt Nam sẽ ra đời.

Page | 10
6. Tiểu kết
Như vậy, có thể nhận thấy, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất
quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác, bóc lột của thực dân Pháp đã
làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân), đồng thời hình thành
những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ chính trị khác nhau.
Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện, trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay
gắt.
Trong bối cảnh đó, những luồng tư tưởng ở bên ngoài như: tư tưởng Cách mạng tư sản Pháp
1789, phong trào Duy Tân Nhật Bản năm 1868, cuộc vận động Duy Tân tại Trung Quốc năm 1898,
Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc năm 1911..., đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển biến phong trào yêu nước những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX. Năm 1919, trên chiến hạm của Pháp ở Hắc Hải (Biển Đen), Tôn Đức Thắng tham gia đấu tranh
chống việc can thiệp vào nước Nga Xôviết. Năm 1923, luật sư Phan Văn Trường từ Pháp về nước và
công bố tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (The Manifesto of the Communist Party) của C.
Mác và Ph. Ăngghen đăng trên báo La Cloche Fêlée, số ra từ ngày 29/3 đến ngày 20/4/1926 tại Sài
Gòn, góp phần tuyên truyền tư tưởng vô sản ở Việt Nam.

III. Ba yếu tố dẫn đến sự thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trên thế giới nói chung, sự ra đời của một Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã
hội khoa học và phong trào công nhân. Còn đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước. Như vậy, so với học thuyết Mác-Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu
tố thứ ba: phong trào yêu nước.

1. Chủ nghĩa Mác Lênin


Cuối năm thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858, với tinh
thần yêu nước, các cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ theo ý thức hệ phong
kiến điển hình là phong trào Cần Vương và theo ý thức hệ tư sản điển hình là của Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh,... Nhưng kết quả của những phong trào đó đều là thất bại, làm cho cách mạng Việt
Nam khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, trong quá trình bôn ba tìm đường
cứu nước và trải nghiệm thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đọc được sơ thảo luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và nội địa, Người đã từng nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, sáng tỏ
và tin tưởng biết bao”
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện
sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra Đảng Cộng sản. Sự ra đời Đảng Cộng
sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột.

Page | 11
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) xác định: những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích
của toàn bộ phong trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước; họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản.
Khi tìm được chủ nghĩa Mác-Lênin, người đã tích cực truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào
trong nước và làm cho phong trào cách mạng Việt Nam phát triển theo khuynh hướng vô sản.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo
(Ngày 3-2-1930 được Hồ Chí Minh lấy làm ngày Kỷ niệm thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam). Nhờ
những đường lối đúng đắn do Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đã đưa Cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đánh giá một cách khách quan, dân tộc Việt Nam đã từng vận dụng nhiều học thuyết, lí luận
khác nhau nhưng tất cả các lí luận, học thuyết ấy, các tầng lớp giai cấp khác đã không thể hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình đó là giải phóng dân tộc. Chỉ có Chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ có Đảng Cộng
sản Việt Nam mới có thể giải phóng phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đánh bại sự xâm lược của các
nước đế quốc bành trướng, đưa nước ta thực hiện công cuộc đổi mới thành công và có được như ngày
hôm nay.
“ Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chỉ có chủ nghĩa Lênin là chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất ”

Hồ Chí Minh đến với V.L.Lênin


2. Phong trào công nhân

Page | 12
Dưới thắng lợi thành công và vang dội, Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917 đã nổ phát súng
đầu tiên cho sự thành lập và phát triển của các tổ chức đảng đại diện lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống
áp bức bóc lột của giai cấp công nhân trên toàn thế giới, nổi bật nhất là: Đảng Cộng sản Pháp (năm
1919), Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hungary (năm 1918), Đảng
Cộng sản Việt Nam (1930),... Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ rằng: "Cách mạng Nga dạy cho chúng ta
rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền
gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển mạnh mẽ
phong trào đấu tranh cộng sản và công nhân trên toàn thế giới. Năm 1920, tại Đại hội II Quốc tế cộng
sản, Lênin đã vạch rõ những phương hướng đấu tranh, nhằm mở ra con đường giải phóng cho các dân
tộc bị chèn ép, áp bức trên trường cách mạng vô sản. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản giữ vai trò
vô cùng quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Bác không chỉ đánh giá cao sự ra đời Quốc tế Cộng sản với cách mạng thế giới, mà còn chỉ ra
rằng tổ chức này đóng vai trò cực kì quan trọng đối với cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách
mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”

3. Phong trào yêu nước


Ngoài hai yếu tố là Chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân, còn có một yếu tố rất đặc
sắc đó chính là phong trào yêu nước. Khi thực dân Pháp xâm lược đã nổ ra rất nhiều phong trào yêu
nước nhưng lần lượt thất bại làm Cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam không phải là mâu thuẫn giai cấp, mà mâu thuẫn đó là
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai.

*Phong trào Việt Nam trước khi có Đảng lãnh đạo


 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
 Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng (1885-1896).
Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu nước.

Page | 13
Phong trào Cần Vương vào cuối thế kỷ XIX.
 Các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)...
diễn ra sôi nổi và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân.
Nhưng ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách rộng rãi,
toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn
quốc nữa.

Nghĩa quân cuộc Khởi nghĩa Ba Đình bị bắt

Page | 14
 Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là mốc chấm dứt vai trò lãnh đạo
của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam.

Minh họa: Khởi nghĩa Hương Khê (Phan Đình Phùng) – đỉnh cao của Phong trào Cần Vương
 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản:
Tiêu biểu là các phong trào: Đông Du, Duy Tân (5-1916), khởi nghĩa Yên Bái dưới sự lãnh
đạo của Hoàng Hoa Thám, xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh sau đó là
phong trào tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng (12-1927 đến 2-1930) đã tiếp tục
diễn ra rộng khắp các tỉnh Bắc kỳ, nhưng tất cả đều không thành công.

Page | 15
Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu giành độc lập cho dân
tộc. Tuy nhiên “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư
sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”.

Page | 16
* Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do:
 Thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã
hội
 Chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được
phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù.
Việt Nam lâm vào tình thế bế tắc về con đường cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Xuất phát từ
những thực tế trên, để hoàn thành nhiệm vụ dân tộc, chúng ta cần đi theo một con đường khác, một con
đường mới phù hợp hơn với hoàn cảnh đất nước và hoàn cảnh thế giới lúc bấy giờ. Ngoài ra, cần phải
có một giai cấp với đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng
lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
dân tộc.

Chính vì lẽ đó, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một quyết định tất yếu, mang ý nghĩa lịch
sử đối với phong trào cách mạng tại Việt Nam.

4. Tiểu kết
Như vậy, từ hiện thực lịch sử những thập niên đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những năm 20 cho
thấy, quá trình vận động của phong trào cách mạng Việt Nam để đi đến thành lập Đảng cộng sản ở Việt
Nam đã hòa quyện các yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó có nghĩa là ngay từ khi thành lập với quy luật tạo dựng
Đảng đã làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là người lãnh đạo, là lãnh tụ chính trị của giai cấp
và cả dân tộc. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ lãnh
đạo của Đảng vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến lên Chủ nghĩa Xã hội.

IV. Kết luận


Như vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo mọi
tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung, phương
hướng phát triển của xã hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chấm dứt sự
khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước của dân tộc ta trong hơn 9 thập kỉ.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt quyết định trong sự phát triển
của dân tộc ta, tạo những tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử
cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là sự phản ánh
quy luật ra đời và cội nguồn sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm của dân tộc Việt Nam và là công lao to lớn của lãnh tụ

Page | 17
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong công cuộc vận động thành lập một chính đảng vô sản ở Việt
Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Qua những yếu tố đã phân tích ở trên: bối cảnh lịch sử, tình hình trong nước thời bấy giờ,
ta có thể khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời 3/2/1930 là tất yếu khách quan.
B. CÂU HỎI: QUAN ĐIỂM CỦA ANH/CHỊ THẾ NÀO VỀ Ý KIẾN CHO RẰNG Ở
VIỆT NAM CẦN THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG LÃNH ĐẠO. TẠI SAO?

I. Hệ thống đa đảng:
1. Tổng quan về hệ thống đa đảng
Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở đó có hai hoặc nhiều hơn các đảng chính trị có khả năng
giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau. Không giống như hệ
thống một đảng hay hệ thống không đảng, hệ thống đa đảng khuyến khích toàn bộ cử tri thành lập
nhiều nhóm đặc trưng riêng. Mỗi đảng tranh cử từ những cử tri hợp thức (được cho phép bầu cử theo
luật).

Đa đảng, đa nguyên chính trị xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp
tiến bộ trong đấu tranh bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát
triển quyền tự do dân chủ tư sản. Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội - triết học, tuyệt
đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Hệ
thống đa đảng là thiết yếu trong một nền dân chủ đại nghị, vì nó ngăn ngừa sự lãnh đạo của một đảng
duy nhất dẫn đến những chính sách không mang tính cạnh tranh (được đưa ra thách thức bởi các đảng
phái khác).

Nếu chính phủ gồm các ghế được bầu ra, các đảng có thể chia quyền theo đại diện tỉ lệ hoặc luật
thắng với đa số tương đối. Ở đại diện tỉ lệ, mỗi đảng giành được một số ghế theo tỷ lệ phiếu bầu mà
đảng đó nhận được. Còn ở thắng với đa số tương đối, cử tri được chia thành nhiều khu vực, mỗi khu
vực một người được chọn cho một ghế bởi đa số phiếu. Luật thắng với đa số tương đối không có lợi
cho sự phát triển của nhiều đảng, và chúng tự nhiên hướng đến một hệ thống chỉ có hai đảng, nơi chỉ có
hai đảng có cơ hội thực sự trong việc đưa ứng viên của họ giành chiến thắng (hệ quả này còn gọi là luật
Duverger.) Trái lại, đại diện tỉ lệ không có khuynh hướng này và cho phép nhiều đảng chính phát triển.
Sự khác biệt này không phải là không có liên quan với nhau. Một hệ thống hai đảng đòi hỏi cử tri đứng
vào các khối lớn, nhiều khi lớn đến nỗi họ không thể đồng ý với các nguyên tắc chung. Theo cách nghĩ
này, một số thuyết cho rằng điều này những ứng viên ôn hòa sẽ giành chiến thắng. Trong khi đó, nếu
có nhiều đảng chính, mỗi đảng có số phiếu bầu về cơ
bản ít hơn đa số, các đảng buộc phải liên minh với
nhau để thiết lập một chính phủ.

Điều này cũng khuyến khích một đường lối ôn


hòa. Hoa Kỳ là một ví dụ cho hệ thống đa đảng nhưng
chỉ có hai đảng từng điều hành chính phủ. Đức, Ấn
Độ, Pháp và Israel là những quốc gia điển hình đang
sử dụng hệ thống đa đảng một cách hiệu quả trong nền

Page | 18
dân chủ của mình. Với những nước này, nhiều đảng chính trị thường thiết lập liên minh để tạo thành
một khối mạnh cho việc điều hành chính phủ. Ngày nay, hệ thống này được áp dụng tại hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Mục tiêu của chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng là hòng xóa bỏ hệ tư tưởng vô sản,
phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa Marx –Lenin, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

2. Những ưu điểm của hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh

Đánh giá cấu trúc tổ chức và hoạt động của nhà nước tư sản, C.Mác khẳng định, nó tiến bộ trên
nhiều mặt so với các nhà nước trước đó: “ở đây sự tự do cạnh tranh ngự trị không giới hạn trên mọi
lĩnh vực cuộc sống và nói chung chỉ còn lại một quyền lực chính phủ tối thiểu, cần thiết cho toàn bộ
giai cấp tư sản nhằm bảo đảm cho những lợi ích chung của nó trong chính sách đối nội cũng như đối
ngoại và điều khiển được các công việc chung của nó; nhưng cái quyền lực chính phủ tối thiểu đó phải
được tổ chức một cách hợp lý và tiết kiệm nhất”.

Hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh thể hiện những giá trị cốt lõi mà giai cấp tư sản định hình
cho xã hội. Việc bảo đảm tự do cá nhân, tự do thành lập hiệp hội, tổ chức chính trị để tham gia
cạnh tranh trong bầu cử vào các vị trí quyền lực và cầm quyền theo quy định của hiến pháp, pháp
luật - ở một mức độ nhất định - đã tạo nên sự bình đẳng, quyền tự do của các cá nhân trong hoạt động
chính trị, từ đó tạo dựng tính chính đáng quyền lực cho giai cấp cầm quyền từ sự ủy quyền của dân
thông qua các cuộc bầu cử cạnh tranh tự do.

Hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh cũng tạo được động lực, sự năng động, tích cực của các
đảng chính trị trong việc tìm tòi, đổi mới cương lĩnh, chính sách cũng như cách thức tổ chức, hoạt
động và chất lượng đội ngũ lãnh đạo của đảng, với mục tiêu quan trọng nhất là hướng tới cử tri, thu
hút phiếu bầu của họ để thắng cử và thực thi quyền lực nhà nước. Sự cạnh tranh giữa các đảng chính trị
trong bầu cử khi được quản trị tốt còn tạo diễn đàn cho sự cọ xát, tranh luận về các mục tiêu, định
hướng chính sách giữa các đảng, mang lại góc nhìn đa chiều, nhiều khía cạnh về các vấn đề của quốc
gia trong nhận thức của giới lãnh đạo chính trị và của cả cử tri. Sự cạnh tranh giữa các đảng chính trị
cũng đem lại cho cử tri có các lựa chọn riêng từ các đảng cạnh tranh và các định hướng chính sách.

Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội theo hướng chuyên môn sâu để tăng năng
suất và hiệu quả hoạt động, việc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị đa
đảng cạnh tranh cũng thể hiện sự hợp lý, khách quan theo tính chất hoạt động của các loại quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Sự độc lập tương đối giữa các nhánh quyền lực, một mặt giúp phân
định rõ thẩm quyền, phạm vi tác động và trách nhiệm của các chủ thể quyền lực, mặt khác nhằm
“kiềm chế - đối trọng”, hạn chế sự lấn sân, lạm dụng quyền lực giữa các nhánh quyền lực với
nhau.

3. Những hạn chế và giới hạn của hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh

Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ và hợp lý, song hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh có những
vấn đề và giới hạn không thể vượt qua. Hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh được hình thành dựa trên
nền tảng tư tưởng của giới tinh hoa tư sản, ưu tiên tự do cá nhân và trật tự đẳng cấp xã hội. Trên nền

Page | 19
tảng này, cấu trúc thể chế, phân bổ quyền lực và luật lệ của hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh được
thiết kế và hoạt động để duy trì và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, những người giàu có trong xã hội.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nhưng đó là pháp luật của chủ nghĩa tư bản vốn đã
chuyển tải trật tự, công bằng và lợi ích theo trật tự giai cấp. Sự bình đẳng hình thức trước pháp luật này
đã được Gian Giắc Rútxô phê phán là không bảo đảm được tự do của con người, một khi nghèo quá
phải bán mình để sinh tồn và những kẻ giàu có thể mua đứt tự do của người khác.

Trong hệ thống này, có tự do cạnh tranh giữa các đảng chính trị vào các cơ quan nhà nước, công
dân đều có quyền tự do ứng cử và bầu cử, nhưng các quy định về điều kiện thực tế dẫn tới sự cạnh
tranh chỉ là giữa các đảng chính trị lớn, những đảng đại diện cho các lực lượng có nguồn lực, ưu thế
trong xã hội. Kết quả là quyền lực nhà nước luôn nằm trong tay đảng chính trị đại diện cho tầng
lớp, giai cấp có thế lực lớn trong xã hội. Hơn nữa, điều căn bản là đảng chính trị nào thắng cử thì việc
cầm quyền, hoạt động của nhà nước và xã hội đều dựa trên nền tảng thể chế, cơ chế luật lệ của giai cấp
tư sản, bảo vệ trật tự, quyền lực và lợi ích của giai cấp tư sản.

Hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh luôn được gán nhãn cùng với nguyên tắc phân quyền,
phân lập quyền lực giữa cách nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, với cơ chế “kiềm chế - đối trọng”
để kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên, đi sâu vào bản chất lợi ích thì sự phân quyền này cũng chỉ là hình
thức; trong đó, “mỗi bộ phận đều đem quyền thống trị chung của giai cấp tư sản, cái hình thức mà trong
đó tất cả mọi tham vọng riêng biệt của họ đều được trung hòa và duy trì lẫn nhau... để đối lập với
những tham vọng chiếm đoạt và nổi loạn của các đối thủ của họ”. Tính hình thức bắt nguồn từ một
điểm căn cốt là giữa chúng có chung mục đích và lợi ích, nhất là lợi ích của cùng một giai cấp. Một khi
đã cùng chung mục đích và lợi ích thì việc kiềm chế, kiểm soát quyền lực cũng chỉ là hình thức. Thay
vì kiềm chế, kiểm soát lẫn nhau, các đảng chính trị, các cơ quan nhà nước khi cần thiết sẽ đi tới thỏa
hiệp, cấu kết và thông đồng với nhau để cùng có lợi, điều người ta thường gọi là sự mặc cả, thỏa hiệp,
mua bán trên lưng, mồ hôi, nước mắt và kể cả máu của người dân. Do vậy, cơ chế “kiềm chế - đối
trọng” nhằm mục đích kiểm soát quyền lực nhà nước bảo đảm tự do của công dân, bảo đảm quyền
lực nhà nước là của nhân dân vẫn chỉ là sự ngụy biện, ảo tưởng.

Trước thực tế này, các nhà tư tưởng chính trị hiện nay đang tiếp tục tìm kiếm phương thức kiểm
soát hữu hiệu đối với quyền lực nhà nước. Chẳng hạn, các nhà tư tưởng chính trị Mỹ đã và đang tìm
kiếm giải pháp nhằm kiểm soát sự “chuyên chế của đa số”. Trong các quá trình dân chủ hoặc ra quyết
định theo nguyên tắc đa số, sự hình thành đa số chuyên chế dẫn tới khả năng nhà nước bị thao túng và
trở thành chuyên chế, thiểu số đúng bị áp chế bởi đa số sai. Như vậy, việc kiểm soát quyền lực nhà
nước trong xã hội hiện đại nếu chỉ dựa vào hiến pháp, pháp luật hay “kiềm chế - đối trọng” trong bộ
máy nhà nước là chưa đủ. Nhà nước trong hệ thống đa đảng cạnh tranh bầu cử vẫn có thể là nhà nước
chuyên chế, đi ngược lại quyền tự do, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân.

Mặt khác, sự phân quyền và hiện diện của nhiều đảng chính trị trong bộ máy nhà nước cũng
đồng nghĩa với việc thực thi quyền lực nhà nước bị phân tán và chia rẽ giữa các đảng, có thể dẫn
tới bế tắc trong quá trình ra chính sách. Hệ quả của tình trạng này cũng khó quy tránh nhiệm. Trên
thực tế, sự bế tắc về chính sách thời kỳ Tổng thống Obama của Mỹ do Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế
ở hạ viện không thông qua đã dẫn tới tình trạng chính phủ liên bang phải đóng cửa một thời gian và

Page | 20
gây tổn thất nhất định cho đất nước. Điều đáng nói là, nước Mỹ không xác định được tránh nhiệm
thuộc về ai khi quả bóng tránh nhiệm được đá đi đá lại giữa Đảng Dân chủ cầm quyền và Đảng Cộng
hòa nắm đa số ghế ở hạ viện. Có thể nói, việc phân quyền luôn đi cùng với tính chịu trách nhiệm không
cao của các chủ thể trong thực thi quyền lực.

Do sự cạnh tranh, mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền được thực hiện với sự thiếu vắng
nguồn lực từ sự ủng hộ, hợp tác của các đảng đối lập và sự tham gia, ủng hộ của những bộ phận nhất
định trong xã hội. Thay vì cạnh tranh có tính xây dựng trên tinh thần hợp tác, các đảng chính trị và
lực lượng ủng hộ vì lợi ích riêng của tổ chức mình thường hành xử theo hướng ngược lại. Sự cạnh
tranh, đối lập giữa các đảng chính trị, các tổ chức và lực lượng trong xã hội đôi khi quá mức, dẫn tới sự
trì trệ, bế tắc trong hoạt động của bộ máy nhà nước, hoặc gây xung đột, bất ổn và có thể dẫn tới khủng
hoảng trong hoạt động của hệ thống chính trị và xã hội, Thực tiễn cạnh tranh bầu cử và hoạt động của
nhà nước Mỹ, Pháp, Thái Lan... trong thời gian qua đã bộc lộ rõ tình trạng này.

Sự cạnh tranh và thay nhau cầm quyền giữa các đảng chính trị theo nhiệm kỳ còn dẫn tới tình
trạng “tư duy nhiệm kỳ” của các đảng cầm quyền và sự lãng phí nguồn lực lớn, khi một số chính
sách của đảng cầm quyền trước không được đảng thắng cử tiếp tục duy trì. Do bầu cử theo nhiệm kỳ và
để tìm kiếm phiếu bầu của cử tri, các đảng cầm quyền thường lựa chọn, thực thi các chính sách ngắn
hạn đáp ứng yêu cầu của dân chúng thay cho việc theo đuổi và thực hiện các chính sách dài hạn vì lợi
ích của quốc gia. Việc giành phiếu bầu và duy trì vị trí cầm quyền luôn được ưu tiên trong hoạt động
của đảng cầm quyền. Các chính sách của đảng cầm quyền đã và đang triển khai ở nhiệm kỳ trước cũng
có thể không được tiếp tục thực hiện do đảng thắng cử không có cùng cách tiếp cận chính sách và lợi
ích. Điều này gây lãng phí và tổn thất lớn đối với quốc gia và người dân ở cả khía cạnh chi phí cơ hội
và nguồn lực. Ở một khía cạnh khác, chính việc chạy theo và thỏa mãn lợi ích ngắn hạn của cử tri trong
một số trường hợp cũng góp phần tạo nên xu hướng dân túy của một số nhà lãnh đạo chính trị cũng như
chính sách của một số đảng chính trị.

Hơn nữa, sự phát triển của xã hội hiện đại ngày nay đang đặt ra nhiều giới hạn và thách thức
cho hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh. Sự phát triển đa dạng và chuyên môn hóa sâu trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã hình thành nhiều tầng lớp, lực lượng khác nhau, với các mối
quan hệ nhiều chiều và lợi ích đan xen phức tạp. Thực tế này dẫn tới sự hình thành quá nhiều đảng
chính trị trong một quốc gia. Sự phân tán lợi ích và chia rẽ giữa các tầng lớp trong xã hội khiến cho các
đảng chính trị khó hình thành cương lĩnh chính trị, khó tạo lập được cơ sở chính trị đủ lớn để thu hút
được phiếu bầu của cử tri. Sự không tương thích giữa cơ sở chính trị trong xã hội và quyền lực mà các
đảng nắm giữ trong bộ máy nhà nước phần nào làm suy giảm tính chính đáng chính trị của các đảng,
nhất là đảng cầm quyền.

II. Hệ thống đơn đảng:


1. Tổng quan về hệ thống đơn đảng:

Quốc gia đơn đảng hay hệ thống đơn đảng là hình thức chính quyền có hệ thống đảng do một
đảng chính trị thành lập chính quyền và không cho các đảng khác được phép đưa ứng cử viên của
mình ra tranh cử.

Page | 21
Tùy theo mức độ kiểm soát người dân, người ta chia nó ra làm chế độ hỗn hợp, chính thể đầu sỏ,
chế độ quân phiệt, chế độ quân chủ. Trong hầu hết các trường hợp, các quốc gia đơn đảng đã phát triển
từ tư tưởng chủ nghĩa phát xít, xã hội chủ nghĩa, hoặc chủ nghĩa dân tộc, đặc biệt trong quá trình giành
độc lập từ sự cai trị của thực dân và thường xuất phát từ quá trình phi thực dân hóa, vì đảng ấy có vai
trò lãnh đạo trong các cuộc đấu tranh giải phóng hay giành độc lập. Những nơi đảng cầm quyền tán
thành Chủ nghĩa Marx-Lenin, hệ thống đơn đảng thường được gọi là xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo
của của Đảng cộng sản được quy định trong hiến pháp, không đảng nào được vận động hay điều hành
các ứng cử viên trong bầu cử. Các ứng cử viên được bầu trên cơ sở trưng cầu dân ý cá nhân mà không
có sự can dự của đảng một cách chính thức dù cho các hội đồng lập pháp được bầu ra chủ yếu bao gồm
các thành viên của đảng thống trị cùng với các ứng cử viên không liên kết.

Một số quốc gia hiện nay thực hiện chế


độ đơn đảng như Việt Nam, Cuba, Trung Quốc,
Triều Tiên,…
Chính trị Việt Nam hiện là một nước theo
chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị đã
thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng
chính trị (là Đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh
đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ
quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam.

2. Ưu điểm của hệ thống chính trị một đảng cộng sản cầm quyền trong sự so sánh với hệ thống đa
đảng cạnh tranh.

Trong hệ thống nhất nguyên về chính trị, do không có sự cạnh tranh của các đảng chính trị khác,
nên đảng cộng sản có sự tập trung quyền lực mạnh, cầm quyền liên tục và tạo được sự thống nhất
trong tổ chức thực hiện, có thể tập trung nguồn lực cho thực hiện các mục tiêu ưu tiên, cho các chính
sách dài hạn với quy mô lớn, từ đó có thể tạo nên những thay đổi căn bản, sâu rộng trên các lĩnh vực
của quốc gia, tạo sự lan tỏa, hiệu ứng của các kết quả đạt được trong đời sống và nhân dân.

Mặt khác, nếu được thiết kế và tổ chức tốt, hoạt động của hệ thống chính trị sẽ thông suốt và
không bị gây ách tắc hay cản trở bởi lực lượng đối lập nào, hạn chế được sự lãng phí và tổn thất về
chi phí cơ hội, thời gian, nguồn lực vốn thường xảy ra trong các hệ thống chính trị đa đảng cạnh
tranh. Hơn nữa, tính nhất nguyên và thống nhất của hệ thống chính trị giúp đảng cộng sản cầm quyền
có thể dễ dàng huy động được sự đồng thuận, nguồn lực và sức mạnh của cả hệ thống chính trị và
xã hội để thực hiện mục tiêu chính sách, mang lại lợi ích cho nhân dân và đất nước.

Việc ra quyết định nhanh, kịp thời, quyết đoán trong hoạt động của hệ thống chính trị một
đảng cầm quyền là một thế mạnh vô cùng lớn so với hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh quyền
lực. Đi cùng với quyền lực lớn thì tính chịu tránh nhiệm của đảng cầm quyền cũng cao hơn. Trong
thể chế một đảng cầm quyền, thành công hay thất bại của các chính sách, và từ đó là sự ổn định, phát

Page | 22
triển hay trì trệ, khủng hoảng của quốc gia đều là trách nhiệm của chỉ một đảng cầm quyền, không có
đảng chính trị hay một chủ thể chính trị nào khác để đổ lỗi và trốn tránh trách nhiệm.

3. Nguy cơ của hệ thống chính trị một đảng cộng sản cầm quyền trong sự so sánh với hệ thống đa
đảng cạnh tranh.

Việc tập trung quyền lực mạnh vào một đảng cầm quyền có thể dẫn tới độc tài, chuyên chế khi
các đảng viên và tổ chức đảng không còn duy trì được “chất cộng sản”, khi kỷ luật, kỷ cương, các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng không được giữ vững và thực hiện nghiêm túc trên thực tế.

Hệ thống chính trị nhất nguyên, tập trung quyền lực giúp đảng có thể đưa ra quyết định nhanh,
quyết đoán, nhưng cũng dễ dẫn tới đảng duy ý chí, sai lầm, không phản ánh đúng thực tế khách
quan. Điều này dễ xảy ra nếu trong tổ chức và hoạt động của hệ thống thiếu sự phản hồi, giám sát
trong đảng, không thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

IV. Quan điểm “Việt Nam cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo":
Thực tiễn ở Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nguyện vọng và sự lựa chọn đúng đắn của Nhân dân ta. Và chắc chắn khẳng định rằng ở Việt Nam
không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng vì những lý do sau:
Thứ nhất, xét dưới góc độ lý luận: Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng xuất
phát từ chủ nghĩa đa nguyên - một trường phái triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Christian
Wolff (1679-1754) đề xuất vào đầu thế kỷ XVIII, có luận điểm phủ nhận sự phân chia xã hội thành
giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên
tắc đa lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp
thương.

Page | 23
 Việc áp dụng luận điểm này vào việc xây dựng, đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ làm hạ thấp vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân (ở Việt Nam còn đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam) và đi ngược lại với chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn cách mạng của Việt Nam: Vào đầu thế kỷ XX qua sự “sàng
lọc” dữ dội của lịch sử, dân tộc Việt Nam, Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam
là tổ chức chính trị duy nhất dẫn dắt dân tộc ta đi đến độc lập, tự do và hạnh phúc.
Trước sự bế tắc của nhiều phong trào, tư tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như: Phong trào Cần Vương (Hàm Nghi), Khởi nghĩa Yên Thế (Hoàng Hoa
Thám), Phong trào Đông Du (Phan Bội Châu), Phong trào Duy Tân (Phan Chu Trinh),..., dưới ánh sáng
của Chủ nghĩa Mác-Lênin (do Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu, tìm tòi và truyền bá vào cách mạng Việt
Nam) và được sự chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng, tổ chức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra
đời (03/2/1930) để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là một tất yếu lịch sử và đã chấm dứt thời kỳ
cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc.
Sau khi ra đời, chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết -
Nghệ Tĩnh, Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và Cao trào cách mạng giải phóng
dân tộc (1939-1945), để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm
1945 "long trời, lở đất," thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02/9/1945.

Page | 24
Giai đoạn 1945 - 1975: phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi
trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu," chúng ta đã chiến thắng thực dân Pháp xâm lược; tiếp theo đó, trên cơ
sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã
lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu
giang sơn về một mối vào ngày 30/4/1975. Với chiến thắng này, lịch sử và nhân dân Việt Nam một
lần nữa đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Giai đoạn này, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng song song tồn tại
02 đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam (ra đời năm 1944) và Đảng Xã hội Việt Nam (ra đời năm
1946). Tuy nhiên, cả 02 đảng này chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ,
thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho đến năm 1988 đã tuyên bố tự giải tán.

Giai đoạn từ sau 1975 đến nay: dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước chung tay khắc phục hậu
quả nặng nề của chiến tranh để lại, tập trung khôi phục kinh tế xã hội; chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo
vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Đặc biệt, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đã đưa nước ta đến nay
vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
có bước đột phá; chính trị, xã hội ổn định, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất
nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế…
Cũng như những kỳ đại hội đại biểu toàn
quốc sau đó, hay gần nhất là đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII là: “Mục tiêu cụ thể đến năm
2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát
triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm

Page | 25
2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao.” - Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Có thể thấy, những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam cho đến nay
chính là cơ sở thực tiễn thuyết phục nhất, là minh chứng hùng hồn nhất để khẳng định sự lãnh đạo đúng
đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quan trọng quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
 Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác,
ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo
đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ ba, có phải chỉ có thực hiện đa đảng thì mới có dân chủ?
Lý luận Mác-Lênin đã khẳng định: Dân chủ là phạm trù có tính lịch sử và giai cấp. Do đó, dân
chủ xuất hiện khi có nhà nước, mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định và dân chủ còn
phụ thuộc vào trình độ phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn nhất định, Lênin cũng
khẳng định: “... bất cứ nền dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất và xét đến cùng, đều
do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết định”.
Hiện nay, nhiều nước tư bản thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như: Đức,
Mỹ, Pháp, Ý, Thụy Điển,... Các đảng có thể thay phiên nhau cầm quyền ở một quốc gia trong một
khoảng thời gian nhất định. Nhưng xét đến cùng, các đảng đó đều là đảng của giai cấp tư sản, đại diện
cho lợi ích của giai cấp tư sản. Do đó, nền dân chủ đó là nền dân chủ tư sản, nền dân chủ chỉ dành cho
một bộ phận thiểu số, một số ít người trong xã hội.
 Như vậy, có thể khẳng định: Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực
hiện được nó thì trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ
duy nhất đại diện cho quyền lực của mình. Thể chế một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng
nghĩa với mất dân chủ, không phải dân chủ phát triển chỉ khi gắn với thể chế đa đảng và cũng
không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn.
Thứ tư, Việt Nam sẽ ra sao nếu thực hiện chế độ đa đảng?
Nếu điều đó xảy ra, đất nước sẽ rơi vào cảnh chia năm xẻ bảy, các phe phái sẽ dùng mọi cách
chèn ép nhau để tranh giành ảnh hưởng, địa bàn, lòng dân và sẽ dẫn đến cần ngoại viện, liên minh với
các thế lực bên ngoài… các thế lực ngoại bang sẽ có cớ để can thiệp vào nội bộ. Nhân dân ta đã nếm
trải trăm ngàn cay đắng dưới ách thống trị ngót một thế kỷ của thực dân, đế quốc, đã biết rõ cái gọi là
tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng sẽ không bao giờ mang lại tự do, hạnh phúc, mà chỉ thấy đau
thương, mất mát và nội chiến đẫm máu. Nguyện vọng lớn lao nhất của dân tộc ta, nhân dân ta là được
sống trong hòa bình, độc lập, thống nhất, được chung tay, góp sức xây dựng đất nước, xây dựng cuộc
sống mới tươi đẹp, người dân có cuộc sống ngày một ấm no, hạnh phúc. Và đất nước ta đang tiến gần
đến mục tiêu đó. Vậy thì hà cớ gì ta phải nghe theo những lời “dụ dỗ”, “khuyên bảo” của các thế lực
thù địch, đa nguyên, đa đảng để làm nảy sinh trăm ngàn bất cập, tổn hại và nguy cơ “tan đàn xẻ nghé”?.
Không, nhất định không, chúng ta sẽ không lựa chọn con đường đó.

Page | 26
Chúng ta đã có bài học sâu sắc về sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô, Đông Âu,
nó cũng bắt nguồn từ việc đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thế rồi
bao thành quả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Nhân dân Liên Xô, Đông Âu giành được đã đổ sông
đổ bể toàn bộ. Thực hiện đa nguyên, đa đảng đã dẫn tới sự hỗn loạn chính trị, xã hội, thêm vào đó là
một số sai lầm phạm phải trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đã cộng hưởng, nhân lên sự bất
mãn trong xã hội, lòng dân ly tán và Đảng Cộng sản đã mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội chủ nghĩa -
thành trì của cách mạng thế giới đã cứ như vậy mà sụp đổ không thể cứu vãn được. Bài học xương máu
của Liên Xô, Đông Âu còn đó, Việt Nam chúng ta nhất quyết phải tránh đi vào vết xe đổ này, hãy cứ
kiên định, trung thành với con đường đúng đắn mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã
lựa chọn, đó là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là kinh nghiệm là bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam trong mọi
thời kỳ.

 Như vậy, vì sự ổn định và phát triển của đất nước, vì sự phát triển của nền dân chủ và hạnh
phúc của nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh... đất nước Việt Nam, Nhân dân Việt Nam không cần đa đảng và không chấp
nhận đa đảng.

Page | 27
Page | 28
IV. Kết luận:
Thực tế cho thấy, sự phát triển của một quốc gia không hoàn toàn phụ thuộc vào việc quốc gia
đó có bao nhiêu đảng chính trị, mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đường lối sáng suốt của Đảng và năng
lực lãnh đạo, ngoài ra còn những yếu tố khác như sản xuất, điều kiện tự nhiên, tình hình dân số, v.v.
Có nước một đảng cầm quyền vẫn bảo đảm dân chủ, phát triển và giàu có; có nước nhiều đảng cầm
quyền vẫn kém phát triển, vẫn mất dân chủ, vẫn là nước nghèo. Rõ ràng, một đảng không phải là cản
trở và nhiều đảng không phải là cứu cánh cho sự phát triển của đất nước. Dưới góc độ đảng chính trị,
vấn đề thuộc về bản chất của các đảng, lý tưởng mà các đảng theo đuổi, lợi ích xã hội mà nó đại diện,
bảo vệ; uy tín và năng lực tập hợp, liên kết, lãnh đạo các lực lượng xã hội cùng thực hiện mục tiêu
chung của quốc gia - dân tộc.
Đã 94 năm trôi qua kể từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và rõ ràng là với sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã hồi sinh và không ngừng thay da đổi thịt. Từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến nghèo nàn, lạc hậu và không có tên trên bản đồ thế giới đã vươn lên tiến cùng thời
đại, làm rạng danh non sông dòng giống Lạc Hồng. Với những thành tựu to lớn đã đạt được, cùng với
phẩm chất, năng lực, đạo đức và uy tín của mình, sự tin yêu của nhân dân, chắc chắn rằng: hiện tại và
tương lai, sự lãnh đạo của Ðảng ta vẫn sẽ là sự lựa chọn duy nhất, sự ủy thác tín nhiệm cao nhất của
Nhân dân và Dân tộc dành cho Đảng. Đó là niềm tự hào, là trọng trách lớn lao của Đảng trước Đất
nước, Nhân dân và Dân tộc, đây điều mà không một đảng chính trị nào khác có được. Vì thế, Đảng
Cộng sản Việt Nam quyết không từ bỏ quyền độc tôn lãnh đạo đất nước và xã hội mà nhân dân đã ủy
thác; Nhân dân và Dân tộc Việt Nam không cần, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng vì thực sự nó
không mang lại bình yên và hạnh phúc.
Vấn đề đặt ra hiện nay đối với chúng ta không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng, mà là
phải thực hiện tốt hơn nữa quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội. Đồng
thời thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng, “Phải dành nhiều công sức tạo được
sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân
và tính tiền phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có
đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực”, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng.
Phải là người Việt Nam yêu nước thực sự thì mới thấm thía hết được giá trị của những thành quả
mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam hơn chín thập kỷ qua, mới có
thể nhận thức được đâu là “mệnh lệnh” đích thực của đất nước và quyết tâm phấn đấu theo “mệnh
lệnh” đó.

Page | 29
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh và những vấn đề cần chú ý trong hệ thống chính trị Việt
Nam, PGS, TS TRỊNH THỊ XUYẾN, truy cập 19/03/2024.
2. ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỂM “ĐA ĐẢNG” Ở VIỆT NAM, ThS. Phạm Kim Hửng, Giảng
viên Khoa NN&PL, truy cập: 19/03/2024. (camau.gov.vn)
3. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG LÀ TẤT YẾU Khách QUAN VÀ QUAN ĐIỂM VỀ CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG,
Studocu, truy cập: 19/03/2024.
4. Thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập sẽ dẫn đất nước đi về đâu?, Đào Việt Dũng, truy
cập: 19/03/2024. (dcs.vn)
5. Đại hội XIII – Điểm hội tụ lịch sử, truy cập 19/03/2024. (moj.gov.vn)

Page | 30

You might also like