You are on page 1of 43

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

– – – —˜&™–– – –

BÀI THẢO LUẬN

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU THÀNH TỰU ĐỔI MỚI


TRÊN LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

Nhóm thực hiện: 04


Lớp học phần: 2161HCMI0131
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lan Phương

HÀ NỘI – 2021
MỤC LỤC
PHẦN 1.MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
PHẦN 2: NỘI DUNG..................................................................................................3
A. Bối cảnh lịch sử và nội dung con đường đối ngoại..............................................3
I. Đường lối đối ngoại từ năm 1975 đến năm 1986...................................................3
1. Hoàn cảnh lịch sử....................................................................................................3
2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng................................................................4
II. Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới.......................................5
1. Hoàn cảnh lịch sử....................................................................................................5
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế......................................7
B.Thành tựu đổi mới trên lĩnh vực hội nhập quốc tế của Việt Nam....................13
I.Kinh tế.....................................................................................................................13
II.Chính trị.................................................................................................................17
III.Văn hoá xã hội......................................................................................................20
IV.Khoa học – Công nghệ.........................................................................................21
V.Giáo dục- Đào tạo..................................................................................................22
VI.Quốc phòng an ninh.............................................................................................25
VII.Các lĩnh vực khác...............................................................................................30
C.Đánh giá.................................................................................................................34
PHẦN 3: KẾT LUẬN...............................................................................................41

1|Page
PHẦN 1.MỞ ĐẦU
Đối ngoại đa phương đang ngày càng trở thành xu thế nổi bật trong quan hệ
quốc tế hiện nay, và đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị - kinh tế - đối
ngoại của thế giới. Công tác đối ngoại góp phần quan trọng trong giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển; phối hợp chặt chẽ với quốc phòng-an ninh
góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đưa quan hệ với các
nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các đối tác chủ chốt, bạn bè truyền thống
đi vào chiều sâu; nâng tầm đối ngoại đa phương; chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế.

Nắm bắt được tầm quan trọng của công tác đối ngoại, kể từ khi Đổi mới đến
nay, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao.
Những bước phát triển, hoàn thiện nhận thức và tư duy mới về đối ngoại trong quá
trình đổi mới đã trở thành tiền đề để Đảng ta xây dựng và ngày càng hoàn chỉnh
đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Trong 35 năm Đổi mới, với sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, công tác đối ngoại đã góp phần không
nhỏ vào sự phát triển của kinh tế, xã hội, chính trị Việt Nam, giúp nâng tầm vị thế
của đất nước ta trên trường quốc tế.

Có thể nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa, lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc
tế của nước ta đã và đang đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Chính vì vậy, để có thể
hiểu rõ hơn về công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng như thấy
được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực đối ngoại của đất nước, nhóm 4 chúng
em đã thảo luận và nghiên cứu về đề tài “Tìm hiểu thành tựu của Việt Nam trên
lĩnh vực đối ngoại trong thời kỳ đổi mới”. Bài thảo luận chủ yếu tập trung vào
thành tựu đối ngoại của Việt Nam thông qua tiến trình hội nhập quốc tế. 

2|Page
PHẦN 2: NỘI DUNG
A. Bối cảnh lịch sử và nội dung con đường đối ngoại 
I. Đường lối đối ngoại từ năm 1975 đến năm 1986 
1. Hoàn cảnh lịch sử 
a. Tình hình thế giới

Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh; Nhật
Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế
chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn. Với
thắng lợi của cách mạng Việt Nam (năm 1975) và các nước Đông Dương, hệ thống
xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển
mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn
mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân đang trên đà phát triển mãnh liệt. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 70 của
thế kỷ XX, tình hình kinh tế – xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì
trệ và mất ổn định. Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng có những chuyển biến
mới. Sau năm 1975, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO tan rã;
tháng 2-1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á
(Hiệp ước Bali), mở ra cục diện hoà bình, hợp tác trong khu vực.

a. Tình hình trong nước

Thuận lợi: Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình,
thống nhất, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa
giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một
số thành tựu quan trọng . Đây là những thuận lợi rất cơ bản của cách mạng nước ta.

Khó khăn: Trong khi nước ta đang phải tập trung khắc phục hậu quả nặng nề
của ba mươi năm chiến tranh, lại phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn
thâm độc chống phá cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-
1982) nhận định “ nước ta đang ở trong tình thế vừa có hoà bình vừa phải đương
đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Ngoài ra, do tư tưởng chủ quan,
nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, đã dẫn
đến những khó khăn về kinh tế – xã hội. Những thuận lợi, khó khăn từ tình hình
thế giới và trong nước ở giai đoạn này đã ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây
3|Page
dựng, phát triển đất nước và tác động tới việc hoạch định đường lối đối ngoại của
Đảng.

2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng

a. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định:


Nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi
để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ
trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả
các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào – Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam
với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có
lợi.Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại
như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô là hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối
quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức
tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung
lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
b. Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) xác định:

Công tác đối ngọi phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu
tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá
cách mạng nước ta. Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết
và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn
đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc;
kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương
lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà
bình và ổn định; chủ chương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên
cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan
hệ bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật với tất cả
các nước không phân biệt chế độ chính trị. Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975 - 1986) là xây dựng quan hệ hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; cũng cố và tăng cường đoàn
kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không
liên kết và các nước đang phát triển; đấu tranh với sự bao vây cấm vận của các thế
lực thù địch.

4|Page
II. Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới
1. Hoàn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX: Từ những năm 1980
cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ tác động sâu sắc đến mọi
mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng sâu sắc, điển hình là ở Liên Xô chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ (năm
1991) mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới. Những nước đang phát
triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế… thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân
sự, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.

Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng (1/2016) nhận định: “Quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng” .

Những tác động tích cực của toàn cầu hóa: Trao đổi hàng hóa tăng mạnh đã
thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm quản lí cùng các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các
bên tham gia hợp tác. Mặt khác toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau,
nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường
hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.

Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa: Tạo nên sự bất bình đẳng trong
quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo. Đại
hội XI của Đảng nhận định: “ Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô,
mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và
thách thức đan xen phức tạp”.

Thực tế cho rằng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị tụt hậu, kém phát triển thì
phải tích cực chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, đồng thời phải có bản
lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.

Tình hình khu vực Châu Á- Thái Bình Dương:

Từ những năm 1990 có những chuyển biến mới: trước hết trong khu vực tuy
vẫn tồn tại những bất ổn như vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển,
đảo, tài nguyên và việc một số nước trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng
5|Page
Châu Á- Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định; và là một nơi có
tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong
khu vực phát triển mạnh.

Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:

Vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến
tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc
tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với
nước ta. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn
lực trong nước, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở rộng
và tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa
phương có ý nghĩa quan trọng.

Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định
chủ trương chính sách đối ngoại thời kì đổi mới

Các giai đoạn hình thành và phát triển đường lối

Giai đoạn 1986- 1996: xác lập đường lối đối ngoại đọc lập tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) nhận định: “ xu
thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế -
xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”.

Bộ Chính trị ra Nghi quyết số 13 về nhệm vụ và chính sách đối ngoại trong
tình hình mới (5/1988) đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển
hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyển hướng này đã đặt nền
móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) đề ra chủ trương “
hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” với phương
châm “ Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

6|Page
Giai đoạn 1996-2011: bổ sung và phát triển dường lối đối ngoại theo phương
châm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đề ra chủ trương “ xây dựng nền kinh tế
mở” và “ đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thê giới”.

Cảm nhận đầy đủ “Lực” và “thế” sau 15 năm đổi mới Đại hội IX (4/2001)
của Đảng đã phát triển phương châm của Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006) Đảng nêu quan điểm: “chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.

2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
a. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ
hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó Đảng
xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại.
  Cơ hội và thách thức:
Về cơ hội: Xu thế hòa bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế
tạo thuận lợi cho nước ta mờ rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế.
Mặt khác, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên
trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thách thức: Những vấn đề toàn cầu như phân hóa giàu nghèo, dịch bệnh,
tội phạm xuyên quốc gia... gây tác động bất lợi đối với nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản
phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác
động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn,
thậm trí khủng hoảng kinh tế - tải chính.
Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hóa, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài "dân
chủ", "nhân quyền" chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước
ta.
Những cơ hội và thách thức nêụ trên có mốỉ quan hệ, tác động qua lại, có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tùy thuộc vào khả
năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế vàlực mới để vượt qua thách
thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có
thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức
tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu còn tùy thuộc và khả năng và nỗ
lực của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên

7|Page
nhanh trước sức ép của các thách thức thì không những sẽ vượt qua được thách
thức, mà còn có thể biến thách thức thành động lực phát triển.

Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại:


Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất
của Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác đinh nhiệm vụ
của công tác đối ngoại là: "giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới". Mở
rộng đối ngoại và hội nhập quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn
lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Tư tưởng chỉ đạo:


Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc
các quan điểm:
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công vả bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng
của Việt Nam.
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc
đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với
từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh, trực diện đối đàu, tránh để bị đẩy vào thế
cô lập.
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không
phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác với khu vực;
chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc;
bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trinh hội nhập quốc tế.
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả
các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.

8|Page
Bảo đàm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng an ninh".

b. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế.
Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa X (tháng 2-2007) đã đề ra một số chủ trương, chính
sách lớn như:
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền
vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị
bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách
thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện
thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc
tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ
động và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng các ưu
đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và
tích cực nhimg phải hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường theo một lộ
trình hợp lý.
-  Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với
các nguyên tắc, quy định của WTO: Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật;
đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự
hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các
sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy
nhà nước: kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy
mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện
công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong
hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu
hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh
nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng đắn chiến
lược sản phẩm và thị trường; điểu chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện
pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XII

9|Page
 Bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội
chủ nghĩa.

Chúng ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc
gia; phá vỡ thế bao vây, cấm vận thời kỳ đầu khi thực hiện Cương lĩnh; bình
thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước; tạo lập và giữ vững
môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát
triển; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững.

 Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu.

Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên
thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
chế độ chính trị, tiếp tục từng bước đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào
chiều sâu, ổn định hơn. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc
gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước, quan hệ
đối tác toàn diện với 13 nước. Về đối ngoại Đảng, Đảng ta đã thiết lập quan hệ với
254 chính đảng ở 114 quốc gia trên toàn thế giới; nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống
chính trị khu vực và thế giới.

 Củng cố và tăng cường quan hệ với các nước.

Với các nước láng giềng, quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam -
Lào tiếp tục được củng cố và có những bước phát triển, ngày càng mở rộng và đi
vào chiều sâu, thiết thực. Quan hệ Việt Nam - Campuchia được củng cố và tăng
cường về nhiều mặt. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có những bước phát triển,
nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại.

Đối với các nước trên thế giới, Việt Nam đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Mỹ,
đưa quan hệ Việt Nam - Mỹ không ngừng tiến triển; quan hệ kinh tế phát triển
nhanh, quan hệ an ninh, quân sự từng bước được thiết lập; hợp tác khoa học - kỹ
thuật, giáo dục, y tế không ngừng mở rộng. Việt Nam đưa quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện với Liên bang Nga đi vào hoạt động thực chất, hiệu quả, cùng có
lợi. Việt Nam cũng thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản
bằng những hành động cụ thể. Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác với Ấn Độ, đưa
quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước đi vào chiều sâu, thúc đẩy hợp tác trên
nhiều lĩnh vực. Việt Nam đẩy mạnh hợp tác với Liên minh châu Âu (EU), chủ

10 | P a g e
động tham gia hợp tác với EU trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM).

Đối với hợp tác khu vực, Việt Nam chủ động tham gia việc liên kết khu vực
Đông Á; tích cực tham gia và đóng góp hiệu quả cho việc hình thành Cộng đồng
ASEAN, tạo dựng hình ảnh Việt Nam là thành viên tích cực trong nhận thức của
các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế. Việt Nam tham gia tích cực, có trách
nhiệm các định chế đa phương quốc tế, như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Liên hợp quốc và các tổ
chức thành viên để nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế đối với Việt Nam.

Hội nhập quốc tế sâu rộng.

Chủ động, tích cực tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế khu vực, đặc
biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế,
các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến, khai thác
hiệu quả các thỏa thuận đã được ký kết, đặc biệt là các thỏa thuận về khu vực mậu
dịch tự do. Việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế
góp phần thiết thực cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đại hội XIII đã khẳng định rõ Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển:
● Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là bước
phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, vừa là sự nhìn
nhận vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm vụ rất nặng
nề cho giai đoạn tới
● đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng và cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia – dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là
kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không
những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một trong
những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng
phát triển của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc
vị kỷ, hẹp hòi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên

11 | P a g e
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi
● Đại hội nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo
đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra
sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế.
Như vậy, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” ngày
càng đầy đủ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận thức về “quốc tế hóa” đã phát
triển thành nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” và đi đến nhận thức về “toàn cầu
hóa”. Trên cơ sở thực tiễn về “toàn cầu hóa”, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ
trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” và
ngày nay là chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, “nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa,
xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”.

12 | P a g e
B. Thành tựu đổi mới trên lĩnh vực hội nhập quốc tế của Việt Nam
I. Kinh tế   

           Nguồn: VN Express 

13 | P a g e
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.

- Tham gia nhiều hiệp định thương mại: Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan
hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015
và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay,
đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường,
trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.

Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song
phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam
tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP
chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác
kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế
giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ
mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...

Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong
các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ
chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và
vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó,
Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc,
như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của
UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc
(ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018.

Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA.
Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng
nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

- Tăng trưởng kinh tế rõ rệt: Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc
độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 -

14 | P a g e
1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn
1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau
đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân
6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-
19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng
trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Quy mô nền kinh tế được mở rộng đáng kể,
GDP đạt khoảng 262 tỷ USD vào năm 2019, tăng 18 lần so với năm đầu đổi
mới, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.800 USD/người và thuộc các
nước có mức thu nhập trung bình trên thế giới. Chất lượng tăng trưởng được
nâng cao, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên
5,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30
đến 35%).

Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân
cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu
người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.

- Kinh tế ổn định, cơ cấu nền kinh tế dịch chuyển tích cực: Kinh tế vĩ mô cơ bản
được giữ ổn định, các thị trường vận hành thông suốt tạo điều kiện cho người
dân và doanh nghiệp (DN) tập trung sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ lạm phát dần
được kiểm soát từ mức ba chữ số những năm đầu của thời kỳ đổi mới xuống
mức mục tiêu 4% trong suốt giai đoạn 2016 - 2020. Các thị trường vốn và tiền
tệ có bước phát triển mạnh mẽ, hoạt động thông suốt và dần ổn định hơn. Tín
dụng tăng trưởng tốt, là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế tới các hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Thị trường ngoại tệ được quản lý linh hoạt, tình
trạng đô-la hóa giảm dần qua các năm, quỹ dự trữ ngoại hối tăng cao, niềm tin
của người dân vào đồng nội tệ được củng cố vững chắc.

Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực và phù hợp hơn với mô hình
tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế dịch chuyển theo hướng hiện đại, tỷ trọng ngành
công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, trở thành động lực tăng trưởng chính, trong khi
tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống. Không chỉ cơ cấu kinh tế thay đổi mà cơ
cấu nội ngành cũng dịch chuyển phù hợp trình độ phát triển của nền kinh tế.

15 | P a g e
- DN được tạo điều kiện phát triển: Nhiều động lực tăng trưởng mới được xây
dựng bên cạnh khu vực DN nhà nước và khu vực DN có vốn đầu tư nước
ngoài. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, số DN thành lập mới tăng nhanh cả về
số lượng và vốn đăng ký, làn sóng khởi nghiệp sáng tạo lan tỏa rộng với nhiều
mô hình kinh doanh độc đáo, có hiệu quả. Nguồn nhân lực có kỹ năng, được
đào tạo bài bản, có khả năng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh
được chú trọng phát triển, tạo tiềm lực phát triển kinh tế hiện đại trên nền tảng
khoa học - công nghệ. Hệ thống hạ tầng quốc gia được tập trung nguồn lực xây
dựng một cách đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị
lớn. Bộ máy Chính phủ thực hiện tốt vai trò Chính phủ kiến tạo, nỗ lực xóa bỏ
nhiều thủ tục hành chính rườm rà, tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư thuận
lợi để tập trung, chuyển hóa nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế vào phát
triển kinh tế - xã hội.
- Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân: Tiêu dùng nội địa và đầu tư tiếp tục
trở thành hai trụ cột quan trọng của nền kinh tế. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
dịch vụ trong nước tăng liên tục, riêng giai đoạn 2011 - 2019 tăng trung bình
khoảng 12,8%. Với sự phát triển của khoa học - công nghệ, thị trường bán lẻ
thay đổi dần từ kênh bán hàng truyền thống sang kênh bán hàng hiện đại, các
DN linh hoạt thích ứng sự thay đổi về hành vi mua sắm và thị hiếu của người
tiêu dùng, trong đó hình thức mua sắm trực tuyến ngày càng được ưa chuộng.
Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh, đầu tư khu vực
ngoài nhà nước tăng nhanh và chất lượng, hiệu quả được cải thiện. Vốn đầu tư
phát triển giai đoạn 2011 - 2020 đạt gần 15 triệu tỷ đồng, tăng bình quân
10,6%/năm. Vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đạt 20,8% tổng
đầu tư xã hội, tập trung cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng
điểm. Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh từ 36% năm 2010
lên 46% năm 2020. Nhiều tập đoàn, DN tư nhân đã tham gia đầu tư, hoàn
thành nhiều công trình có ý nghĩa to lớn, nâng cao năng lực cạnh tranh. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh với nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ
cao, đem lại nhiều cơ hội hợp tác sản xuất, kinh doanh và chuyển giao công
nghệ cho khu vực kinh tế trong nước.
- Môi trường kinh doanh cởi mở, ưu tiên nhà đầu tư: Môi trường kinh doanh
trong nước được cải thiện, năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng cao. Quyền
tự do, bình đẳng trong kinh doanh, tiếp cận cơ hội kinh doanh được cải thiện.
Chính phủ tiếp tục nỗ lực đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm điều kiện
16 | P a g e
kinh doanh và danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vị trí xếp hạng
môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam tăng từ hạng 88 năm 2010 lên
hạng 70 năm 2019. Môi trường cạnh tranh trong nước từng bước được cải
thiện, pháp luật về tố tụng cạnh tranh cũng có những bước tiến, tạo tiền đề giải
quyết cho nhiều vụ việc. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố trong
Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 (The Global Competitiveness
Report 2019), thì năm 2019, Viê ̣t Nam đứng vị trí thứ 67 trong số 141 quốc gia
và vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng, tăng 10 bâ ̣c so với năm trước, ở vị trí 77
trong số 135 với hầu hết các chỉ số được cải thiện. Tính riêng năm 2019, vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ
đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất
trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt
Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5
tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để
làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu
kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng
thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến
công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước
phát triển mạnh mẽ.

Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất
khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông
sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở
mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối
cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu
tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam
năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ
USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch
xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim
ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.

II. Chính trị

1. Việt Nam gia nhập WTO.

Gia nhập WTO và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này, Việt Nam

17 | P a g e
đã thực sự hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào nền kinh tế thế giới, không những
được tiếp cận và ngày càng mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ ở tất cả các nước
thành viên mà còn có vị thế bình đẳng như các nước thành viên khác trong việc
hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập
một trật tự kinh tế mới công bằng, hợp lý hơn, đồng thời có điều kiện để bảo vệ lợi
ích của đất nước, của doanh nghiệp nước ta.

2. Thành viên ASEAN 1995 – Cộng đồng chính trị ASEAN

Quá trình tham gia ASEAN đã mang lại cho Việt Nam những lợi ích quan
trọng và thiết thực, mà bao trùm là có được môi trường hòa bình và ổn định thuận
lợi cho an ninh và phát triển của đất nước, hỗ trợ đắc lực cho việc triển khai chính
sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và
quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Đặc biệt là về chính trị, gia nhập ASEAN đã giúp ta phá thế bị bao vây về
kinh tế và cô lập về chính trị khi đó; chấm dứt tình trạng chia rẽ, đối đầu ở khu
vực, tạo dựng mối quan hệ mới về chất giữa các nước Đông Nam Á theo chiều
hướng hữu nghị, ổn định và lâu dài, hợp tác toàn diện và chặt chẽ cả về đa phương
và song phương. Ta đã trực tiếp tham gia và đóng góp quan trọng trong việc xác
định phương hướng phát triển và các quyết sách lớn của ASEAN cũng như giữ
vững các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, phù hợp với yêu cầu và lợi ích của ta;
xác lập được vai trò quan trọng và có uy tín của Việt Nam trong hợp tác ASEAN,
góp phần duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN đối với hòa bình và phát triển ở khu
vực, hạn chế sự can thiệp và chi phối của các nước bên ngoài. Ta cũng có điều
kiện thuận lợi để phối hợp lập trường và hợp tác với các nước trong việc xử lý các
vấn đề khu vực và quốc tế phức tạp, hỗ trợ đáng kể cho ta trong việc bảo vệ chủ
quyền và lợi ích ở Biển Đông.
Việc cùng các nước thành viên “chèo lái” con thuyền ASEAN đi đúng hướng
là đóng góp lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam đã chủ động đề xuất và thúc đẩy
ASEAN xây dựng nhiều quyết sách, định hướng cho hợp tác ASEAN và giữa
ASEAN với các đối tác nhằm tăng cường đối thoại, xây dựng lòng tin, tạo sức
mạnh chung để cùng nhau ứng phó với những thách thức, nhất là các thách thức
an ninh phi truyền thống, bảo vệ an ninh, hòa bình cho khu vực và quốc tế.
3. Thành viên Liên hợp quốc năm 1977

18 | P a g e
Liên hợp quốc trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai các yêu cầu của
chính sách đối ngoại. Vị thế và vai trò của Việt Nam tại Liên hợp quốc ngày càng
được nâng cao. Ngày 1/1/2008, Việt Nam chính thức nhận vai trò Ủy viên không
thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008 – 2009. Chỉ nửa năm sau khi đó, Việt
Nam đảm nhận vị trí Chủ tịch Hội đồng Bảo an (HÐBA) của LHQ. Ðây là vinh
dự to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt lên vai chúng ta trách nhiệm nặng nề dù chỉ
kéo dài trong 1 tháng.
Trong nhiệm kỳ của mình, Việt Nam cũng bắt đầu manh nha việc tham gia
lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ. Tới năm 2014, Việt Nam chính thức tham gia
các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ, thể hiện trách nhiệm là quốc gia thành
viên, đóng góp vào một lĩnh vực mà Việt Nam rất coi trọng là gìn giữ hòa bình và
an ninh quốc tế. Chính những thành tựu đáng ghi nhận này giúp Việt Nam nâng
cao vị thế trong mắt bạn bè quốc tế và là tiền đề để chúng ta ứng cử vào vị trí này
lần 2 trước khi trúng cử với số phiếu kỷ lục trong 75 năm phát triển của LHQ. Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc từng nhấn mạnh: "Với kinh nghiệm đã đúc kết được,
với tinh thần hợp tác tích cực và chân thành và sự ủng hộ của các nước thành viên
LHQ, chúng ta tự tin đảm đương và hoàn thành tốt trọng trách tại HĐBA LHQ
nhiệm kỳ 2020– 2021, tiếp tục đóng góp lớn hơn vào hòa bình, phát triển và thịnh
vượng trên thế giới".
Quan hệ hợp tác Việt Nam – LHQ trong những năm qua đã góp phần bảo vệ
và thúc đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc của ta, nhất là duy trì, củng cố môi trường
hòa bình, an ninh và thuận lợi cho phát triển đất nước; thúc đẩy hội nhập quốc tế
sâu rộng hơn và góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam trên trường
quốc tế; làm sâu sắc hơn quan hệ của ta với các nước, các đối tác chủ chốt và bạn
bè, tranh thủ một nguồn lực quan trọng phục vụ công cuộc phát triển đất nước.
4. Quốc hội Việt Nam là thành viên Liên minh Nghị viện
Là thành viên của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) trong suốt hơn 35 năm qua,
Quốc hội Việt Nam luôn tham gia tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng vào
các hoạt động của diễn đàn đàm phán chính trị đa phương và trung tâm đối thoại
ngoại giao nghị viện toàn cầu này. Sự kiện Quốc hội Việt Nam đăng cai tổ chức
thành công kỳ họp lần thứ 132 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU –
132) tại Hà Nội (tháng 3/2015) vào dịp kỷ niệm 36 năm Quốc hội Việt Nam gia

19 | P a g e
nhập IPU (1979 – 2015) và kỷ niệm 126 năm ngày thành lập IPU (1889 – 2015) là
một sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử – ngoại giao hết sức to lớn, thể hiện tinh
thần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng của Quốc hội Việt Nam, một
thành viên có trách nhiệm trong tổ chức liên nghị viện toàn cầu.
Năm 2009, đại diện của Quốc hội Việt Nam giữ vị trí Phó Chủ tịch IPU, trên
cương vị này, Quốc hội Việt Nam đã có điều kiện đóng góp trực tiếp, thiết thực
hơn vào hoạt động của IPU, qua đó giới thiệu về Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ
của bạn bè quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước.
Đặc biệt, Quốc hội Việt Nam đã đảm nhiệm cương vị Chủ tịch và tổ chức
thành công Đại hội đồng IPU – 132 tháng 4/2015 với việc thông qua Tuyên bố Hà
Nội, đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng Chương trình nghị sự 2030 vì
sự phát triển bền vững.
Tháng 10/2016, tại Đại hội đồng IPU – 135 tại Thụy Sĩ, Chủ nhiệm Ủy ban
Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu đã được Hội đồng Điều hành bầu làm thành viên Ban
Chấp hành IPU, đại diện cho Nhóm châu Á–Thái Bình Dương nhiệm kỳ 2016 –
2019.

III. Văn hoá xã hội

Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn
kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp
toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ
chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc
làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích
mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác
giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo
trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010,
7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).

Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng
mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân,
đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo
hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo
hiểm xã hội. Từ năm 2003 - 2018, ngành Bảo hiểm xã hội phối hợp với ngành Y tế
20 | P a g e
đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh
bảo hiểm y tế, bình quân mỗi năm có trên 109 triệu lượt người thanh toán chi phí
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Ngày 19/11/2013, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Ủy ban Di
sản thế giới (nhiệm kỳ 2013 – 2017) và sự kiện Phó Chủ tịch Chương trình Ký ức
thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương (MOWCAP) nhiệm kỳ 2014 – 2018.
Đây là sự kiện quan trọng về ngoại giao của Việt Nam, đồng thời khẳng định vai
trò, vị thế của Việt Nam trong việc thực thi Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới.
Nhiệm kỳ 2015 – 2019 Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng Chấp hành
UNESCO nhiệm kỳ 2015 – 2019 với số phiếu cao nhất từ trước đến nay. Hình ảnh
đất nước cũng được đẩy mạnh quảng bá thông qua việc đã có 08 Di sản văn hóa
phi vật thể được UNESCO công nhận đưa vào Di sản văn hóa của nhân loại như:
Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca
Quan họ, ca trù, Hát xoan, Đờn ca tài tử Nam bộ…, có hàng chục Di sản văn hóa
vật thể được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của thế giới như: Vịnh Hạ
Long, thành Nhà Hồ, Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội, Động Phong Nha Kẻ
Bàng và một số di tích khác.
IV. Khoa học – Công nghệ
Với các tiến bộ trong cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho tiềm lực và trình
độ KH và CN, lực lượng KH và CN thật sự đồng hành cùng các cấp, các ngành và
địa phương để bám sát thực tiễn, đóng góp ngày càng thiết thực hơn cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Khoa học xã hội và nhân văn đã phát triển hệ thống lý luận mới về vai trò
của văn hóa, lịch sử, con người và các nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững, giúp
thay đổi nhận thức và  hành  vi,  bồi  đắp trí tuệ của con người Việt Nam trong xã
hội hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc, góp phần xây
dựng các nền tảng của một xã hội văn minh và hội nhập với thế giới tiến bộ. Khoa
học chính trị và kinh tế cung cấp các luận cứ sâu sắc và kịp thời trong việc nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; đổi
mới đồng bộ thể chế kinh tế, chính trị và xã hội; có nhiều đóng góp thiết thực trong
việc bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện mới. Các công trình
nghiên cứu về Biển Đông, đánh giá và dự báo kịp thời cục diện chính trị và ngoại
giao trong khu vực, đã phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo và an ninh, quốc phòng.  

21 | P a g e
Khoa học tự nhiên đã có tiến bộ vượt bậc về lượng và chất. Các nghiên cứu
trong lĩnh vực khoa học trái đất và môi trường đã góp phần nâng cao năng lực dự
báo, phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên có đóng góp rất quan trọng trong đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, nhất là bậc sau đại học; gia cố nền
tảng, năng lực nghiên cứu và đội ngũ cán bộ khoa học tài năng trong các trường đại
học, viện nghiên cứu. Nhiều nhà khoa học trẻ đã nhận được các giải thưởng khoa
học danh giá trong nước và quốc tế.
Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển lên một tầm cao mới về năng lực
và trình độ. Trong nông nghiệp, các nhà khoa học Việt Nam tạo được các giống
cây trồng mới có năng suất và chất lượng vượt trội so với khu vực và thế giới:
năng suất lúa cao gấp rưỡi Thái-lan và cao nhất ASEAN; năng suất hồ tiêu và cá
tra đứng đầu thế giới; năng suất cà-phê và cao-su đứng thứ hai thế giới. Nhiều tiến
bộ kỹ thuật và quy trình công nghệ mới được ứng dụng trong trồng trọt, chăn nuôi,
bảo quản sau thu hoạch và chế biến, mang lại hiệu quả kinh tế cao. 
Trong công nghiệp và dịch vụ, các chuyên gia công nghệ trong nước đã đủ
năng lực thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng, giàn
khoan dầu khí tự nâng ở vùng nước sâu; thiết kế, thi công các loại cầu vượt sông
khẩu độ lớn, hầm đường bộ, nhà cao tầng, nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô
lớn. Công nghệ thông tin và truyền thông thế hệ mới, công nghệ số được ứng dụng
rộng trong các ngành dịch vụ ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông. Nhiều
công nghệ cao như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, mạng di động
5G đã và đang được phát triển. 
Trong lĩnh vực y dược, Việt Nam nằm trong tốp ba nước ASEAN và 43 nước
trên thế giới tự sản xuất được vắc-xin; làm chủ các kỹ thuật và công nghệ y học
hiện đại ở trình độ cao như ghép đa tạng, thụ tinh nhân tạo, ứng dụng tế bào gốc và
kỹ thuật sinh học phân tử. Trong đại dịch Covid-19, đã kịp thời nghiên cứu, phát
triển kit xét nghiệm nhanh, rô-bốt, máy thở, vắc-xin, phác đồ điều trị và kháng thể
đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị Covid-19; góp phần kiểm soát và
khống chế thành công dịch bệnh, là minh chứng cho hiệu quả của sự đầu tư kiên trì
và chiến lược cho tiềm lực KH và CN nước nhà trong nhiều năm qua.
V. Giáo dục- Đào tạo
Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, từ năm 1986 đến nay, ngành giáo dục
và đào tạo đã liên tục đổi mới, hội nhập quốc tế để đáp ứng nhu cầu phát triển,
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới.

1. Giai đoạn 1986 – 2000 

22 | P a g e
Tháng 12 – 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đường lối đổi mới
toàn diện đất nước. Luồng gió đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI nhanh chóng
được quán triệt triển khai, đó làm thay đổi sâu sắc các mặt hoạt động trong công
tác giáo dục. 
Từ sau Đại hội VI của Đảng, giáo dục thực hiện đổi mới theo hướng đồng bộ,
toàn diện; Thực hiện phương hướng chung về phát triển công tác đào tạo nghề,
phát động nhiều phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, làm đồ dùng dạy học…có
những biện pháp tích cực nhằm mở rộng quy mô đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập
của nhân dân.
Bên cạnh việc tăng thêm ngành nghề, đã nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý và giáo viên các giáo viên đều được học tập và thực tập tại các nước xã hội
chủ nghĩa như:  Liên Xô, CHDC Đức, Bungary… Việc tăng cường chất lượng
giảng dạy ngày càng được  đề cao, Bộ tiếp tục bổ sung, điều chỉnh biên chế cho
các trường và cử giáo viên đi thực tập,  học tập ở nước ngoài như Liên xô, Tiệp
khắc, Đức…tạo nguồn cán bộ, giáo viên cho những năm tiếp theo. 

Về phía Trung Quốc, sau khi quan hệ hai nước bình thường hóa, hoạt động
hợp tác giáo dục từng bước được nối lại và đạt được những kết quả quan trọng trên
các mặt như: giao lưu, thăm viếng giữa lãnh đạo ngành giáo dục hai nước; trao đổi
lưu học sinh; hợp tác, liên kết đào tạo và nghiên cứu giữa các trường đại học hai
nước. 

Hàn Quốc cũng chủ động giúp đỡ, tăng cường và nâng cấp cơ sở vật chất – kỹ
thuật trường học tại Việt Nam. Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ cho Việt Nam một
số cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng như dự án nâng cấp trường Trung học Công
nghiệp Hà Nội, dự án xây dựng trường Kỹ thuật công nghiệp Việt – Hàn. Hai nước
tích cực liên kết đào tạo và trao đổi, hợp tác phát triển đào tạo ngôn ngữ với hai
ngành Việt Nam học, Hàn Quốc học. Ngay sau khi  hai nước có quan hệ hữu nghị
năm 1992, khoa Ngữ văn của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nay là Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH KHXH & NV) – Đại học Quốc gia  Hà Nội đã
thành lập bộ môn tiếng Hàn. Về phía Hàn Quốc, sau khi quan hệ giáo dục Việt –
Hàn được xác lập, ở Hàn Quốc đã có 4 trường đại học thành lập khoa đào tạo tiếng
Việt. Trong đó có Đại học Ngoại ngữ Pusan (PUFS) với 40 sinh viên năm 1992,
Đại học Chuyên  ngữ Sung Sim (HUFS) năm 1994 với 60 – 80 sinh viên, Đại học
Công nghiệp Chung Nam,  Đại học Liên hiệp Châu Á với 40 sinh viên năm 1998. 

2. Giai đoạn 2000 – 2010 


Qua 20 năm đổi mới, thực hiện “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010”,
giáo dục đại học Việt Nam đã phát triển về quy mô, đa dạng hóa về loại hình và

23 | P a g e
các hình thức đào tạo, cơ cấu hệ thống, chương trình, quy trình đào tạo bước đầu
được điều chỉnh. Chất lượng đã có những chuyển biến, đội ngũ nhân lực được đào
tạo đã có những đóng góp quan trọng. Cùng với việc tiếp tục tăng cường sự đầu tư
của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, để huy động các nguồn lực trong
nước, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục đại học, Việt Nam hy
vọng đã tạo cơ hội phát triển mới cho giáo dục đại học, mở rộng cơ hội tiếp cận
kiến thức, nội dung, chương trình và công nghệ giáo dục hiện đại cho giáo viên và
sinh viên, đồng thời tạo ra quá trình cạnh tranh, buộc các cơ sở giáo dục đại học
trong nước phải phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. 
Ngay từ những ngày đầu thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô tích cực ủng
hộ, giúp  đỡ Việt Nam một cách toàn diện, hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Liên
Xô và Việt Nam  không ngừng được củng cố, phát triển. Liên Xô đã nhận đào tạo
hàng vạn cán bộ, học sinh, sinh viên, công nhân quốc phòng và người lao động cho
Việt Nam. Hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Liên bang Nga và Việt Nam giai đoạn
2001 – 2010 được triển khai trên cơ sở Hiệp định hợp tác giáo dục giữa hai Chính
phủ cụ thể như Hiệp định về hợp tác đào tạo giữa hai nước cho thời hạn 2005 –
2008 hay Hiệp định về công nhận bằng cấp lẫn nhau năm 2010. Trong số những
người tốt nghiệp các trường đại học của Liên Xô trước đây có không ít những
người đã trở thành cán bộ cao cấp, giữ các chức vụ quan trọng của Nhà nước và
nhiều nhà chuyên môn giỏi, có trình độ tay nghề cao làm việc trong nhiều lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Có hàng ngàn sinh viên, nghiên cứu sinh Việt
Nam đang theo học tại các trường đại học của Liên bang Nga, trong đó có các
khoa thuộc Trường  Đại học Tổng hợp Hữu nghị các dân tộc Nga. 
Nhiều dự án hợp tác xây dựng trường Đại học cũng được ký kết như dự án
Trường Đại học Việt – Đức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong chương trình của
mình, Đại học Việt Đức tập trung việc nghiên cứu và phát triển vào các ngành Kỹ
thuật công nghệ cao, Phát triển bền vững và Kinh doanh. Ở đó sinh viên có thể
theo học các lớp Tài chính và kế toán, Kỹ thuật điện, Quản trị kinh doanh, Khoa
học máy tính và Phát triển đô thị; Các giáo sư từ các trường đại học của Đức đảm
bảo chất lượng của các khóa học được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh và giúp
sinh viên sẵn sàng tham gia vào thị trường việc làm Việt Nam và quốc tế và  sinh
viên có cơ hội thực tập tại các công ty của Đức và các công ty đa quốc gia tại Việt 
Nam. 
3. Giai đoạn 2010 đến nay 
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Trong những năm qua, việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo được đẩy mạnh đã giúp nâng cao hiệu quả về hợp tác quốc tế và
vị thế của Việt Nam trên thế giới. 

24 | P a g e
Theo thống kê của Bộ GD – ĐT, giai đoạn 2013 – 2016, đã có 68 thỏa thuận
quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết; Giai đoạn 2016 – 2020, Bộ GD – ĐT
đã chủ trì đàm phán, ký kết 75 thỏa thuận và điều ước quốc tế cấp Chính phủ và
cấp Bộ. Đặc biệt, năm học 2019 – 2020, Bộ GD – ĐT đã chủ trì, ký kết được 21
văn bản hợp tác quốc tế (gồm 6 văn bản cấp Chính phủ, 15 văn bản cấp Bộ) và ký
kết thỏa thuận về công nhận văn bằng để thúc đẩy việc dịch chuyển sinh viên với
các nước trong khu vực và trên thế giới như: Hiệp  định về trường đại học Việt –
Đức, Hiệp định về việc giảng dạy tiếng Anh theo chương  trình hòa bình; Công
hàm trao đổi về Dự án học bổng phát triển nguồn nhân lực với Nhật  Bản… 
Trong những năm qua, Bộ GD – ĐT đã tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị để
kết nối hợp  tác giữa các chuyên gia giáo dục, nhà đầu tư, cơ sở giáo dục trong và
ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác và đầu tư, nâng cao chất
lượng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như: Diễn đàn toàn cầu của UNESCO về
giáo dục vì Phát triển bền vững và Công dân toàn cầu tại triển lãm giáo dục Việt
Nam tại Lào năm 2019; Hội thảo Giáo dục Việt Nam 2021 (VES 2021) được đồng
tổ chức bởi AVSE Global - EduNet, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
- Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh và Tạp chí Giáo dục…
Theo Bộ GD – ĐT, các điều ước, thoả thuận hợp tác về giáo dục giữa Bộ
GD–ĐT và  các đối tác đều đã được các bên chủ động xúc tiến, thực hiện cam kết
một cách có hiệu quả, thiết thực. Tính đến 31/12/2019, Việt Nam đã có trên 500 dự
án hợp tác đầu tư còn hiệu lực của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục với tổng số
vốn đầu tư lên tới trên 4,4 tỷ USD.
Do tích cực hội nhập và đổi mới, hiện nay ngày càng nhiều học sinh Việt
Nam đi du học và đạt học bổng từ các trường danh tiếng của nước ngoài. Hiện có
trên 190.000 du học sinh Việt Nam đang học tập, nghiên cứu ở nước ngoài trong
đó có gần 30.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ. Hợp tác giữa
Chính phủ Việt Nam và chính phủ các nước đã đem lại hàng ngàn học bổng hằng
năm cho du học sinh Việt Nam. Đến nay có 19 nước cấp học bổng Hiệp định cho
Việt Nam, trong đó, có nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến, nền tảng khoa học kỹ
thuật hiện đại. Số lượng học bổng do chính phủ nước ngoài cấp cho Chính  phủ
Việt Nam đã tăng từ khoảng 400 học bổng/năm (năm 2013) lên 1.400 học
bổng/năm (năm 2019). 
Không chỉ vậy mà Việt Nam hiện cũng đang trở thành điểm đến được nhiều
sinh viên quốc tế lựa chọn, với những ưu điểm về chất lượng giáo dục liên tục
được nâng lên, chi phí học tập, sinh hoạt hấp dẫn, môi trường sống an toàn. Đến
năm học 2019 – 2020 đã có hơn 21.000 du học sinh  đến từ 67 quốc gia trên thế
giới học tập tại Việt Nam, trong đó, có 14.400 sinh viên theo  học các chương
trình đào tạo từ đại học trở lên. Các cơ sở giáo dục phổ thông của chúng ta hiện
nay cũng đang góp thúc đẩy hội nhập quốc tế trong việc triển khai các chương

25 | P a g e
trình giáo dục tích hợp ở mầm non và phổ thông, giúp học sinh tiếp cận chương
trình quốc tế, góp phần nâng cao trình độ ngoại ngữ cho học sinh và giáo viên. 
VI. Quốc phòng an ninh
1. Tham gia các cơ chế hợp tác của ASEAN (ARF; ADMM; ADMM+;
MACOSA…) 
ADMM, ADMM+ 
ADMM ra đời đánh dấu bước khởi đầu của cơ chế hợp tác quốc phòng
chính thức  trong ASEAN. Đây là cơ chế tham vấn và hợp tác về quốc phòng cao
nhất trong ASEAN,  là một thành phần quan trọng của Cộng đồng Chính trị – An
ninh ASEAN (APSC). Việc  tổ chức Hội nghị ADMM là bước tiến mới trong
khuôn khổ của hợp tác quốc phòng – an  ninh, được các nước ASEAN đặc biệt chú
trọng, vì đây là lĩnh vực có liên quan trực tiếp  đến hòa bình, ổn định của khu vực,
an ninh quốc gia của mỗi nước. 
Năm 2010, Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN và chủ trì tổ chức
một loạt  hội nghị trong khuôn khổ ADMM. Việt Nam đã thúc đẩy mạnh mẽ và
đóng góp to lớn  trong việc thiết lập Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước
ASEAN Mở rộng (ADMM+)  thông qua việc đề xuất Tài liệu khái niệm
“ADMM+: Thể thức và thủ tục” và “ADMM: Cơ  chế và Thành phần”, tổ chức
thành công Hội nghị ADMM+ lần thứ nhất với việc thông qua  5 lĩnh vực ưu tiên
hợp tác: An ninh biển, gìn giữ hòa bình, chống khủng bố, hỗ trợ nhân  đạo và cứu
trợ thảm họa, quân y. Tại ADMM+ lần thứ hai do Bru–nây tổ chức năm 2013, 
theo đề xuất của Việt Nam, Hội nghị đã thông qua lĩnh vực ưu tiên hợp tác thứ 6 là
Hành  động mìn nhân đạo. 
ADMM – 14 do Việt Nam chủ trì tổ chức theo hình thức trực tuyến, diễn ra
ngày  9/12/2020. Đây là lần đầu tiên ADMM được tổ chức theo hình thức trực
tuyến. Hội nghị đã ra Tuyên bố chung của Bộ trưởng Quốc phòng các nước
ASEAN về Hợp tác Quốc phòng  vì một ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng. 
Nhận thức rõ tầm quan trọng của ADMM đối với cấu trúc an ninh khu vực,
Việt Nam  đã chủ động tham gia cơ chế này và có những đóng góp tích cực, góp
phần kiến tạo, duy trì  môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác vì một ASEAN phát
triển thịnh vượng. Việt Nam  tham gia Hội nghị ADMM từ năm 2006. Từ ADMM
– 2 trở đi, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng  Việt Nam đều tham dự ADMM cũng như
ADMM Hẹp. Ngay từ Hội nghị ADMM lần đầu  tiên, Việt Nam đã có những đóng
góp tích cực trong việc thúc đẩy tiến trình phát triển của  ADMM theo Hiến
chương của ASEAN và đề xuất nhiều sáng kiến, góp phần đưa hợp tác  trong
ADMM đi vào thực chất, hiệu quả. 
Tiếp đó, trên cơ sở đánh giá tình hình an ninh khu vực, Việt Nam đã đề xuất
sáng kiến  quan trọng như cam kết “không sử dụng vũ lực trước trong giải quyết
tranh chấp”, tăng  cường hợp tác hải quân trong khu vực thông qua các hoạt động
26 | P a g e
tuần tra chung, thiết lập  đường dây nóng giữa hải quân cũng như lãnh đạo quốc
phòng các nước, giao lưu giữa các  binh sĩ trên đảo ở Biển Đông. 
Việt Nam cũng ủng hộ các sáng kiến như Chống đánh bắt cá bất hợp pháp,
không  được báo cáo và không được quản lý (IUU Fishing), quản lý biên giới,
khẳng định sự cần  thiết phải nâng cao vai trò trung tâm của ASEAN trong hợp tác
với các nước Cộng... Các  nỗ lực này của Việt Nam được nhiều nước đánh giá cao,
tạo cơ sở để thúc đẩy các sáng  kiến, hoạt động của Việt Nam trong năm 2020 khi
ta đảm nhận vai trò chủ tịch ASEAN. 
Với phương châm “chủ động, tích cực và có trách nhiệm” trong tham gia
hợp tác  ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển
của ASPC nói  chung, của hợp tác quốc phòng – quân sự ASEAN nói riêng; đồng
thời có những đóng góp  tích cực trong việc thúc đẩy tiến trình phát triển của
ADMM theo Hiến chương của ASEAN  và đề xuất nhiều sáng kiến được các nước
đánh giá cao, góp phần đưa hợp tác trong ADMM  ngày càng đi vào thực chất,
hiệu quả. 
Tại ARF 
Tháng 7 – 1994, Việt Nam được mời tham dự và trở thành thành viên sáng
lập Diễn  đàn Khu vực ASEAN (ARF). 
Những đóng góp cụ thể của Việt Nam cho ARF trước hết thể hiện qua
những lần chủ trì hoặc đồng chủ trì thành công các hội nghị của Diễn đàn như
(ISM – DR 98 – 99, Chủ tịch ARF 2000 – 2001, ISG – CBM 2001 – 2002, ISM –
CTTC 2008 – 2009…), Việt Nam  còn là Phó Chủ tịch đầu tiên của ARF (2008 –
2009). Không những thế, Việt Nam còn chủ động đề xuất và cùng các nước thực
hiện nhiều hội thảo thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau  trong ARF như Hội thảo về
thay đổi nhận thức trong chính sách an ninh (Mông Cổ 2005),  Hội thảo về phòng
chống dịch cúm gia cầm (Hà Nội, 2006), Tập huấn về an ninh mạng  (Brunei
2010)… Ngoài những hoạt động này, thông qua các nước ASEAN khác, Việt
Nam  cũng đã đi đầu trong quá trình cải tiến bộ máy, kiện toàn tổ chức, nâng cao
hiệu quả hợp  tác của ARF, những sáng kiến này đang tiếp tục được thực hiện và
áp dụng rộng rãi. 
Là Chủ tịch ASEAN từ tháng 1/2010, Việt Nam đã chuẩn bị từ sớm cho
nhiệm vụ Chủ tịch ARF. Ngay từ tháng 7/2009, ta đã đề xuất và được các nước
chấp thuận một số định hướng lớn cho Diễn đàn trong năm 2010. Nổi lên trong số
đó là tiếp tục củng cố và  thúc đẩy ARF tiến lên trên cơ sở các nguyên tắc, các
định hướng đã có là ASEAN phải luôn ở vị trí trung tâm và là hạt nhân của cả tiến
trình và đồng thời các biện pháp xây dựng lòng  tin vẫn phải là trọng tâm cho các
hoạt động của ARF. 
Cụ thể hơn, Việt Nam đã đề xướng, điều hành và chủ trì soạn thảo thành
công Kế hoạch Hành động Hà Nội thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF. Đây là một

27 | P a g e
kế hoạch rộng  lớn, bao quát các lĩnh vực hợp tác của ARF, đề ra những bước đi cụ
thể cho cả Diễn đàn.  Diễn đàn ARF 17 (Hà Nội, 23/7/2010) đã thông qua văn kiện
này, và Ngoại trưởng các  nước đều đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam, chất lượng
của văn kiện và cam kết sẽ thúc  đầy thực hiện nghiêm túc các hoạt động đề ra
trong kế hoạch. Với những đóng góp này,  chắc chắn, nhiệm kỳ Chủ tịch ARF
2010 của Việt Nam sẽ thành công, đi vào lịch sử của  Diễn đàn như một dấu mốc
đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ, hướng tới quan hệ đối tác toàn  khu vực vì hòa
bình, ổn định, thịnh vượng và phát triển. 
Ngày 12/09/2020, tại Diễn Đàn ARF, Việt Nam tố cáo các vụ vi phạm
quyền của các  nước ven biển. Tuy không nêu đích danh, nhưng ngoại trưởng Việt
Nam muốn nói đến  những hành vi của Trung Quốc trong thời gian qua tại Biển
Đông, liên tục sách nhiễu các  hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí cũng như
đánh cá của các nước láng giềng như Việt  Nam, Philippines, Malaysia,
Indonesia… 
MACOSA 
Thời gian qua, các hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng chống tội phạm
giữa Việt  Nam và các nước ngày càng được tăng cường và mở rộng. Việt Nam đã
ký kết 72 văn bản  hợp tác với các nước về lĩnh vực này. 
Ngày 29/9/2010, hội nghị "Những người đứng đầu Cơ quan An ninh các
nước  ASEAN" lần thứ nhất (viết tắt là MACOSA) diễn ra tại Hà Nội với sự tham
dự của 10 đoàn  đại biểu và đại diện các cơ quan ngoại giao thuộc 10 quốc gia
thành viên ASEAN tiếp tục  là một nỗ lực của Việt Nam trong hợp tác chống tội
phạm 
Với chủ đề "Từ tầm nhìn tới hành động: Tăng cường hợp tác an ninh các
nước ASEAN  góp phần xây dựng Cộng đồng chính trị – an ninh ASEAN",
MACOSA là diễn đàn an ninh  của lãnh đạo cơ quan an ninh 10 nước ASEAN và
là sáng kiến của Bộ Công an trong năm  Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch
ASEAN 2010. 
Cũng theo đề nghị của Việt Nam, MACOSA sẽ là một diễn đàn mở thường
niên, nằm  trong khuôn khổ hợp tác chính trị – an ninh ASEAN. Trung tướng Bùi
Văn Nam bày tỏ hy  vọng, từ hội nghị này, lực lượng an ninh các nước ASEAN sẽ
triển khai các hình thức hợp  tác thiết thực, cụ thể, phù hợp với nhu cầu bảo đảm
an ninh chung của khu vực, cũng như  điều kiện, năng lực của mỗi quốc gia thành
viên.
Quan sát viên các cuộc tập trận chung (Hổ mang vàng…) 
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã có nhiều bước cải thiện
quan hệ với  các nước ASEAN và tổ chức ASEAN. Năm 1992, Việt Nam tham gia
Hiệp ước Thân thiện  và Hợp tác Đông Nam Á (TAC) và trở thành quan sát viên
của ASEAN. 

28 | P a g e
RIMPAC  
RIMPAC là cuộc diễn tập thường niên của Hạm đội Thái Bình dương Mỹ bao
gồm  nhiều hoạt động như trao đổi về y học biển, y học hàng không, chuyển
thương đường không,  trình diễn ứng phó thảm họa, hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu
nạn trên biển… 
Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng cho biết, nhận lời mời từ phía Mỹ, Bộ Quốc
phòng  Việt Nam sẽ cử 6 sĩ quan tham dự quan sát hoạt động diễn tập quân y Vành
đai Thái Bình  Dương RIMPAC 2012 từ ngày 16/7/2012 đến 20/7/2012 tại
Hawaii. 

Hà Nội đã từng cử quan sát viên đến “nhìn” hai lần tập trận RIMPAC vào
năm 2012  và 2016, cũng như các nước Đông Nam Á khác đã làm trước đó. Đến
năm 2018, Việt Nam  không còn là người đứng ngoài quan sát nữa, mà đã là thành
viên thực thụ của RIMPAC  2018, được quyền tham gia vào các hoạt động. 
Hổ Mang Vàng 
Việt Nam bắt đầu tham gia Hổ mang Vàng với tư cách quan sát viên từ năm
2003.  Năm 2011, Việt không cử quan sát viên đến cuộc tập trận.  
Việt Nam tham dự tập trận Hổ mang Vàng 2016. Cuộc tập trận có 27 nước
tham dự với 8.564 binh sĩ, trong đó, có 7 nước tham dự đủ các bài tập trận. Liên
quan đến cuộc tập  trận này, còn nhớ trước đó, ngày 9/2/2011, Bộ Quốc phòng
Việt Nam khẳng định quân đội  Việt Nam không tham gia cuộc tập trận Hổ Mang
Vàng 2011 tại Thái Lan. 
2. Tuần tra chung 
Việt Nam – Trung Quốc 
Đại tá Phạm Kim Hậu, Phó Tư lệnh quân sự Cảnh sát biển (CSB) cho biết,
đây là lần  đầu tiên, hai tàu hiện đại nhất của lực lượng là 8001 và 8003 tham gia
tuần tra chung kiểm  tra liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ Việt – Trung. 
Chuyến tuần tra chung lần thứ 10 diễn ra từ 20/4/2021–23/4/2021. Bộ Tư
lệnh Vùng  Cảnh sát biển 1 thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam là đơn vị
được giao nhiệm vụ tuần tra liên hợp trong vùng đánh cá chung. Phía Trung Quốc
là lực lượng của Cục Cảnh  sát biển Nam Hải với hai tàu 45102 và 3411. 
Theo Đại tá Trần Văn Hậu, Phó Chủ nhiệm chính trị CSB, hoạt động tuần tra
chung  kiểm tra liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ Việt Nam – Trung Quốc là để góp
phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển đảo; tăng cường
tình đoàn kết hữu nghị của các nước láng giềng có chung lợi ích ở Biển Đông;
tuyên truyền phổ biến cho ngư dân  những quy định trong Hiệp định hợp tác nghề
cá ở Vịnh Bắc Bộ mà hai nước đã ký ngày  25/12/2000 để hoạt động theo đúng
pháp luật, cùng bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tránh tình  trạng tàn phá môi trường
biển. 
29 | P a g e
Ngoài hoạt động tuần tra liên hợp, lực lượng CSB hai nước đã tăng cường hội
thảo,  trao đổi để đi tới thống nhất quan điểm để thực hiện đúng các quy định trong
Hiệp định hợp  tác nghề cá. CSB hai nước đã thành lập đường dây liên lạc nóng để
thường xuyên cập nhật  thông tin, trao đổi xử lý các vụ việc. 
Đại tá Trần Văn Hậu cho biết, trong quá trình tuần tra liên hợp, nếu phát hiện
ra tàu  của ngư dân nước nào vi phạm quy định của Hiệp định, thì tàu của nước đó
sẽ kiểm tra và  tàu nước còn lại giám sát; sau đó lập biên bản chuyển về đất liền xử
lý và thông báo cho  phía còn lại kết quả, đảm bảo việc xử lý nghiêm minh, đúng
pháp luật. 
Việt Nam – Thái Lan 
Ngày 18/11/2020 đến 21/11/2020, tại vùng biển giáp ranh Việt Nam–Thái
Lan, Hải  quân Nhân dân Việt Nam và Hải quân Hoàng gia Thái Lan đã tổ chức
chuyến tuần tra chung  thường niên lần thứ 42. 
Lực lượng tham gia tuần tra gồm Biên đội tàu 264, 265 thuộc Vùng 5 Hải
quân Nhân  dân Việt Nam và Biên đội tàu 533, 552 của Hải quân Hoàng gia Thái
Lan. Hai bên đã tiến hành luyện tập ngăn chặn, trấn áp cướp biển, buôn lậu, vận
chuyển  ma túy, nhập cư trái phép, khai thác hải sản bất hợp pháp; bảo vệ môi
trường biển. Cũng trong khuôn khổ chuyến tuần tra, hai bên đã phối hợp huấn
luyện thông tin, tìm  kiếm cứu nạn. 
Hoạt động tuần tra chung nhằm duy trì an ninh, trật tự, tạo điều kiện cho nhân
dân hai  nước phát triển kinh tế biển đồng thời thúc đẩy quan hệ hợp tác, hiểu biết,
tin cậy lẫn nhau  giữa hải quân hai nước. 
Việt Nam – Campuchia 
Trong 2 ngày 25 và 26 – 3, tại vùng nước lịch sử Việt Nam – Campuchia, Hải
quân  Nhân dân Việt Nam và Hải quân Hoàng gia Campuchia đã tiến hành chuyến
tuần tra chung  thường niên lần thứ 62. 
Lực lượng tham gia tuần tra gồm Tàu 253 thuộc Vùng 5 Hải quân Nhân dân
Việt Nam  và Tàu 1144 thuộc Căn cứ biển Hải quân Hoàng gia Campuchia. 
Hai bên đã phối hợp tiến hành luyện tập các nhiệm vụ: Tìm kiếm cứu nạn;
ngăn chặn  trấn áp cướp biển, buôn lậu, nhập cư trái phép, buôn bán ma túy, vũ
khí, chất nổ bất hợp  pháp... 
Với sự chuẩn bị chu đáo, hiệp đồng chặt chẽ, chuyến tuần tra chung lần thứ
62 đã  thành công tốt đẹp, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trong
vùng nước lịch  sử Việt Nam – Campuchia.
VII. Các lĩnh vực khác
Ngoài các thành tựu trên, Việt Nam đã chủ động và tích  cực hội nhập
quốc tế và gặt hái được nhiều thành tựu khác trên trường hội nhập quốc tế
như:  

30 | P a g e
1. Thực hiện tốt các tiêu chí, tiêu chuẩn chung 
Tiêu chuẩn quốc tế là tiêu chuẩn do một tổ chức tiêu chuẩn quốc tế hoặc tổ
chức quốc  tế có hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn công bố. Với khả năng của tổ
chức này có thể thiết lập các tiêu chuẩn chung, nó sẽ trở thành luật định thông qua
các hiệp định hay các  tiêu chuẩn quốc gia vì thế sẽ làm cho nó có nhiều sức mạnh
hơn với sự liên kết chặt chẽ giữa các chính phủ. Những người tham dự bao gồm
một tổ chức tiêu chuẩn từ mỗi quốc gia  thành viên và các tập đoàn lớn. Quá trình
xây dựng được đảm bảo nguyên tắc đồng thuận,  phù hợp với nguyên tắc của hoạt
động tiêu chuẩn quốc tế. 
Tính đến nay, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam có gần 13.000 tiêu
chuẩn Việt Nam (TCVN), tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế (ISO – Tổ chức Tiêu
chuẩn hóa  quốc tế, ITU – Liên minh viễn thông quốc tế, ICE – Ủy ban kỹ thuật
quốc tế...), tiêu chuẩn  khu vực khoảng 60%, góp phần hỗ trợ đắc lực cho việc phát
triển kinh tế – xã hội trong  nhiều lĩnh vực. Một số kết quả có thể kể đến: TCVN
về sản phẩm dầu mỏ phục vụ lộc trình  áp dụng tiêu chuẩn khí thải theo Quyết định
số 49/2011/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính  Phủ, các TCVN về đô thị thông minh,
lưới điện thông minh, sản xuất thông minh phục vụ.
Quyết định 950/QĐ – TTg ngày 01/08/2018, các TCVN về quản lý môi
trường, TCVN/TC 146: chất lượng không khí, TCVN về phương tiện giao thông
đường bộ.... Việc đáp ứng  hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế là thành công của nhà
nước ta là một thành tựu lớn giúp cho  đất nước hòa mình vào với dòng chảy công
nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác đa  phương và song phương. Các tiêu
chuẩn Việt Nam dựa trên Tiêu chuẩn quốc tế làm nền  tảng cho doanh nghiệp cho
sản xuất, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người  tiêu dùng nước
nhà.
Trong sự nghiệp đổi mới, việc tích cực tham gia các cơ chế song, đa phương
của Việt  Nam có sứ mệnh mới, góp phần quan trọng tạo dựng và giữ vững môi
trường hòa bình, ổn  định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đồng thời linh hoạt, sáng tạo
tìm ra phương cách mới thúc  đẩy hợp tác quốc tế, tạo mọi điều kiện quốc tế thuận
lợi để xây dựng và phát triển đất nước,  góp phần quan trọng nâng cao thế và gia
tăng thế lực cho đất nước. 
2. Sự chuyển mình của ngành y tế
Những thành tựu y học nổi bật:
Ngày 12/12/2018 đã đi vào lịch sử ngành ghép tạng nói riêng, ngành y tế nói
chung, lần đầu tiên Việt Nam thực hiện lấy đồng thời 6 tạng để ghép từ cùng một
người cho đa tạng chết não và đã tiến hành ghép 5 tạng cùng một thời điểm cho 4
bệnh nhân (1 tim, 2 phổi, 1 gan, 1 thận), kết hợp điều phối “xuyên Việt” 1 thận cho
bệnh nhi ở TP Hồ Chí Minh. Chi phí cho ghép tạng ở Việt Nam có mức thấp nhất
so với các nước trên thế giới (ít hơn từ 1/3 đến 1/2 lần), nhưng so với mức thu nhập

31 | P a g e
của người dân thì vẫn còn cao.
Phát triển các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, sàng lọc trước sinh và sau sinh như:
ứng dụng kỹ thuật giảm thiểu phôi, tiêm tinh trùng vào bào tương noãn, chuyển
phôi giai đoạn muộn, đông phôi và trữ phôi, chọc hút tinh trùng từ mào tinh, hỗ trợ
phôi thoát màng, chẩn đoán di truyền phôi tiền làm tổ... với tỷ lệ thành công tương
đương các nước trong khu vực. Việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao mang lại
hiệu quả xã hội rất lớn trong hỗ trợ sinh sản.
Các kỹ thuật xạ trị 3 chiều, kỹ thuật PET/CT mô phỏng lập kế hoạch xạ trị,
xạ phẫu (Radiosurgery), ứng dụng dao gamma (Gamma Knife) và dao gamma
quay (Rotating Gamma Knife), xạ trị trong chọn lọc (Selective Internal
Radiotherapy - SIR) hay còn gọi là phương pháp tắc mạch phóng xạ (Radio
Embolization - RE), cấy hạt phóng xạ điều trị ung thư tuyến tiền liệt… đã được
thực hiện thành công tại Việt Nam với kết quả tốt.
Các tiến bộ đột phá trong nghiên cứu về ghép tủy có thể kể đến như: việc sử
dụng nguồn tế bào gốc tạo máu ở máu ngoại vi và máu cuống rốn thay cho tủy
xương, ứng dụng tế bào gốc mô mỡ tự thân điều trị bệnh lý chấn thương cột sống
có liệt tủy, tế bào gốc mô mỡ tự thân trong điều trị bỏng, tế bào gốc tự thân trong
điều trị suy tim sau nhồi máu cơ tim…
Tính đến năm 2020, Việt Nam đã có hơn 20 năm liên tục bảo vệ được thành
quả thanh toán bại liệt, 13 năm duy trì loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh trên phạm vi
cả nước. Trên 20 loại vaccine đã được nghiên cứu sản xuất trong nước. Năm 2017,
vaccine sởi - rubella đã được nghiên cứu, thử nghiệm thành công và đưa ra thị
trường. Năm 2019, vaccine cúm mùa “3 trong 1” (IVACFLU-S) gồm cúm
A/H1N1/09, A/H3N2, cúm B đã hoàn thành thử nghiệm lâm sàng và được Bộ Y tế
cấp giấy phép lưu hành, dự kiến đầu năm 2021 sẽ hoàn thành đánh giá đưa vắc xin
này đủ điều kiện xuất khẩu…
Sự hỗ trợ vaccine từ các nước:

Italy sẽ cung cấp thêm hơn 1,2 triệu liều vaccine, nâng tổng số liều nước này
viện trợ cho việt nam lên hơn 2,8 triệu. mỹ đã trao tặng cho việt nam 7,5 triệu liều
vaccine. trung quốc sẽ viện trợ thêm 3 triệu liều vaccine cho việt nam trong năm
nay, nâng tổng số vaccine viện trợ của trung quốc lên 5,7 triệu liều. kể từ tháng 6
năm nay, chính phủ nhật bản đã viện trợ cho chính phủ việt nam khoảng 3,58 triệu
liều... đặc biệt trong chuyến công du tới các nước của chủ tịch nước đợt cuối tháng
9 vừa qua, đoàn ta đã tranh thủ được sự ủng hộ hiệu quả của cộng đồng quốc tế,
đặc biệt là cho phòng chống dịch covid-19, phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội. bên
cạnh 1,05 triệu liều vắc-xin abdala của cuba chuyển về nước theo chuyên cơ của
chủ tịch nước, các nước, các đối tác đã cam kết viện trợ và cung cấp 1,5 triệu liều
32 | P a g e
vắc-xin cho việt nam. riêng trong cuộc làm việc của chủ tịch nước nguyễn xuân
phúc với công ty pfizer, pfizer cam kết chuyển đủ 31 triệu liều vắc-xin đã ký hợp
đồng với việt nam ngay trong năm 2021 và 20 triệu liều vắc-xin cho trẻ em khi có
đầy đủ dữ liệu về hiệu quả và tính an toàn.
Thông qua cơ chế COVAX, Việt Nam đã nhận 4.176.000 liều vắc xin
AstraZeneca (trong đó Mỹ là quốc gia có đóng góp lớn nhất). Đến ngày 2/10 Việt
Nam đã tiếp cận khoảng gần 60 triệu liều vaccine các loại khác nhau gồm
AstraZeneca; Moderna; Vero Cell, Pfizer; Sputnik V; Abdala.Làm chủ hoàn toàn
công nghệ sản xuất kit thử virus SARS – CoV – 2
Trong cuộc chiến với đại dịch COVID–19, các nhà khoa học Việt Nam đã
không ngừng nỗ lực để từng bước nghiên cứu, phối hợp nghiên cứu và sản xuất
các sinh phẩm phục vụ xét nghiệm. Những ngày đầu, để xét nghiệm phát hiện
virus SARS – CoV – 2, chúng ta phải sử dụng nguồn sinh phẩm từ nước ngoài (từ
WHO, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ, Đức).
Nhưng chỉ sau gần 4 tháng, không những làm chủ phương pháp xét nghiệm tìm
gen virus SARS – CoV – 2, Việt Nam đã phát triển được loại sinh phẩm xét
nghiệm tìm gen virus (PCR) rất tốt, thay thế nguồn nước ngoài (sinh phẩm do Học
viện Quân y phối hợp với Công ty CP Công nghệ Việt Á phát triển). Thời điểm
đó, Việt Nam là nước thứ 5 trên thế giới sản xuất thành công kit thử virus SARS –
CoV – 2.
Sinh phẩm xét nghiệm kháng thể "made in Vietnam" có nhiều ưu điểm: Dễ
sử dụng cho tất cả các tuyến; các cơ sở y tế tuyến huyện có thể xét nghiệm được
do sử dụng hệ thống máy xét nghiệm sẵn có (hệ thống máy xét nghiệm ELISA
được trang bị từ tuyến Trung ương đến tuyến huyện để chẩn đoán người nhiễm
HIV, sốt xuất huyết và một số bệnh miễn dịch khác); độ an toàn cao (xét nghiệm
qua mẫu máu). Đặc biệt, độ nhạy, độ đặc hiệu của sinh phẩm Việt Nam đạt
khoảng 95%, trong khi sản phẩm của nước ngoài chỉ đạt khoảng 70–75%, giá
thành của sinh phẩm này rẻ hơn nhiều so với sinh phẩm nhập ngoại (chỉ khoảng 5
USD/kit xét nghiệm). Với phương pháp này, Bộ Y tế khẳng định hoàn toàn có thể
thay thế các loại sinh phẩm tương tự của nước ngoài. Bộ sinh phẩm xét nghiệm
bằng phương pháp PCR của Việt Nam đã được WHO, Vương quốc Anh công
nhận chất lượng. Nhờ có sinh phẩm xét nghiệm này, Việt Nam hoàn toàn chủ

33 | P a g e
động phương pháp xét nghiệm để sàng lọc, sớm phát hiện người nhiễm COVID –
19, đồng thời xuất khẩu số lượng lớn sinh phẩm xét nghiệm góp phần trợ giúp
hiệu quả cộng đồng quốc tế trong công tác phòng, chống dịch.
Dù quá trình thử nghiệm vaccine trên người mới bắt đầu, dù phía trước vẫn
còn nhiều thách thức, song cuộc thử nghiệm vaccine đầu tiên vừa qua ở nước ta đã
chứng minh tính khoa học, tính trách nhiệm, nhân đạo, sự nhanh nhạy, "chạy đua"
với thời gian và sự tự tin, tự lực, tự cường của Việt Nam trong bảo vệ người dân
trước đại dịch lịch sử của loài người.
Nếu nước ta tự sản xuất và đưa vào sử dụng vaccine ngừa COVID–19 trong
năm 2021, đó sẽ là thành công chưa từng có tiền lệ trong quá trình nghiên cứu và
thẩm định vaccine tại Việt Nam. Điều này cũng là minh chứng cho sự phát triển
vượt bậc của ngành y tế Việt Nam trong quá trình làm chủ công nghệ, đóng góp
vào sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân và ghi tên mình trên bản đồ y học thế
giới.
3. Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam 
Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc ngày 20/09/1977. Hỗ trợ của Liên Hợp
Quốc đối  với Việt Nam khởi đầu tập trung vào tái thiết sau chiến tranh và hỗ trợ
nhân đạo. Nhận thấy  bối cảnh kinh tế và phát triển của Việt Nam thay đổi nhanh
chóng, Liên Hợp Quốc mở rộng  hỗ trợ sang tăng cường thể chế, chính sách, bảo
trợ xã hội, y tế, giáo dục, nông nghiệp, v.v.  Với mục tiêu xây dựng nhà nước bền
vững và bao trùm, Liên Hợp Quốc đang hợp tác với  Việt Nam để tăng tốc thành
tựu SDG và hỗ trợ các ưu tiên phát triển quốc gia khác, tập trung vào bốn lĩnh vực
chiến lược: Đầu tư vào con người; Đảm bảo chống chịu biến đổi khí  hậu và bền
vững môi trường; Thúc đẩy sự thịnh vượng và hợp tác; và Thúc đẩy công lý,  hòa
bình và quản trị toàn diện. 
Liên Hợp Quốc và các đối tác tại Việt Nam đang nỗ lực để đạt được các Mục
tiêu  Phát triển Bền vững: 17 Mục tiêu liên kết với nhau và đầy tham vọng nhằm
giải quyết  những thách thức phát triển lớn mà người dân Việt Nam và trên thế giới
phải đối mặt. 
1. Xóa nghèo 
2. Không còn nạn đói 
3. Sức khỏe và có cuộc sống tốt 
4. Giáo dục có chất lượng 
5. Bình đẳng giới 
6. Nước sạch và vệ sinh 

34 | P a g e
7. Năng lượng sạch với giá thành hợp lý 
8. Công việc tốt và tăng trưởng kinh tế 
9. Công nghiệp, sáng tạo và phát triển hạ tầng 
10. Giảm bất bình đẳng 
11. Các thành phố và cộng đồng bền vững 
12. Tiêu thụ và sản xuất có trách nhiệm 
13. Hành động về khí hậu 
14. Tài nguyên và môi trường biển 
15. Tài nguyên và môi trường đất liền 
16. Hòa bình, công lý và các thể chế 
17. Quan hệ đối tác vì các mục tiêu
C. Đánh giá
Nhìn tổng quát, giai đoạn trước 30 năm đổi mới, Việt Nam cũng đã có những
thay đổi mới trong chính sách và hoạt động đối ngoại để hòa nhịp cùng với sự đổi
mới trên mọi lĩnh vực của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn. Tuy nhiên,
quan hệ quốc tế Việt Nam cũng gặp phải những khó khăn, trở ngại lớn khi nước ta
bị bao vây, cô lập, trong đó đặc biệt là từ thập niên 70 thế kỷ XX, lấy sự kiện
“Campuchia” các nước ASEAN và một số quốc gia khác thực hiện bao vây, cấm
vận Việt Nam,… Nguyên nhân đến những khó khăn trên, là do trong hệ thống đối
ngoại ở giai đoạn  này, chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang
hòa hoãn và chạy đua kinh  tế trên thế giới. Do đó, đã không có tranh thủ được
thuận lợi trước hệ thống quốc tế phục  vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển
kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời gian đổi  mới quan hệ đối ngoại phù hợp
với tình hình. Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam  giai đoạn trước 1986 suy
cho cùng xuất phát từ căn bản nguyên nhân đã được Đại hội lần  thứ VI của Đảng
chỉ ra là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản,  nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan”. 
- Từ năm 1986 sau khi nhận ra những sai lầm trong chính sách đối ngoại, Đại
hội đã  xác định mục tiêu của chính sách đối ngoại là phải kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh  thời đại, phấn đấu giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, góp phần
giữ vững hòa bình ở Đông  Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị
hợp tác với Liên Xô và các nước xã  hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã  hội và bảo vệ Tổ quốc”. Quá trình
đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam  đã góp phần xác lập
những nội dung, tính chất cơ bản trong đường lối đối ngoại, thể hiện  tinh thần độc
lập tự chủ, sáng tạo, kiên định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn  kết

35 | P a g e
mục tiêu cách mạng và định hướng phát triển đất nước vào những xu thế phát triển
của  thời đại. 

1.Thời cơ, thuận lợi:

Thứ nhất, những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập
quốc tế thời kỳ đổi mới được thể hiện trên lĩnh vực kinh tế. Đó chính là kết quả
của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường  lối, chính sách đối ngoại rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa với chủ trương chủ động và  tích cực hội nhập kinh tế
ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó  đã tạo thêm niềm
tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập, tận dụng tốt nhất  những cơ
hội mới đang mở ra.  
 Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá mở ra
khả năng  cho nước ta, nhất là khi đã là thành viên chính thức WTO, tham
gia nhanh và hiệu quả vào  hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng
mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội
thuận lợi đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển  dịch cơ cấu
lao động và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá. 
 Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố như nguồn vốn, công nghệ sản
xuất tiên  tiến và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh
chóng, cho nên các nước  đều có khả năng tiếp cận, sử dụng với mức độ
khác nhau. Cùng với dòng chảy khổng lồ về vốn, hàng loạt các hoạt động
chuyển giao công nghệ sản xuất và khoa học quản lý tiên tiến  được thực
hiện, góp phần hữu hiệu vào sự lan toả rộng rãi của các làn sóng tăng
trưởng  hiện đại. Việc Việt Nam gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế, tài
chính khu vực cũng như  toàn cầu, nhất là WTO tạo cơ hội tiếp cận thị
trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập
khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước  mở cửa theo quy
định. Nước ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, từng bước mở
rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có
độ mở lớn,  kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này
càng có ý nghĩa quan trọng,  là yếu tố bảo đảm tăng trưởng của nước ta. 
 Nền kinh tế của nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm
sau khi gia nhập WTO là 6,53%. Đây là tốc độ tăng trưởng được các chuyên
gia đánh giá là ở mức cao và là thành tựu hết sức to lớn nếu xét trong điều
kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, biến động kinh tế vĩ mô trong nước, sự
biến động giá cả thế giới và khủng hoảng kinh tế toàn cầu…) 

36 | P a g e
 
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế giúp phát triển mạnh mẽ quan hệ đối
ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng
quốc tế. Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp
tác nhiều mặt với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với
Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong
khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu
nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang Nga,
các nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng
quan hệ với các nước công nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ;
thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình dương, Trung
Đông, châu Phi và Mỹ latinh; mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các
tổ chức quốc tế và khu vực.
   Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng
sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào
tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số
nước. Mở rộng hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã
hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.
 Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia trên thế giới,
thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại các Châu
lục. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ không hoàn lại
hoặc cho vay để phát triển.
 Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ
vững hòa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của
nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.

Thứ ba, hội nhập quốc tế đánh dấu bước phát triển về chất  của tiến
trình hội nhập, giúp nước ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên
khác  trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, tiếng nói được
tôn trọng hơn, có  quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các
tranh chấp thương mại trong  khuôn khổ WTO, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của
đất nước, của doanh nghiệp. Đồng thời, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng
thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho  tiến trình cải cách của nước
ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy  phát triển kinh tế –
xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh. 

37 | P a g e
 Tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải
hoàn thiện  hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công
khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của
nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền  đề rất quan trọng để phát huy
tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong nước, là cơ hội  để tăng cường
thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền vững hơn và rút 
ngắn khoảng cách phát triển.
 Về khách quan, xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện cho tất cả các nước tham
gia vào  đời sống quốc tế, bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực
lượng… nhằm thực hiện  mục tiêu chiến lược của mình. Quá trình hội nhập
quốc tế làm cho các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cơ hội tích
cực để có thể loại bỏ các biểu hiện của ý đồ thiết lập mối  quan hệ một chiều
chứa đựng sự áp đặt, chi phối của các cường quốc đối với đông đảo các
quốc gia dân tộc khác trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một trật tự thế
giới mới với cơ  chế sinh hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn.
 Đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: mở rộng mạnh mẽ quan hệ
song phương và đa phương; bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài
chính - tiền tệ quốc tế như: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), gia nhập Hiệp hội các nước
Đông Nam Á (ASEAN), tham gia các khu vực mậu dịch tự do ASEAN,
ASEAN-Trung Quốc và các khu vực mậu dịch tự do khác (ASEAN-Nhật
Bản, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Hàn Quốc), tham gia diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Á-
ÂU (ASEM), tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO)…
 Đưa hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh,
góp phần tạo lập tư duy kinh tế mới, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh. Thu hút được một số lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA), tiếp thu nhiều thành tựu mới
về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý
 
Thứ tư, lĩnh vực đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, xét trên phương diện hội
nhập kinh tế quốc tế, cũng thúc đẩy mạnh mẽ các  hoạt động giao lưu văn hoá
và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và  tình hữu nghị
giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài người, kết tinh cô đọng ở các
phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ… được phổ biến rộng rãi toàn
thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Cũng như nhiều nước khác,
tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội thuận lợi để chúng ta chia sẻ
lợi ích do toàn cầu  hoá đưa lại, đồng thời đóng góp thiết thực vào tiến trình phát

38 | P a g e
triển hợp tác quốc tế trên  nhiều lĩnh vực, dân chủ hoá các sinh hoạt quốc tế, tham
gia đấu tranh thiết lập trật tự kinh  tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn.
 
⇒  Tóm lại, những nỗ lực của Đảng và Nhà nước quyết định sự thành công của
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế đối ngoại không dừng
lại ở việc tham gia được bao nhiêu định chế song phương, khu vực và toàn
cầu mà là tận dụng các ưu trội của định chế này đến mức nào cho mục tiêu
cuối cùng là đảm bảo lợi ích quốc gia và phát triển đất nước
 
2. Thách thức, khó khăn:
 Bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, Việt Nam đã gặp phải không ít những
thách thức, khó khăn trong tiến trình hội nhập quốc tế. Do đó, chúng ta  cũng cần
luôn nhận thức rõ những thách thức mà nước ta phải đối mặt để từ đó tìm ra biện 
pháp khắc phục hữu hiệu.  
  Thứ nhất, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ việc nước ta
là một  nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn
nhiều yếu kém và bất  cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé,
sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch  vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế
nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách  kinh tế, thương mại chưa
hoàn chỉnh… Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh  tranh cả ở
trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với
nhiều  đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do thực hiện những
cam kết của một thành  viên WTO, nhất là việc phải cắt giảm mạnh thuế
nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế,  trong đó có việc phải mở cửa các
lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao  như: ngân hàng,
bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông 
nghiệp… bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp
luôn hiện hữu và  trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế
quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực  kinh tế tư nhân cũng đòi hỏi phải giải
quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính  sách,… Về cơ chế bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu  thương mại,
bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói
quen  tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
 
 Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát
triển khác,  nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương
mại, tài chính – tiền tệ, đầu  tư… chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải
chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các
nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và  mức đóng góp vốn

39 | P a g e
khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các  nước
này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF,
WB, WTO… Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái
đích cần vươn tới,  thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên
quyết đối với các nước đang phát  triển trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản  độc quyền quốc tế.
Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ  mô
nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ
nhiên phần  bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển
trong đó có nước ta.
 
 Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn
cầu hoá đặt  ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện
chủ trương tăng trưởng kinh  tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì lợi  ích của toàn cầu hoá được
phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát triển
thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ
phận  dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực
của toàn cầu hóa; nguy  cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng
lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước  ta thực hiện các cam kết với WTO
sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần  70% dân số và lực
lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức  cạnh
tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách… Trong tình
hình như  đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm
cho sự phân tầng, phân  hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với
bản thân sự phát triển của đất nước. 
 Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an
ninh quốc  gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trên lĩnh vực an ninh quốc  gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức
tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính  truyền thống, đã xuất hiện các
nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh,  khủng bố…); cục
diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế bảo  đảm
an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc
phòng với  kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm vụ
vừa cơ bản vừa cấp bách  hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong một
thế giới toàn cầu hoá, tính tùy thuộc giữa  các nước sẽ tăng lên. Sự biến
động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới
sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước. Điều đó 
đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự
báo và phân  tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở
40 | P a g e
để nền kinh tế có khả năng  phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu
cực trước những biến động trên thị trường  thế giới, giữ vững an ninh kinh tế
và ổn định chính trị– xã hội.  
  Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng
đang đối  diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, toàn  vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị,
vai trò của nhà nước… Đã xuất hiện những  mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một  thị trường
không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ
quốc  gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các
nhà nước quốc gia,  áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây
trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết  "nhân quyền cao hơn chủ quyền"…
Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh
chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực chống đối trên nhiều  lĩnh vực. 
 
Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách
thức đan  xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội
và thách thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò
của nhân tố chủ quan có  tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động
lãnh đạo của Đảng, sự điều hành  quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự
cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực tế đã  chứng tỏ việc kiên định nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và  phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất  yếu đối
với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan 
trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế
quốc tế là  cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển, sớm
ra khỏi tình trạng  kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công,
hướng tới mục tiêu chiến lược  dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. 

PHẦN 3: KẾT LUẬN


Có thể thấy rằng công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết
của tình hình nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; có ý nghĩa như
một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, một sự nghiệp thật sự sáng tạo của nhân
dân ta; khẳng định con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của  lịch sử.
Với những thành tựu to lớn đã đạt được trên lĩnh vực đối ngoại, hội nhập
kinh tế quốc tế thì vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được khẳng định, giúp
41 | P a g e
đất nước ta bước sang giai đoạn tham gia liên kết quốc tế với một tâm thế hoàn
toàn mới. 
Ðể tận dụng và phát huy hơn nữa những thành tựu đạt được, nâng tầm sự
tham gia, đóng góp và vai trò, Việt Nam cần tập trung vào một số định hướng. Một
là, ưu tiên thực thi hiệu quả những cam kết trong các FTA và tại các cơ chế hợp tác
kinh tế mà chúng ta là  thành viên. Hai là, tiếp tục hoàn thiện, mở rộng mạng lưới
liên kết, hội nhập kinh tế song  phương và đa phương với các đối tác và tổ chức
trên thế giới. Ba là, cần nỗ lực và chủ động  tham gia quá trình định hình cấu trúc
khu vực, xây dựng các khuôn khổ, quy định quản trị kinh tế ở tầm khu vực, liên
khu vực và toàn cầu; đóng góp hiệu quả, trách nhiệm vào giải quyết những vấn đề
chung. 
Trên đây là toàn bộ bài thảo luận của nhóm 04 chúng em với đề tài: “Tìm
hiểu thành tựu hơn 30 năm đổi mới trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam”. Vì
trong thời gian có hạn nên có thể bài làm của nhóm chúng em không tránh khỏi
những thiếu sót. Nhóm 04 rất  mong nhận được sự đánh giá, góp ý từ cô để bài làm
được hoàn thiện hơn. 
Nhóm 4 xin chân thành cảm ơn cô !

42 | P a g e

You might also like