You are on page 1of 31

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI


-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

BÀI THẢO LUẬN


HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

Đề tài: Tìm hiểu về 3 bước đột phá kinh tế trước đổi mới
của Đảng. Rút ra nhận xét

Nhóm thực hiện: 09


Lớp học phần : 232_HCMI0131_04
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Lê Văn Nguyên

Hà Nội – 2024
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
PHẦN I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ.........................................................................2
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới............................................................................2
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước......................................................................4
1.2.1. Thuận lợi..............................................................................................4
1.2.2. Khó khăn..............................................................................................5
PHẦN II: BA BƯỚC ĐỘT PHÁ KINH TẾ TRƯỚC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
...............................................................................................................................8
2.1. Bước đột phá đầu tiên...............................................................................8
2.1.1. Chủ trương, đường lối xây dựng, phát triển kinh tế XHCN..............8
2.1.2. Cách thức tổ chức thực hiện...............................................................8
2.1.3. Kết quả..................................................................................................9
2.1.4. Bài học và ý nghĩa..............................................................................11
2.2. Bước đột phá thứ hai..............................................................................13
2.2.1. Chủ trương, đường lối của Đảng tại Hội nghị Trung ương 8 khoá V
(6/1985).........................................................................................................13
2.2.2. Cách thức tổ chức thực hiện.............................................................13
2.2.3. Kết quả................................................................................................14
2.2.4. Bài học và ý nghĩa..............................................................................15
2.3. Bước đột phá thứ ba................................................................................16
2.3.1. Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế XHCN.............................16
2.3.2. Cách thức tổ chức thực hiện.............................................................17
2.3.3. Kết quả................................................................................................18
2.3.4. Bài học và ý nghĩa..............................................................................19
PHẦN III. NHẬN XÉT CHUNG.....................................................................21
KẾT LUẬN........................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................24
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (4/1975), cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Theo mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đại
hội Đảng lần thứ IV xác định, trong giai đoạn 1976 - 1986, bên cạnh những
thắng lợi to lớn trong bảo vệ Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng
đất nước, tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều sai lầm,
yếu kém và lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn. Thực
trạng đó của Việt Nam cùng với những chuyển biến sâu rộng của cục diện thế
giới đã đặt ra cho Đảng ta vấn đề đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hành trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng đã diễn ra qua nhiều trăn
trở, tìm tòi, khảo nghiệm, trong đó có 3 bước đột phá lớn. Bước đột phá mở đầu
là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6, khoá IV (8/1979) chủ trương
bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”; không còn xem kế hoạch hoá là hình
thức duy nhất để phát triển kinh tế; khẳng định sự cần thiết phải kết hợp kế
hoạch với thị trường. Bước đột phá thứ hai là Hội nghị Trung ương 8, khóa V
(6/1985) với chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp;
thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển
hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ
sở sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Bước đột phá thứ ba là
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/1986 và cuối 1986) với "Kết luận đối với một
số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Kết luận trực tiếp định hướng việc soạn
thảo lại một cách căn bản dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng.
Những bước đột phá trên có ý nghĩa lịch sử và hiện thực vô cùng to lớn. Nó
là tiền đề quan trọng của đường lối đổi mới toàn diện đất nước được Đảng ta
khởi sướng từ Đại hội lần thứ VI (12/1986).

1
PHẦN I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới
Mọi quốc gia, bất kể thể chế chính trị nào, đều vận động theo quy luật cải
cách để phát triển. Và các nước xã hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài quy luật
tất yếu này. Công cuộc cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là đòi hỏi cấp bách trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đó là sự tự nhận thức lại về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội,
nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã mắc phải trong quá khứ, đồng thời
tìm kiếm con đường phát triển phù hợp với bối cảnh mới của thời đại.
Chiến tranh lạnh kết thúc đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của thế giới.
Trong thời kỳ này, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển
mạnh mẽ và lan rộng khắp thế giới. Kết quả là từ cuối thế kỷ XX và sang thế kỷ
XXI, đa số các quốc gia đã giành được độc lập. Sự vươn lên của các nước như
Trung Quốc, Nhật Bản và các nước Tây Âu đã tạo ra các trung tâm kinh tế mới,
đối trọng với Mỹ và làm thay đổi cán cân kinh tế thế giới. Cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật bùng nổ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, gia tăng nhu cầu hợp tác
quốc tế. Xu hướng hòa bình, hợp tác cùng phát triển trở thành xu thế chung trên
phạm vi toàn cầu.
Sau khủng hoảng dầu mỏ (1972-1973) và cách mạng khoa học - công nghệ,
các nước buộc phải chuyển đổi mô hình kinh tế, tăng cường liên kết quốc tế và
cải cách toàn diện để thích nghi với thời đại mới. Những cuộc khủng hoảng đặt
nhân loại trước những vấn đề cấp bách như cạn kiệt tài nguyên, bùng nổ dân
số... Do vậy, yêu cầu cải cách về kinh tế, chính trị và xã hội để thích nghi với sự
phát triển khoa học - kỹ thuật và hợp tác quốc tế ngày càng mạnh mẽ là vô cùng
cấp thiết theo xu thế hòa hoãn. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra đối với tất cả
các nước là phải nhanh chóng cải cách về kinh tế, chính trị - xã hội để thích ứng.
Đầu những năm 1980, mô hình quản lý tập trung, quan liêu và bao cấp của
các nước xã hội chủ nghĩa dần bộc lộ hạn chế. Trong lĩnh vực kinh tế, các quốc
gia này chỉ tập trung hợp tác khép kín trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ
Kinh tế (SEV), đi ngược lại xu hướng quốc tế hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ. Quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng
tồn tại nhiều bất cập. Một mô hình duy nhất theo kiểu Xô Viết được áp dụng cho
hầu hết các nước, bất chấp sự khác biệt về lịch sử, xã hội, địa lý, văn hóa, cũng
như điểm xuất phát và điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
2
Các nước tư bản chủ nghĩa tiến hành cải cách từ những năm 70. Cho đến
giữa thập kỷ 80 thì đổi mới, cải cách trở thành xu thế chung. Trung Quốc bắt
đầu cải cách, mở cửa về kinh tế từ năm 1978. Cuộc cải cách huy động hiệu quả
tích cực của nhân dân, giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội. Nền kinh tế
chuyển dần sang thị trường xã hội chủ nghĩa, từ đóng cửa sang mở cửa toàn diện
tạo điều kiện hội nhập sâu rộng với thế giới trên mọi lĩnh vực. Sự chuyển biến
này đòi hỏi thể chế hành chính của Trung Quốc cũng phải có sự chuyển mình
tương xứng. Vào thời điểm quyết định tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc
đã cải thiện quan hệ với Việt Nam, Mỹ, Nhật Bản và các nước phương Tây,
thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập trên trường quốc tế. Nhờ đó Việt Nam có
thêm cơ hội giao lưu, mở rộng sự hội nhập kinh tế quốc tế với Trung Quốc bởi
sự tương đồng về thể chế chính trị, văn hóa. Đảng và nhà nước Việt Nam cũng
rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm đổi mới từ công cuộc cải cách này của
Trung Quốc.
Sau bốn lần cải cách, Liên Xô tiến hành cải tổ dưới thời M. Goóc-ba-chốp
(1985-1991), thay vì từng bước cải thiện hệ thống quản lý theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, Goóc-ba-chốp chủ trương tư nhân hóa và tự do hóa toàn bộ hoạt
động kinh tế - xã hội. Chính sách này đã phá vỡ hệ thống quản lý kinh tế thống
nhất trên toàn liên bang, đồng thời loại bỏ các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
Đảng Cộng sản Liên Xô có tư tưởng chống "cải tổ". Thay vào đó, ông đưa vào
những phần tử cơ hội có tư tưởng chống Đảng và chống chủ nghĩa xã hội. Chủ
trương này của M. Goóc-ba-chốp mở đầu quá trình tan rã Đảng Cộng sản Liên
Xô. Trong chính sách đối ngoại, Goóc-ba-chốp chấp nhận thỏa hiệp với Mỹ và
phương Tây theo chủ trương xây dựng "ngôi nhà chung châu Âu". Tuy nhiên,
điều này khiến Liên Xô đánh mất vị thế bình đẳng trên trường quốc tế. Cuối
cùng dẫn đến hậu quả cải tổ của M. Goóc-ba-chốp là sự sụp đổ của Liên Xô và
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực
tiễn chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự
phá hoại của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các
nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu
rơi vào sự khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản ở
các nước, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng.

3
Thực tiễn đó, đặt ra yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, có
Việt Nam phải tiến hành cải cách, đổi mới đất nước toàn diện.
Nhận thức rõ tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế
và sai lầm nảy sinh từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều Đảng Cộng
sản cầm quyền đã chủ động tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước và
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Bối cảnh quốc tế có những
thay đổi to lớn và toàn diện đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, đặt ra yêu cầu
đổi mới cho đất nước. Thực tiễn cho thấy các nước xã hội chủ nghĩa cần tiến
hành đổi mới để giữ vững chế độ và ổn định đời sống người dân. Dấu hiệu đổi
mới ở Việt Nam xuất hiện từ cuối những năm 70 và ngày càng rõ nét hơn cho
đến giữa những năm 80. Điều này chứng tỏ đổi mới là yêu cầu bức thiết và có
tính tất yếu đối với Việt Nam. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế
hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi
hỏi cấp bách của đất nước và thời đại.
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước
1.2.1. Thuận lợi
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1975, nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam trong năm đầu là khắc phục hậu quả chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở hai miền, hoàn thành thống nhất đất
nước về mọi mặt. 45 triệu nhân dân cả nước ta phấn khởi với thắng lợi vĩ đại của
cách mạng, tin tưởng ở đường lối đúng đắn của Đảng lãnh đạo, sẵn sàng dốc sức
xây dựng đất nước với khẩu hiệu "Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân" thể hiện
tinh thần đoàn kết, quyết tâm của toàn dân tộc. Đây là thuận lợi vô cùng to lớn,
đóng vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đất nước thống nhất, nước ta có một một sức mạnh tổng hợp to lớn về kinh
tế. Với thế mạnh của hai miền Nam - Bắc bổ sung cho nhau, chúng ta có điều
kiện để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. 45 triệu nhân
khẩu với khoảng 21 triệu lao động, trong đó có lực lượng cán bộ khoa học, kỹ
thuật và công nhân kỹ thuật khá đông đảo của cả hai miền là nguồn vốn quý báu
để xây dựng sự nghiệp kinh tế to lớn.
- Miền Bắc:

4
Sau hơn 20 năm (1954 - 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền
Bắc đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được những
cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu công nghiệp đã
phát triển hoàn chỉnh hơn, bao gồm các ngành công nghiệp nặng như điện, than,
gang thép, chế tạo máy công cụ, công nghiệp hoá chất đã sản xuất được phân
bón, thuốc trừ sâu…; công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm đã sản xuất
được vải mặc, thuốc lá, đường mật, rượu, bia, đồ hộp…Sản xuất công nghiệp
bao gồm các lực lượng quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương và hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp.
- Miền Nam:
Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, chế độ thực dân mới của Mỹ cùng bộ
máy chính quyền trung ương Sài Gòn bị sụp đổ. Nền kinh tế phát triển theo
hướng tư bản, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, các thành phố và khu công nghiệp hầu như giữ được
nguyên vẹn. Một số cơ sở sản xuất lớn với kỹ thuật khá hiện đại, phương pháp
quản lý có thể áp dụng được.
Việc thống nhất hai miền Nam - Bắc tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển
mạnh mẽ theo hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu kinh tế của Việt Nam
sau thống nhất là minh chứng cho sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản
Việt Nam và tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Uy tín của Đảng và nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được nâng cao trên trường quốc tế tạo điều
kiện thuận lợi huy động các tiềm năng, sức mạnh của con người để phục vụ phát
triển kinh tế của đất nước. Uy tín quốc tế là đòn bẩy quan trọng cho sự phát triển
kinh tế của Việt Nam. Việc tiếp tục nâng cao uy tín quốc tế và giải quyết các
thách thức sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển bền vững, hội nhập
sâu rộng và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
1.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những mặt thuận lợi còn có vô vàn những khó khăn, thử thách mà
chúng ta phải đối diện. Nền kinh tế Việt Nam khởi đầu từ một nền sản xuất nhỏ,
lạc hậu với năng suất lao động thấp. Hơn nữa còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
chiến tranh kéo dài gần 30 năm. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN đã gây ra những
tác động tiêu cực đến phong trào cách mạng trên thế giới và cách mạng Việt
Nam. Kinh tế Việt Nam sau chiến tranh gặp nhiều khó khăn, thách thức. Hai
miền phát triển không đồng đều, sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, phụ thuộc vào viện
5
trợ. Chiến tranh đã tàn phá nặng nề nhiều làng mạc, đồng ruộng, gây ô nhiễm
môi trường và ảnh hưởng đến an ninh. Hàng triệu người thất nghiệp, tỷ lệ mù
chữ cao.
- Miền Bắc:
Ở miền Bắc, cuộc chiến tranh với Mỹ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu
dài đối với miền Bắc. “Chiến tranh phá hoại của Mỹ đã phá hủy hầu hết những
cái mà nhân dân ta đã tốn biết bao công sức để xây dựng nên, làm cho quá trình
tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm”. Tuy hầu hết các
công trình bị đánh phá đã được khôi phục nhưng nhiều cơ sở sản xuất chưa được
khôi phục hoàn chỉnh, ảnh hưởng đến năng suất lao động. Một số vấn đề tiêu
cực trong quản lý kinh tế, xã hội vẫn còn tồn tại. Hơn nữa, số người bị thương
tật và trẻ mồ côi do chiến tranh gây ra khá đông. Nền công nghiệp miền Bắc có
những hạn chế đáng kể: các ngành công nghiệp nặng then chốt chưa phát triển
mạnh, thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến khả năng hiện đại hóa các ngành kinh tế
khác. Công nghiệp chưa gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp, sản xuất thiếu ổn định
và phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Việc tạo dựng thị trường cho sản
phẩm, đặc biệt là công nghiệp nặng, cũng gặp nhiều khó khăn. Trình độ quản lý
còn thấp, cộng thêm ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và chiến
tranh kéo dài, làm cho những hạn chế này càng thêm trầm trọng.
- Miền Nam:
Miền Nam sau giải phóng tuy đã thoát khỏi ách áp bức của thực dân Mỹ và
tay sai nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Nền kinh tế trong chừng
mực nhất định phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, song về cơ bản vẫn mang
tính chất của kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không
cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngoài.
Có sự phát triển nhất định của công nghiệp, tuy nhiên còn nhỏ bé, thiếu cân
đối, nhất là thiếu các ngành công nghiệp nặng. Nền công nghiệp chủ yếu tập
trung vào các ngành công nghiệp nhẹ như chế biến thực phẩm, dệt may, hóa chất
nhẹ...Thiếu các ngành công nghiệp nặng như luyện kim, cơ khí, đóng tàu... dẫn
đến sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu, máy móc và thiết bị. Công nghiệp
miền Nam được hình thành và phát triển gắn với chủ nghĩa thực dân mới của đế
quốc Mỹ nên còn nhiều những hạn chế Từ sau 1970, hàng năm, công nghiệp
miền Nam phải nhập 300 triệu USD nguyên liệu và 65 triệu USD thiết bị. Tuy
nhiên, có một số cơ sở qui mô lớn, trang thiết bị khá hiện đại và năng suất cao,
6
thiết bị có xuất xứ của Pháp, Mỹ, Đài Loan, Tây Đức… ví dụ như trong các
ngành công nghiệp điện tử và cơ khí chính xác.
Đất nước ta bị bao vây, cấm vận và chịu sự chống phá của các thế lực thù
địch. Năm 1975, sau khi Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến,
thống nhất đất nước, Mỹ mở rộng cấm vận cả nước, nhằm kiềm chế Việt Nam,
gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vốn đã kiệt quệ sau chiến tranh.
Hạn chế về tài chính, vật lực khiến cho quá trình khôi phục và phát triển đất
nước gặp nhiều khó khăn. Năm 1979, Việt Nam đã phản công quân Khmer Đỏ
nhằm bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi chế
độ diệt chủng Pol Pot. Tuy nhiên, hành động này đã bị Mỹ và các nước phương
Tây lợi dụng để vu cáo Việt Nam "xâm lược Campuchia". Hậu quả của việc này
là nước ta bị bao vây cấm vận toàn diện, cản trở gia nhập Liên hợp quốc, hòng
đẩy Việt Nam vào khủng hoảng, buộc phải chấp nhận các điều kiện áp đặt của
họ làm cho Việt Nam bị ảnh hưởng trầm trọng về kinh tế, thương mại toàn cầu,
chịu thiệt hại về tài chính cũng như các nguồn thu tài chính từ việc xuất khẩu.
Đặt ra vấn đề cấp thiết đối với Việt Nam phải thực hiện chủ trương đẩy mạnh
quan hệ ngoại giao để tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất của các nước, tổ chức
quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước nhằm mở rộng hợp tác
quốc tế và phá vỡ vòng vây cấm vận, đề cao chính sách đối ngoại độc lập, yêu
chuộng hòa bình.

7
PHẦN II: BA BƯỚC ĐỘT PHÁ KINH TẾ TRƯỚC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
2.1. Bước đột phá đầu tiên
2.1.1. Chủ trương, đường lối xây dựng, phát triển kinh tế XHCN
Đề ra đường lối chung của cách mạng XHCN ở Việt Nam: Đại hội Trung
ương 6 khoá IV (8/1979) xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới của nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt;
đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới,
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người,
xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng
cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công
Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây
dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế
với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với
các nước khác.
2.1.2. Cách thức tổ chức thực hiện
Trên lĩnh vực kinh tế: Chủ trương của Đảng tại Hội nghị Trung ương 6
khoá IV (8/1979): Khắc phục khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong
cải tạo XHCN, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, Hội
đồng Chính phủ ra quyết định (10/1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để
khai hoang, phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản
phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự
do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.

8
Trên lĩnh vực nông nghiệp: Sau thời gian thí điểm theo hình thức “khoán
chui”, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (13/1/1981) về khoán sản
phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp (Gọi tắt là
khoán 100). Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự
mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp
tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán.
Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào
quần chúng sâu rộng. Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời
kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng
tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
Trên lĩnh vực công nghiệp: Trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào
lương ở TPHCM và Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CP
(1/1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính
của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức
trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các
đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Kết quả: Đem lại kết quả tích cực
trong sản xuất. Sản lượng lương thực bình quân tăng. Sản xuất công nghiệp đạt
kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch. Những chủ trương trên
đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch,
riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
Trên lĩnh vực chính trị: Tháng 9/1980 BCHTW Đảng chỉ đạo thảo luận Dự
thảo Hiến pháp mới của nước CHXHCN Việt Nam và quyết định những biện
pháp bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp sau khi được Quốc hội
thông qua.
2.1.3. Kết quả

Về nông nghiệp:

Với hình thức khoán chui đã đem lại kết quả tích cực đó là năng xuất
tăng, tiết kiệm chi phí sản xuất cũng như thúc đẩy tính tích cực của người lao
động

Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh
chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng. Sản lượng lương thực bình quân
từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-
9
1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi
đáng kể.

Nhìn lại, sau 5 năm (1975-1981), quân dân cả nước đã giành được thành
tựu thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, chiến thắng trong hai cuộc chiến
tranh biên giới và đã khắc phục một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai liên
tiếp gây ra. Các tỉnh phía Nam đã cơ bản việc xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng
đất của đế quốc, phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiến đưa nông
nghiệp từng bước lên sản xuất lớn với các đội chuyên, làm khoán.

Về công nghiệp:

Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản
xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch
7,5%. Quyết định số 25 - CP, 26 - CP mang lại nhiều kết quả tích cực; phát huy
một bước tính chủ động sáng tạo của xí nghiệp trong việc khai thác tiềm năng
lao động thiết bị, vật tư để làm thêm sản phẩm, duy trì và thúc đẩy được sản
xuất công nghiệp trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều mất cân đối, góp phần
ổn định đời sống người lao động và ổn định đội ngũ công nhân, bảo đảm và
tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Ở một số ngành và địa phương, do nhận thức
rõ tinh thần cơ bản và tích cực thực hiện Quyết định số 25 - CP nên đã tạo ra
những chuyển biến mạnh trong sản xuất công nghiệp.

Về phân phối lưu thông:

Nghị quyết đã đề ra mục tiêu, biện pháp và các bước cụ thể của việc cải
tiến công tác phân phối lưu thông. Việc thí điểm xóa bỏ tem phiếu bù giá vào
lương, mua và bán theo giá sát với giá thị trường tại Long An đã đem lại những
kết quả tích cực trong việc lưu thông hàng hóa, giảm phiền hà cho cán bộ viên
chức. Tuy nhiên trên bình diện cả nước vẫn còn nhiều ách tắc cần phải tháo gỡ
cho nên năm 19/5/1981 bộ chính trị ra chỉ thị 09 đẩy mạnh thực hiện nghị quyết
26. Hạn chế của Nghị quyết là chủ trương khuyến khích sản xuất trước rồi trên
cơ sở sản xuất phát triển mới cải tiến công tác phân phối lưu thông. Trong khi
thực tiễn lại yêu cầu phải cải tiến công tác phân phối lưu thông để phát triển sản
xuất. Vì thế, tình hình phân phối lưu thông sau Nghị quyết 26 vẫn chưa có
chuyển biến đáng kể.
10
Đại hội đã đạt được nhiều thành tựu tuy nhiên kết quả nhìn chung đã
không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren, giá cả tăng
vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, cán bộ, công
nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số địa
phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào”,” khoán chui”. Ở miền Nam,
việc thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng...

Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai
nặng nề liên tiếp xảy ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây,
cô lập của Mỹ và các thế lực thù địch. Tuy nhiên về chủ quan, do những khuyết
điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội làm
trầm trọng thêm những khó khăn trên. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự
phê bình về những khuyết điểm và sai lầm của đó trước Đại hội V của Đảng.
2.1.4. Bài học và ý nghĩa
* Ý nghĩa

Tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6 khóa IV, trong Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và trong các Quyết định của
Chính phủ:

+ Là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, cơ bản và chưa toàn
diện, nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.

+ Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, “giải phóng
lực lượng sản xuất”, “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những
khuyết điểm trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực
cho sản xuất.

+ Chú ý kết hợp lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao
động. Đây là tư duy kinh tế ban đầu đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi
mới sau này.

* Bài học

- Cần có sự dũng cảm để đổi mới: Hội nghị Trung ương 6 đã thể hiện sự
dũng cảm khi đề ra những chủ trương, đường lối mới, khác với quan điểm
cũ.
11
- Cần phải thực hiện đổi mới một cách thận trọng:
 Cần phải thực hiện từng bước, từ từ: Không nên nóng vội, cần thực
hiện từng bước, từ từ để có thể kiểm soát được tình hình.
 Cần phải kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, tư tưởng,
văn hóa: Đổi mới kinh tế phải đi cùng với đổi mới chính trị, tư
tưởng, văn hóa.
- Cần có sự đồng thuận:
 Cần có sự đồng thuận trong Đảng: Để thực hiện thành công công
cuộc đổi mới, cần có sự đồng thuận trong Đảng về chủ trương,
đường lối.
 Cần có sự đồng thuận của nhân dân: Cần tuyên truyền, giáo dục để
nhân dân hiểu và đồng tình với chủ trương, đường lối Đổi Mới.
- Cần phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ năng lực, phẩm chất:
 Cần phải bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên về chủ trương,
đường lối Đổi Mới: Cán bộ, đảng viên cần phải hiểu rõ chủ trương,
đường lối Đổi Mới để có thể lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
 Cần phải nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên: Cán
bộ, đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong thực hiện công cuộc
Đổi Mới.
- Cần phải phát huy vai trò của nhân dân:
 Cần phải huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân: Mọi người
dân đều có thể tham gia vào công cuộc Đổi Mới.
 Cần phải lắng nghe ý kiến của nhân dân: Cần phải lắng nghe ý kiến
của nhân dân để có thể điều chỉnh chủ trương, đường lối cho phù
hợp.
2.2. Bước đột phá thứ hai
2.2.1. Chủ trương, đường lối của Đảng tại Hội nghị Trung ương 8 khoá V
(6/1985)
Trong nhiệm kỳ Đại hội V, Ban Chấp hành Trung ương đã họp 11 lần để
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, trong đó có vấn đề tổ chức lại
sản xuất, xây dựng cơ chế quản lý mới trong phân phối lưu thông, thị trường,
giá, lương, tiền. Tháng 6 - 1985, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị
lần thứ tám để bàn về vấn đề giá, lương, tiền với mong muốn đưa giá cả các mặt
12
hàng theo sát với chi phí sản xuất, sát với giá thực tế trên thị trường do tình hình
kinh tế, nhất là thị trường, giá cả vẫn tiếp tục diễn biến xấu, tiền lương thực tế
liên tục bị giảm sút. Đảng chủ trương “Dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu bao
cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ và hạch toán kinh tế, kinh doanh
XHCN thì mới đẩy mạnh được sản xuất kinh doanh…” Điểm quan trọng của
Hội nghị lần này là thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất
hàng hóa.
2.2.2. Cách thức tổ chức thực hiện
Ngày 14 tháng 9 năm 1985, cuộc tổng điều chỉnh giá lương - tiền được bắt
đầu được thực hiện theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V bắt đầu
bằng việc đổi tiền, ban hành một số giá mới và tiền lương mới, xoá bỏ hoàn toàn
giá cung cấp và chế độ tem phiếu.
Về giá, tính toán đầy đủ giá các mặt hàng Nhà nước cung cấp và giá các mặt
hàng Nhà nước mua của nông dân, thợ thủ công, xí nghiệp theo giá sát với chi
phí sản xuất. Để tiện cho tính toán, các mức giá trên được quy ra thóc. Giá thóc
được xác định bình quân là 25 đồng/kg, dựa trên giá mua thỏa thuận giữa Nhà
nước và nông dân với mức giá bình quân cao nhất ở cả 3 miền, “giá thóc mua
bình quân ở Đồng bằng Bắc bộ là 22 - 25 đồng/kg, ở miền Trung là 18 - 22
đồng/kg, ở Đồng bằng sông Cửu Long là 14 - 16 đồng/kg”. Nhà nước chỉ công
bố giá “cứng” một số vật tư quan trọng, thiết yếu như xăng, dầu, xi măng, sắt
thép, với giá cao hơn khoảng 10 lần so với giá cũ.
Về lương, xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương tiền tệ gắn
với xóa bỏ bao cấp. Chế độ tiền lương phải đảm bảo cho người lao động tái tạo
sức lao động và gắn với chất lượng và hiệu quả lao động. Người lao động, công
nhân viên chức được tăng 20% để thay cho việc cung cấp với giá bao cấp một số
hiện vật.
Về tiền, cuộc thu đổi tiền ngày 14/9/1985 hoàn thành theo đúng kế hoạch.
Mục đích của đổi tiền nhằm giảm bớt số lượng tiền trong lưu thông (được cho là
nguyên nhân gây lạm phát); điều chỉnh một phần thu nhập của một số người làm
ăn bất chính (được cho là tác nhân quan trọng làm rối loạn thị trường). Một số
nội dung trong Quyết định số 02-HĐBT/TĐ ngày 13/9/1985 của Hội đồng Bộ
trưởng về mức tiền mặt được đổi sẽ cho ta thấy rõ hơn chủ đích của lần đổi tiền
này:
- 10 đồng tiền cũ đổi được 1 đồng tiền mới.
13
- Mỗi hộ gia đình được đổi ngay tối đa 2.000 đồng tiền mới.
- Mỗi hộ độc thân, mỗi người trong hộ tập thể (đơn vị bộ đội, công an, công
nhân, viên chức, học sinh...) được đổi ngay tối đa 1.500 đồng tiền mới.
- Mỗi hộ kinh doanh công thương nghiệp có môn bài bậc cao (1 và 2) được
đổi ngay tối đa 5.000 đồng tiền mới.
Đối với số tiền vượt mức đổi ngay thì chuyển vào thành tiền ngân hàng, sẽ
xem xét giải quyết sau.
Việc xử lý số tiền mặt trên mức đổi ngay quy định như sau:
- Cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội, công an, nhân dân lao động có số
tiền mặt trên mức đổi ngay thì tiếp tục đổi tại Ngân hàng trong thời hạn
một tháng kể từ ngày thu đổi tiền.
- Số tiền mặt trên mức đổi ngay của các hộ kinh doanh công thương nghiệp
thì chuyển vào tài khoản tiền gửi ngân hàng để sử dụng vào việc kinh
doanh, theo chế độ đăng ký vốn kinh doanh và quản lý tiền mặt của Ngân
hàng.
2.2.3. Kết quả
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này về giá - lương - tiền là kết quả rút
ra từ thực tiễn và kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua,
thể hiện sự chuyển hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương, chính sách của
Đảng ta không những về giá cả, tiền lương mà cả về thương nghiệp, tài chính,
tiền tệ, về cơ chế kế hoạch hoá và quản lý kinh tế, nhằm triệt để xoá bỏ quan
liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta phát triển lên một bước
mới. Tuy nhiên, những gì diễn ra sau đó là một bức tranh không mấy sáng sủa.
Mục đích của tổng điều chỉnh giá - lương - tiền không những không đạt mà còn
làm cho hoạt động trên thị trường phức tạp hơn. Vòng xoáy điều chỉnh giá -
lương - tiền khiến siêu lạm phát bùng nổ tới 3 con số, đạt đỉnh 774,5% vào năm
1986, xuống mức 2 con số vào năm 1990, tiếp tục kéo dài đến năm 1993 mới
quay trở về mức một con số. Do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã
dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy
lên tốc độ phi mã. Ðầu năm 1986, lại phải lùi một bước: Quay trở lại thực hiện
chính sách hai giá.
- Thành tựu:

14
 Xoá bỏ cơ chế tập trung quản lý hành chính bao cấp: Đây là một
bước đột phá quan trọng, giúp giảm quá tải cho các cơ quan quản lý
và tạo điều kiện cho sự phát triển linh hoạt hơn.
 Chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa: Điều
này đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và tạo ra sự
cạnh tranh trong nền kinh tế.
- Hạn chế:
 Những sai lầm như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương
trong tình hình chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt. Hậu quả lớn
nhất của cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương, lần này đã làm cho cuộc
khủng hoảng
 Chưa thực sự giải quyết vấn đề kế hoạch hóa kinh tế: Mặc dù đã có
những bước tiến, nhưng việc kế hoạch hóa vẫn còn đối mặt với
nhiều khó khăn.
2.2.4. Bài học và ý nghĩa
* Bài học
Hội nghị Trung ương 8 khóa V diễn ra vào tháng 6 năm 1985 đã để lại nhiều
bài học quý giá cho Đảng trong quá trình đổi mới đất nước:
Bài học thứ nhất về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện: Trong lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn,
hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi
nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm
nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ
của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất
lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Bài học thứ hai, Chỉ ra được nguyên nhân sâu xa của “sự trục trặc” trong công
cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền năm 1985 là thực tiễn kinh tế và đời sống lúc
đó chưa chịu đựng nổi những cú sốc của cuộc cải cách. Đó là thực tiễn đã quen với căn
bệnh bao cấp từ nhiều thập kỷ, không dễ chấp nhận một liều thuốc mới của cơ chế thị
trường.
* Ý nghĩa
Việc đổi mới chính sách giá, lương và cơ chế quản lý kinh tế là sự thay đổi lớn
có ý nghĩa cách mạng. Sự đổi mới trong tư duy của Đảng: Công cuộc điều chỉnh giá,
tiền lương đã đi đến ngõ cụt, Đảng đã nhận thức rõ những hạn chế và sai lầm trong quá
15
trình thực hiện chính sách, điển hình là cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền để làm
tiền đề cho những cuộc cải cách về giá - lương - tiền sau này. Thấy rõ quá trình trưởng
thành của Đảng, nhìn nhận thực tế và đưa ra, đi đến những quyết định vô cùng đúng
đắn, sáng suốt, mang lại lợi ích to lớn và lâu dài. Đánh dấu Đảng, nhân dân, nhà nước
ta trưởng thành, hoàn thiện lên từng bước.
2.3. Bước đột phá thứ ba
2.3.1. Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế XHCN
Chủ trương của Đảng tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986): đưa ra kết
luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế. Đó là xác định rõ cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần gồm “kinh tế quốc doanh”; “kinh tế tập thể”; kinh tế
gia đình”; “tư bản tư doanh”; “công tư hợp danh”; “tiểu sản xuất hàng hoá”; “tư
bản tư nhân”; “kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc”
Hội nghị cho rằng, một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển ổn
định, và việc bố trí cơ cấu ngành kinh tế, sản xuất, đầu tư là những vấn đề quan
trọng hàng đầu. Ta cũng đã xác định rõ trong chặng đường dầu tiên của thời kỳ
quá độ tại mục tiêu trong Đại hội lần thứ V là “lấy nông nghiệp làm mặt trận
hàng đầu, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ và vừa”. Đó là quan điểm đúng
đắn, nhưng chúng ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu
kinh tế, đầu tư và không thực hiện được những mục tiêu tại Đại hội V đã đề ra;
chúng ta muốn đi nhanh nhưng lại thành đi đường vào và kéo dài thời gian ở
chặng đường đầu tiên. Hội nghị chỉ rõ ra rằng, ta đã chủ quan, nóng vội trong 5
năm (1976-1980) khi đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và nhịp độ. Hậu
quả là “sản xuất dẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm, chi phí sản xuất
tăng cao, kinh tế - xã hội càng không ổn dịnh”. Trong 5 năm sau đó, ta đã tập
trung hơn vào những công trình trọng điểm nhưng về căn bản vẫn do dự và chưa
điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế được phù hợp.
Bên cạnh đó, do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát
triển.

16
2.3.2. Cách thức tổ chức thực hiện
Về cơ cấu sản xuất: Cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư và sản xuất theo hướng
thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ,
việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú
trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu
cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực
lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba chương trình quan trọng
nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
Về cải tạo XHCN: Cần phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp
trên quy mô cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những
bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến
lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự cần
thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo
thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay
đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi
bước phát triển của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong
một thời gian ngắn là xong.
Về cơ chế quản lý kinh tế: Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh
doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới cơ chế kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát
huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng
đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa-tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế
có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành
chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung
ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn
lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
2.3.3. Kết quả
Bước đột phá thứ ba là kết quả của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu
tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ trên lĩnh vực kinh tế. Nó trở thành cơ
sở quan trọng cho việc hình thành đường lối đổi mới kinh tế tại Đại hội VI
(1986). Sau khi triển khai thành công chủ trương đổi mới kinh tế và mở cửa đối
ngoại, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể:
17
 Về cơ cấu sản xuất:

Hội nghị thấy rõ sự cần thiết phải tập trung lực lượng và vốn vào ba
chương trình quan trọng nhất: lương thực, thực phẩm, và hàng xuất khẩu. Từ đó
xuất khẩu trở thành động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong giai đoạn này.

Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 72 tỷ USD,
tăng gấp hơn 4 lần so với năm 2001. Bên cạnh đó, tăng thêm 456 nghìn kilôoát
điện; 2,5 triệu tấn than; 2,4 triệu tấn xi-măng; 33 nghìn tấn sợi; 58 nghìn tấn
giấy; thêm 309 nghìn hécta được tưới nước, 186 nghìn héc-ta được tiêu úng, 241
nghìn héc-ta được khai hoang đưa vào sản xuất; dầu mỏ bắt đầu được khai thác.
Các công trình thủy điện Hoà Bình, Trị An đang được xây dựng, chuẩn bị đưa
vào hoạt động trong những năm tới.

 Về cải tạo XHCN:

Nhận thức được khuyết điểm của quá trình cải tạo trước đó, Hội nghị đã
phản ánh sự nhận thức đúng đắn về cách cải tạo xã hội chủ nghĩa không thể diễn
ra một cách đột ngột hay trong thời gian ngắn. Trách nhiệm người đứng đầu
được đề cao gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị để
thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước

Kết quả đạt được không chỉ là sự thay đổi về chính sách mà còn là sự thay
đổi tư duy, đặt lợi ích của người lao động và phát triển sản xuất lên hàng đầu.
Đường lối đổi mới đã đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản
lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời
kỳ mới cho sự phát triển của đất nước. Từ đó giúp nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.

 Về cơ chế quản lý kinh tế:

Thay đổi kế hoạch hóa và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa-tiền tệ là
chìa khóa để tạo động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ đó, rút ra được
các đặc điểm quan trọng như tự chủ của đơn vị kinh tế, phân biệt chức năng
quản lý hành chính và chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh. Điều này giúp

18
tạo ra một hệ thống linh hoạt và có động lực, giúp Trung ương và địa phương
hoạt động hiệu quả hơn trong quản lý kinh tế.

Nhờ đó mà nền kinh tế ổn định và nhanh chóng. Nền kinh tế nước ta trong
nhiều năm trở lại đây đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tốc độ tăng trưởng
kinh tế nước ta, tuy có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung
bình khu vực và thế giới với mức tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Từ
năm 2001 đến 2010, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đã tăng từ
khoảng 27 tỷ USD lên hơn 100 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng
năm đạt khoảng 7%, đóng góp vào việc nâng cao đời sống và mức sống của
người dân Việt Nam

2.3.4. Bài học và ý nghĩa


- Bài học
 Quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
 Luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan.
 Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện
mới.
 Chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN.
- Ý nghĩa
Nội dung của hội nghị mang tính đột phá, là bước quyết định cho sự ra đời
đường lối đổi mới kinh tế của Đảng. Đường lối đổi mới được đề ra từ đại hội V
nhằm khắc phục khó khăn, sửa chữa sai lầm vượt qua khủng hoảng cùng với
công cuộc đổi mới đã và đang giành được thắng lợi. Thắng lợi đó đã từng bước
đưa đất nước quá độ lên XHCN, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là
đúng, bước đi của công cuộc đổi mới là phù hợp.

19
PHẦN III. NHẬN XÉT CHUNG
Những kết luận ở trên là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử
nghiệm và đấu tranh giữa quan điểm mới và cũ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh
tế. Cuối cùng, những quan điểm mới được trình bày nhằm mục đích soạn thảo
Báo cáo chính trị trình lên khóa VI của Đảng thay vì dự thảo báo cáo chính trị
trước đó vẫn giữ nhiều quan điểm cũ không thích hợp với yêu cầu trước mắt
vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng bộ
khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất đất
nước vì lợi ích của nhà nước; đạt được những thành công quan trọng trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; Chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn
20
trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Những thành tựu
đạt được đã tạo ra nhân tố mới cho cách mạng nước ta tiếp tục hoàn thành các
mục tiêu kinh tế - xã hội của Đại hội IV và V. Đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội dai dẳng; sản xuất tăng chậm và thất thường, nền
kinh tế luôn khan hiếm, không có tích lũy, lạm phát cao và kéo dài. Đất nước bị
bao vây, cô lập, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, lòng tin vào đảng và nhà
nước bị hạn chế nghiêm trọng. Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng
kinh tế - xã hội là bởi xây dựng đất nước từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu,
sản xuất nhỏ tràn lan, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, viện trợ từ nước ngoài
giảm sút nghiêm trọng.

Hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa hàn gắn, cuộc chiến tranh
biên giới ở hai đầu đất nước lại nảy sinh những khó khăn mới, chủ quan là do
Đảng sai lầm trong cách đánh giá, nhận định tình hình, sai sót trong tổ chức cơ
cấu kinh tế; những sai sót trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân
phối và lưu thông; duy trì cơ chế tập trung, quan liêu, nới lỏng chế độ độc tài
của giai cấp vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và chống âm mưu, thủ
đoạn phá hoại nhiều mặt của kẻ địch. Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn
qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị bất
thường bầu đồng chí Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư của Đảng và chuẩn bị
mọi mặt cho Đại hội VI của Đảng. Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-
1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá trình khảo
nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân để
hình thành đường lối đối mới.

Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những
nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần
thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động – đó là quan tâm đến lợi
ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,… Những tư duy đổi
mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản
và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước
phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.

21
KẾT LUẬN
Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam,
công cuộc đổi mới kinh tế đã được khởi xướng, mở ra một thời kỳ mới đầy tiềm
năng cho đất nước. Đây là một bước ngoặt lịch sử quan trọng, đánh dấu sự
chuyển mình mạnh mẽ của Việt Nam từ nền kinh tế bao cấp, tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình đổi mới kinh tế không diễn ra đột ngột mà là kết quả của học tập,
nghiên cứu và thực tiễn sáng tạo. Trước Đại hội VI (1986), Đảng đã có những
bước đột phá quan trọng trong tư duy đổi mới kinh tế, góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và chuẩn bị nền móng cho quá trình
22
đổi mới toàn diện sau này. Kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt, vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao và
trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Những thắng lợi bước đầu đó được Đảng ta từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa
đường lối đổi mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm
1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng
của Đảng qua các kỳ Đại hội. Những thành công to lớn trong công cuộc đổi mới
kinh tế đất nước sau gần 40 năm đã chứng minh định hướng, chủ trương và
phương thức đổi mới của Đảng là đúng đắn. Mặt khác, những thành công đó đã
cho thấy khả năng lãnh đạo đất nước xoay chuyển tình thế, kịp thời thích nghi
với bối cảnh chính trị - kinh tế mới của quốc tế nhưng vẫn giữ được những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, quá trình đổi mới cũng còn tồn tại
một số hạn chế và bất cập. Một số vấn đề như tham nhũng, lãng phí, bất bình
đẳng xã hội vẫn còn là thách thức lớn cần được giải quyết.
Công cuộc đổi mới là một quá trình lâu dài, phức tạp và đầy thử thách. Để
tiếp tục phát triển đất nước, Đảng và nhân dân ta cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, nhất là đổi mới tư duy, đổi mới mô
hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập sâu rộng vào quốc
tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất nước
(hcmcpv.org.vn)
3. Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tại Lễ kỷ niệm 90
năm Ngày thành lập Đảng (baoquocte.vn)
4. Bối cảnh và nguyên nhân dẫn đến công cuộc Đổi Mới ở Việt Nam, Báo
Nhân dân, 2023.

23
5. Nhìn lại quá trình cải cách, cải tổ ở Liên Xô và những bài học đối với
công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Tạp chí cộng sản, 2021
6. Cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1985. Tạp chí công thương
7. Đổi mới bắt đầu từ đâu? (nhandan.vn)
8. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V)
về giá - lương - tiền (tulieuvankien.dangcongsan)

BẢNG PHÂN CHIA NHIỆM VỤ VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN

STT Mã sinh Họ và tên Nhiệm vụ Điểm


viên

81 21D191127 Nguyễn Phúc Thịnh Powerpoint

82 21D191128 Đặng Hoài Thu Bước đột phá thứ ba

24
83 21D191160 Hoàng Thị Thu Powerpoint

84 21D191129 Giáp Thị Thủy Bối cảnh lịch sử + Kết


luận

85 21D191192 Lê Thanh Thúy Bước đột phá đầu tiên

86 21D191161 Phạm Thị Thúy Bước đột phá đầu tiên

87 21D191193 Trần Thị Hồng Thúy Bước đột phá thứ hai +
Tổng hợp và chỉnh sửa
Word

88 21D191130 Nguyễn Thị Thư Bước đột phá thứ ba,


(Nhóm trưởng) nhận xét chung.

Thuyết trình.

89 21D191162 Lê Thùy Trang Bước đột phá thứ hai

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
***

BIÊN BẢN THẢO LUẬN


(Lần 1)

Hà Nội, ngày 25 tháng 01 năm 2024


Nhóm: 09
25
Địa điểm họp: Google Meet
Thời gian họp: 21:00 – 23:00
Nội dung họp: Xây dựng đề cương bài thảo luận và phân chia công việc
Thành viên tham gia: đầy đủ 9 thành viên tham gia
I. Nội dung cuộc họp:
- Họp nhóm lên ý tưởng xây dựng đề cương bài thảo luận
- Phân chia công việc xây dựng đề cương cho các thành viên và định hướng
triển khai đề tài
II. Tổng kết:
- Các thành viên có mặt đầy đủ và tích cực góp ý cho bài thảo luận
- Các thành viên nhóm bắt đầu tiến hành hoàn thành nhiệm vụ được giao

Nhóm trưởng
Thư
Nguyễn Thị Thư

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
***

BIÊN BẢN THẢO LUẬN


(Lần 2)

Hà Nội, ngày 19 tháng 02 năm 2024


Nhóm: 09
26
Địa điểm họp: Google Meet
Thời gian họp: 22:00 – 23:00
Nội dung họp: Chỉnh sửa và thống nhất đề cương bài thảo luận, phân chia công
việc cho các thành viên
Thành viên tham gia: đầy đủ 9 thành viên tham gia
I. Nội dung cuộc họp:
- Chỉnh sửa và thống nhất đề cương bài thảo luận
- Phân chia công việc làm Word, Powerpoint và thuyết trình
II. Tổng kết:
- Các thành viên có mặt đầy đủ và tích cực góp ý cho bài thảo luận
- Các thành viên nhóm bắt đầu tiến hành hoàn thành nhiệm vụ được giao

Nhóm trưởng
Thư
Nguyễn Thị Thư

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
***

BIÊN BẢN THẢO LUẬN


(Lần 3)

Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2024


Nhóm: 09
27
Địa điểm họp: Google Meet
Thời gian họp: 22:00 – 0:00
Nội dung họp: Thống nhất nội dung báo cáo
Thành viên tham gia: đầy đủ 9 thành viên tham gia
I. Nội dung cuộc họp:
- Thảo luận thống nhất bài báo cáo
- Giải đáp thắc mắc của các thành viên về nội dung bài
II. Tổng kết:
Các thành viên có mặt đầy đủ và tích cực góp ý để hoàn thiện bài thảo luận

Nhóm trưởng
Thư
Nguyễn Thị Thư

28

You might also like