You are on page 1of 9

BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM

ĐỀ TÀI
SO SÁNH TƯ DUY VỀ TẬP HỢP LỰC LƯỢNG CỦA
VIỆT NAM
Giai đoạn 1975-1986 và 1986-1991

Môn: Chính sách đối ngoại Việt Nam


Lớp: TA46B
Sinh viên thực hiện:
Lê Phương Thảo
Vũ Thị Phương Thảo
Nguyễn Thị Thúy
Nguyễn Văn Tỉnh
Lê Nguyễn Vân Trang
Phan Huyền Trang
Bùi Thị Hải Yến

Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2021


LỜI MỞ ĐẦU

Giai đoạn 1975-1986 và 1986-1991 có thể coi là những dấu ấn đáng nhớ trong lịch sử
bởi lẽ nó đánh dấu đại thắng của ta trong cuộc kháng chiến cứu nước đầy gian khổ,
đồng thời cũng là khoảng thời gian ta phải đối mặt với sự bao vây cấm vận về kinh tế,
cô lập về chính trị. Một cái nhìn chung đã được phác thảo về chính sách đối ngoại: giai
đoạn 1975-1986 là mở rộng quan hệ và chống thế bao vây cấm vận, giai đoạn 1986-
1991 là bước ngoặt về đổi mới tư duy đối ngoại.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đổi mới tư duy đối ngoại là một trong những vấn
đề được đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên, cách thức hoạch định chính sách đối ngoại lại
xuất phát từ cơ sở rất căn bản là tư duy tập hợp lực lượng.

Kể từ cột mốc Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986), công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước nói chung và đổi mới tư duy đối ngoại, trong đó phải kể đến tư duy về vấn đề tập
hợp lực lượng nói riêng đã có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Việt Nam ta từ
chỗ chỉ “chơi” với các nước nội khối xã hội chủ nghĩa, phân biệt bạn – thù một chiều
đã chuyển sang mở rộng và phát triển hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng,
tôn trọng độc lập, chủ quyền không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Rõ ràng
thay đổi này tạo ra không gian hợp tác và phát triển rộng mở hơn cho Việt Nam, phát
huy được bài học kinh nghiệm quý báu là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại.

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP HỢP LỰC LƯỢNG

Tập hợp lực lượng là hình thành, phối hợp các hoạt động, xác lập các mối quan hệ,
trong khuôn khổ liên minh, liên kết các lĩnh vực, giữa các quốc gia nhằm đạt những
mục đích xác định.

Tập hợp lực lượng (THLL) là một khái niệm quan trọng trong quan hệ quốc tế, là một
trong những nền tảng cơ sở để các quốc gia hợp tác, phối hợp, liên kết với nhau nhằm
những mục đích chung. THLL có nhiều hình thức khác nhau, từ cấp độ tiểu khu vực
đến toàn cầu, từ hai bên đến nhiều bên, từ chặt chẽ đến lỏng lẻo, từ chiến lược đến
ngắn hạn… Có thể nói, đối với các cường quốc, THLL là cơ sở để tăng cường, thực thi

2
quyền lực; đối với các nước vừa và nhỏ, THLL có vai trò quan trọng trong việc gia
tăng vị thế, nâng cao sức mạnh quốc gia nhằm đối phó với các thách thức.

II. SO SÁNH
1. Tư duy về tập hợp lực lượng giai đoạn 1975-1986
a. Bối cảnh giai đoạn
 Thế giới

Trên thế giới, sự bùng nổ của cách mạng kỹ thuật số đã làm thay đổi từ tận gốc các lực
lượng lao động. Các quốc gia bắt đầu nhận thức rõ được tầm quan trọng của quan hệ
hợp tác và lấy đó làm xu hướng trong quan hệ quốc tế.    

 Trong nước                     

Bước ra từ chiến thắng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, trong kỷ nguyên cả
nước hòa bình, thống nhất, cả nước cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, tiến lên chủ
nghĩa xã hội, Việt Nam lại phải đối mặt với hàng loạt khó khăn trước mắt. Kinh tế hai
miền Nam, Bắc vẫn chưa có một mô hình phát triển thống nhất, cùng với đó là “tai
tiếng” từ các vấn đề như: “Thuyền nhân” (Boat people), “Hoa kiều”. Từ bên ngoài,
Việt Nam cũng chịu sức ép lớn từ việc: quan hệ Việt Nam - Campuchia căng thẳng rõ
rệt liên quan đến vụ việc chế độ diệt chủng Pol Pot, chiến tranh biên giới phía Bắc với
Trung Quốc bùng nổ năm 1979, Mỹ tiến hành bao vây, cấm vận ta từ năm 1975 và
quan hệ Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á chưa nhìn nhận được sự
chuyển hướng khả quan nào.

b. Tư duy tập hợp lực lượng giai đoạn 1975-1986

Trước tình hình trên, Việt Nam đã nhanh chóng xác định mục tiêu phải mở rộng quan
hệ, thể hiện qua nhiệm vụ đối ngoại trong Đại hội lần thứ IV của Đảng: “ra sức tranh
thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến
tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố
quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

Trong tư duy của ta lúc này, các quốc gia trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn là
những đồng minh đáng tin cậy. Tinh thần ấy được nêu cao qua khẩu hiệu “tăng cường
tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, làm
hết sức mình để góp phần làm cho lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác-Lênin ngày
3
càng thắng lợi rực rỡ.” hay “Chủ trương nhất quán của ta là bảo vệ và tăng cường mối
quan hệ anh em với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói rằng, cách định hình
mối liên minh này chủ yếu dựa trên sự cùng phe, cùng chiến tuyến hay chính là sự
chung nhất về ý thức hệ.

Trong giai đoạn này, ta coi Liên Xô như một đối tác chiến lược, là “hòn đá tảng của
chính sách đối ngoại”, “là nguyên tắc, là chiến lược, là tình cảm cách mạng”. Điều đó
chứng tỏ Liên Xô đóng vai trò trung tâm trong hoạch định chính sách đối ngoại của ta.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IV, ta đã nhận định cần “Đoàn kết và hợp tác toàn diện với
Liên Xô”. Trên tư duy đó, ta đã tiến hành hàng loạt những động thái hợp tác: ký hiệp
ước hữu nghị cùng hợp tác với Liên Xô vào năm 1978 và Hiệp định liên chính phủ cho
phép Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh - một căn cứ quân sự hàng đầu. Đây là “sự kiện
mang tính chất bước ngoặt và mang ý nghĩa chiến lược trong chính sách đối ngoại”.
Có thể thấy, quan hệ Việt - Xô không chỉ được xây dựng trên cơ sở ý thức hệ, lợi ích
mà còn ở cấp độ tình cảm, một điều hiếm gặp trong tư duy xác lập đồng minh trên thế
giới.

Trong mối quan hệ với hai nước Đông Dương là Lào và Campuchia, ta coi họ vừa là
anh em cùng chiến đấu vừa là đối tác cùng phát triển. Năm 1976, Bộ chính trị Đảng
lao động Việt Nam đã ra Nghị quyết về tăng cường đoàn kết, giúp đỡ đối với Lào như
một quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam. Đồng thời trong cuộc chiến
chống thảm họa diệt chủng Campuchia, sự can thiệp và giúp đỡ của ta đã thể hiện hiện
thái độ hào sảng, sự tương trợ với quốc gia chung ý thức hệ chung biên giới.

Trong giai đoạn 1975-1986, quan điểm của Việt Nam trong mối quan hệ với khối
ASEAN vẫn là hợp tác xen kẽ đấu tranh. Trong quá khứ, các nước đều có mối liên
quan đến Mỹ nên rất khó để ta đặt niềm tin tuyệt đối. Vì vậy, tuy đã đưa ra chính sách
bốn điểm và bình thường hóa với họ, “ta vẫn cho ASEAN là khối SEATO trá hình và
rất dè dặt trong tiếp xúc”. Do đó, khi ta đưa quân vào Campuchia, nhiều quốc gia có
phản ứng đối đầu rất quyết liệt và quyết cô lập ta buộc Việt Nam phải nhìn nhận
những quốc gia này là đối tượng để đấu tranh. Tuy nhiên, một số quốc gia như
Indonesia và Malaysia vẫn duy trì đối thoại với Việt nam, mở ra những cơ hội để hợp
tác cùng giải quyết vấn đề.

4
Bước ra từ đại thắng mùa xuân, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã được cử dẫn đầu sang
thăm Trung Quốc để bày tỏ sự tri ân với một đồng minh trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, việc Trung Quốc quay lưng lại với ta để xúc tiến quan hệ với Mỹ đã
khiến Việt Nam không còn nhìn nhận đây là chiến hữu đáng tin cậy. Lấy cớ liên quan
đến vấn đề Hoa kiều và Khơ Me đỏ, Trung Quốc tiến hành chiến tranh biên giới với ta
năm 1979. Trong những cuộc đàm phán, Việt Nam liên tục đưa ra “những biện pháp
cấp bách nhằm đảm bảo hòa bình, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước”.
Điều này chứng tỏ tuy tồn tại nhiều mâu thuẫn, ta vẫn coi Trung Quốc là một yếu tố
quan trọng cần phải duy trì quan hệ hòa bình bởi đó là cơ sở để bảo vệ mục tiêu an
ninh cũng như thực hiện mục tiêu phát triển. Nhưng trước những yêu sách của Trung
Quốc và hành động tiến hành đánh chiếm biên giới ác liệt, ta buộc phải nhìn nhận
Trung Quốc như “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp nhất” ghi trong Hiến pháp năm 1980.

Trong giai đoạn này, Việt Nam nhận định Mỹ và các nước đế quốc là kẻ thù về mặt ý
thức hệ. “Nhân dân ta nghiêm khắc lên án những âm mưu và hành động hiếu chiến 8
của đế quốc Mỹ, đứng đầu các giới đế quốc quân phiệt và các thế lực phản động quốc
tế.”. “Ta vẫn cho Mỹ là kẻ thù nguy hiểm và không quan tâm lắm đến việc bình
thường hóa quan hệ với Mỹ”. Tuy nhiên, mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ đã cản trở
việc bình thường hóa quan hệ cộng thêm việc cấm vận kinh tế đã tạo nên nhiều thách
thức cản trở mục tiêu phát triển đất nước, Việt Nam vẫn nhìn nhận Mỹ như một kẻ thù
nguy hiểm lâu dài.

2. Tư duy về tập hợp lực lượng giai đoạn 1986-1991


a. Bối cảnh

Từ 1986 – 1991, Việt Nam tuy đã có hướng mở rộng quan hệ với các nước những vẫn
còn giữ tư duy tập hợp lực lượng trên cơ sở ý thức hệ.

 Tình hình thế giới:

Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu thập kỷ 90, chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế.
Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối
độc lập do Liên Xô và Hoa kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra hình

5
thành một trật tự thế giới mới. Châu Á – Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu
vực ổn định, có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và
hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.

 Tình hình trong nước:

Tại Việt Nam sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nửa
cuối thập kỷ 70 tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó
khăn, cản trở cho sự phát triển của các mạng Việt Nam, là một trong những nguyên
nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng ở nước ta. Ở trong
nước, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan khác, nền kinh
tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối
với cách mạng Việt Nam. 

b. Thay đổi trong tư duy tập hợp lực lượng

Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (2/1985) “chủ trương chuyển từ đối đầu sang
đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, với các đối tác chính”, khẳng định xu thế đối
thoại giữa hai nhóm nước ở Đông Nam Á là ASEAN và ba nước Đông Dương.1 Đây
có thể xem là định hướng ban đầu cho một bước đột phá trong tư duy đối ngoại.
Chúng ta chủ trương quan hệ rộng rãi với các nước, không phân biệt chế độ chính trị,
thậm chí với cả các nước trước đây có lúc là kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta. Riêng
đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đại hội VI đã thể hiện thiện chí: ''Chúng
ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết
các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông
Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”.2

Trước những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới (Đông Âu sụp
đổ, Liên Xô đang trên đường tan rã, thế đối đầu hai cực dần đi đến hồi kết), Bộ Chính
trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết 13 (5-1988) về "nhiệm vụ và chính sách đối ngoại
trong tình hình mới" với chủ đề "giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế”. Nghị quyết chỉ
ra “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta sau khi giải phóng miền Nam, cả nước
thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung
xây dựng và phát triển kinh tế”, đồng thời nhấn mạnh chính sách "thêm bạn bớt thù",

6
đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi. Lúc
này, để giải tỏa sức ép trong vấn đề Campuchia và khai thông quan hệ với các nước
khác thì ASEAN là một “trung gian” đầy tiềm năng.

Tư duy bạn thù đơn giản một chiều dựa trên ý thức hệ là chính đã bó buộc Việt Nam
chỉ quan hệ với các nước XHCN, xem mình là thành trì, là người lính tiền đồn của chủ
nghĩa xã hội (CNXH) ở Đông Nam Á. Việt Nam đưa quân vào Campuchia với một
trong những lý do là để thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả; tuy nhiên, vấn đề
Campuchia lại trở thành một chướng ngại lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng, phát
triển quan hệ với các nước. Việt Nam muốn đặt quan hệ, mở rộng hợp tác với ASEAN
thì trước hết phải phá thế bao vây cấm vận, giải quyết được vấn đề Campuchia.

Tuy nhiên đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng nói chung, việc củng cố quan hệ với
ASEAN nói riêng ở giai đoạn 1986 - 1991 còn rất hạn chế do hai nguyên nhân chủ
yếu. Một là, giai đoạn trước năm 1986, do lăng kính ý thức hệ, Việt Nam xem ASEAN
là một khối SEATO trá hình do Mỹ chi phối, hơn nữa, ta lại tự cho mình là người lính
tiền đồn chống chủ nghĩa tư bản ở Đông Nam Á nên đã không coi trọng hợp tác với
ASEAN. Hai là, trước năm 1990 hoạt động của ASEAN bị cuốn vào các vấn đề chính
trị nhất là “vấn đề Campuchia”, đồng thời các nước ASEAN chưa coi trọng hợp tác
nội khối mà vẫn hướng ra ngoài cho nên ASEAN “thế và lực” chưa mạnh và các hợp
tác về kinh tế thương mại chưa cao, nên cũng chưa là điểm nhắm đến của Việt Nam.3 

Cùng với đó, tại Đại hội VII (1991), Đảng ta đã nêu ra chủ trương “Thúc đẩy quá trình
bình thường hóa với Hoa Kỳ”. Ta tập trung giải quyết 2 vấn đề Mỹ quan tâm: vấn đề
Campuchia và vấn đề MIA (Hợp tác tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh tại
Việt Nam).4 Về vấn đề Campuchia, với chủ trương rút ra khỏi vấn đề Campuchia của
ta và sự kết thúc của chiến tranh lạnh, vấn đề Campuchia nhanh chóng được giải tỏa
trong quan hệ Việt-Mỹ. Ta rút hết quân tình nguyện khỏi Campuchia ngày 26/9/1989,
Việt Nam đã ký hiệp định Paris về Campuchia và hoàn toàn tôn trọng hiệp định. Mỹ
đã đánh giá cao thái độ xây dựng và hợp tác của Việt Nam trong vấn đề này. Về vấn
đề MIA: Vấn đề này rất quan trọng với chính quyền Mỹ và là vấn đề gây cản trở lớn
nhất trong quan hệ Việt-Mỹ rất khó giải quyết vì chiến tranh đã lâu và địa hình thay
đổi. 

7
III. Đánh giá

Như vậy, qua phân tích chi tiết ở 2 giai đoạn trên, ta có thể thấy rõ được sự
chuyển biến trong tư duy về tập hợp lực lượng. Ở giai đoạn đầu tiên, chúng ta tập
trung vào việc nâng cao mục tiêu an ninh hơn kinh tế. Đứng trước 3 dòng thác cách
mạng, nước ta vẫn tuy thống nhất nhưng vẫn đặt ra mục tiêu “chống bao vây cấm vận”
trên thế bị động. Từ bối cảnh và các vấn đề tồn đọng trong nước, tư duy tập hợp lực
lượng lúc này của chúng ta là an ninh đứng đầu, được ưu tiên và mang tính chất cần
thiết. Ta luôn coi trọng hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa, tư duy phân
rõ bạn thù, chú trọng đấu tranh và hợp tác 1 chiều. Điều này thể hiện rõ qua hình ảnh
bạn - thù ở trên báo Nhân Dân và Tạp chí Cộng sản ở thời điểm này. Với Mỹ, ta coi
Mỹ là kẻ thù cơ bản lâu dài, đặt ra nhiều điều kiện cho việc bình thường hóa quan hệ
giữa 2 nước. Điều đó dẫn đến sự mất cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đẩy
ngoại giao Việt Nam rơi vào “thế kẹt” trong mười năm trước đổi mới, đánh mất cơ hội
bình thường hóa quan hệ với Mỹ.

Đến giai đoạn 1986-1991, chúng ta thay đổi lăng kính tư duy tập hợp lúc này từ
ưu tiên an ninh thành kinh tế, trong chính sách tập hợp lực lượng. Chúng ta đánh giá
cao hơn lợi ích quốc gia dân tộc, có được những nhìn nhận rõ hơn biến chuyển của các
mối quan hệ trên thế giới, thay đổi góc độ, hành động với nhiều vấn đề, đối tác. Ví dụ
như đối với Đông Nam Á, ta đã thay đổi cái nhìn, chủ động và thân thiện hơn với
ASEAN.  Nghị quyết 13, khóa VI đưa ra 3 mục tiêu của đối ngoại (An ninh – Phát
triển – Ảnh hưởng): đặt mục tiêu phát triển hàng đầu, an ninh hàng thứ và ảnh hưởng
sau (khác so với sau 1975 khi Việt Nam vẫn phải đặt an ninh hàng đầu). Trong phát
triển, cần ưu tiên kinh tế nhất, quốc phòng chỉ cần “vừa đủ mạnh” và mở rộng hợp tác
quốc tế. Chúng ta cũng đề cập đến quan điểm mới: làm nghĩa vụ quốc tế là để nhân
dân các nước tự quyết vận mệnh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở chính nước
mình. Về mặt quan hệ quốc tế, ta cần “thêm bạn bớt thù”. Đây chính là dấu mốc thực
sự của sự đổi mới tư duy tập hợp lực lượng của Việt Nam. Chính sách đa phương hóa
chính thức xuất hiện. Cặp phạm trù hợp tác - đấu tranh đến thời điểm đó không còn là
1 chiều nữa mà là 2 mặt tất yếu và đối lập của 1 vấn đề và luôn đi song hành với nhau.

8
KẾT LUẬN CHUNG

Để so sánh 2 giai đoạn với nhau, ta có thể thấy tư duy tập hợp lực lượng ở 2
giai đoạn đều luôn hướng tới việc phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc, giữ vững an ninh
và phát triển đất nước. Tuy nhiên, ta cũng thấy rõ được nhiều điểm khác nhau ở tư duy
tập hợp lực lượng ở 2 giai đoạn.

Nếu ở giai đoạn 1975-1986, ta phân biệt bạn thù một cách cứng nhắc và rạch
ròi, hoàn toàn dựa trên ý thức hệ và “góc nhìn từ quá khứ”. Ngược lại, từ giai đoạn
1986-1991, tư duy về tập hợp lực lượng của chúng ta linh hoạt hơn, không còn cứng
nhắc rập khuôn dựa trên ý thức hệ nữa mà trú trọng hơn vào lợi ích quốc gia dân tộc,
đặt lợi ích quốc gia lên trên nghĩa vụ quốc tế. Chúng ta chuyển phương pháp từ đối
đầu sang đối thoại kết hợp hợp tác đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình.

Bên cạnh đó, các ta cũng có thể thấy được sự thay đổi trong tư duy về quy mô
tập hợp lực lượng. Ở giai đoạn 1975-1986, quan hệ ngoại giao của chúng ta không mở
rộng mà chỉ nằm nội bộ với Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa. Chỉ đến khi các
nghị quyết của Đại hội Đảng VI và trung ương được đề ra, chúng ta mới manh nha có
tư duy với về “thêm bạn bớt thù”, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, thực hiện đa
phương hóa, đang dạng hóa các mối quan hệ quốc tế. Cũng ở 2 giai đoạn này, ta có thể
thấy được sự chuyển biến về thứ tự ưu tiên tập hợp lực lượng. Nếu ở giai đoạn trước là
các nước đồng minh chiến lược thì ở giai đoạn sau ta tập trung vào các nước láng
giềng khu vực, tập trung giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, nâng cao hiệu quả
hợp tác kinh tế quốc tế Đặc biệt là với Liên Xô, nếu sau giai đoạn Độc lập thì ta coi
Liên Xô là “hòn đá tảng”. Khi Đổi mới bắt đầu được thực thi thì dựa theo những thay
đổi trong chính sách, ta đã giải quyết vấn đề về Campuchia, bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc và đặc biệt là giải quyết được các vấn đề với các nước trong ASEAN. 

Nhìn vào kết quả ta có thể thấy rõ việc đổi mới tư duy thực sự đem lại nhiều lợi
ích cho đất nước dân tộc, giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra tại thời điểm đó, để lại
nhiều bài học sâu sắc cho đến ngày nay, đặc biệt là bài học về “lợi ích quốc ta dân
tộc”.

You might also like