You are on page 1of 13

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY

TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL


ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn

HỢP TÁC VIỆT NAM – ASEAN TRONG GIẢI QUYẾT


“VẤN ĐỀ CAMPUCHIA” (1986-1991)
Vietnam – Asean cooperation in resolving “Cambodian problem” (1986-1991)

ThS.NCS. Trần Hùng Minh Phương


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM

Tóm tắt
Quan hệ Việt Nam và ASEAN là mối quan hệ có ý nghĩa vô cùng cần thiết, quan trọng trong việc phát
triển kinh tế cũng như ổn định an ninh chính trị trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với tư cách là thành viên chính thức vào ngày 28 tháng 7 năm 1995.
Đây là sự phát triển mang ý nghĩa lớn đối với ASEAN và là minh họa cho sự thay đổi diễn ra ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Bài viết nêu lên những điểm nổi bật
trong hợp tác giải quyết “vấn đề Campuchia” giữa Việt Nam và ASEAN (1986-1991), qua đó khẳng
định vị trí của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và trên trường quốc tế. Việt Nam và ASEAN cùng
tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn đề này, chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại, hợp tác, phát
triển và cùng tồn tại hoà bình.
Từ khóa: Đông Nam Á, giải quyết, sự hợp tác, “Vấn đề Campuchia”, Việt Nam – ASEAN.
Abstract
Vietnam and ASEAN relations are essential and important in developing economy as well as stabilizing
political security in the region and the world. Vietnam joined the Association of Southeast Asian
Nations as a full member on 28 July 1995. This is both a highly significant development for ASEAN
and an illustration of the extent of change underway in the Asia-Pacific region in the post Cold War era.
This article presents the highlights of cooperation in resolving“Cambodian Problem” between Vietnam
and ASEAN (1986-1991), affirming Vietnam's position in Southeast Asia and the world. Vietnam and
ASEAN together find a synchronous solution to this problem, moving from confrontational state to
dialogue, cooperation, development and peaceful coexistence.
Keywords: Southeast Asia, resolve, cooperation, “Cambodian Problem”, Vietnam– ASEAN.

1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và 12 năm 1978) và nước Cộng hoà Nhân dân
Việt Nam nửa sau thập niên 1980 Campuchia được thành lập (ngày 07 tháng
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực 1 năm 1979) và cũng từ lúc này quan hệ
Đông Nam Á đối ngoại của Việt Nam ngày càng xấu đi
Theo lời yêu cầu và nguyện vọng của [2, tr.351]. Sự kiện này đã làm nảy sinh sự
những người yêu nước Campuchia, Việt bất đồng giữa hai nhóm nước, trong đó các
Nam đưa quân tình nguyện sang giúp nhân quốc gia ASEAN đã thực hiện chính sách
dân Campuchia lật đổ chế độ PolPot (tháng đối đầu với Việt Nam và các nước Đông
Email: tranhungminhphuong@gmail.com
83
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)

Dương với cái gọi là “vấn đề Campuchia”. chủ trương đa dạng – đa phương hoá quan
Đó cũng chính là âm mưu của các nước hệ quốc tế và chú trọng hợp tác – liên kết
lớn, chính là sự tác động từ bên ngoài khu khu vực.
vực. Trong tháng 1 năm 1979, Hội đồng Tháng 3 năm 1985, M.Gorbachov
Bảo an Liên hợp quốc đã thông qua hai được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
nghị quyết về Campuchia tại phiên họp lần Liên Xô, đồng thời Liên Xô thay đổi chính
thứ 2108 [13, tr.104]: Nghị quyết thứ nhất: sách đối ngoại với Mỹ và Trung Quốc, vấn
Tiếp tục công nhận Pol Pot là đại diện hợp đề này đã ảnh hưởng rất lớn đến Việt
pháp của Campuchia; Nghị quyết thứ hai: Nam. Ngày 02 tháng 12 năm 1989, tại
Đòi quân đội Việt Nam rút ngay ra khỏi Malta (quốc gia ở Nam Âu), Gorbachov
Campuchia. Cơ hội thúc đẩy hoà bình, hợp gặp gỡ không chính thức Tổng thống Mỹ
tác hữu nghị ở khu vực Đông Nam Á lại Bush, hai bên đã đạt được một số thoả
thêm một lần nữa bị bỏ qua. thuận về giải trừ quân bị, trao đổi ý kiến về
Đến giữa những năm 80, các nước lớn tình hình nhiều điểm nóng trên thế giới và
đi vào hoà hoãn, hợp tác giải quyết các tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tranh
vấn đề khu vực, trong đó có “vấn đề lạnh giữa hai nước. Sau Malta, quan hệ
Campuchia”. Các quốc gia trong tổ chức Mỹ và Liên Xô bước vào giai đoạn giảm
ASEAN cũng từng bước điều chỉnh quan dần xu thế đối kháng, thoả hiệp và hợp tác
hệ với Việt Nam, hợp tác tìm giải pháp cho cùng phát triển.
vấn đề Campuchia có lợi cho hoà bình, ổn Trong thời gian này, Trung Quốc tiếp
định trong khu vực và nâng cao vai trò của tục dùng “vấn đề Campuchia” tạo khó
ASEAN. khăn cho Việt Nam, làm con bài mặc cả
Bước vào thập kỷ 90, vị thế của với Liên Xô, gây ảnh hưởng với ASEAN,
ASEAN đã dần thay đổi diễn ra trên hai tạo thuận lợi thu hút vốn và kỹ thuật của
lĩnh vực: Tính liên kết khu vực bước vào Mỹ và phương Tây phục vụ cho chiến lược
thập kỷ 90 và vai trò độc đáo của ASEAN vươn lên cường quốc của mình [5, tr.71].
tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương Chiến tranh lạnh kết thúc tạo điều kiện cho
dưới hình thức tổ chức quốc tế có tính Trung Quốc gây ảnh hưởng của mình ở
khu vực. Bối cảnh địa – chính trị khu vực Đông Nam Á. Những điều kiện đó chính
đầu thập niên 1990 cũng không có nhiều là: Ảnh hưởng của Mỹ và Nga đang giảm
khác biệt so với năm 1967. Năm quốc gia xuống trong khu vực; các quốc gia ASEAN
thành lập ASEAN là Indonesia, Malaysia, cần mở rộng quan hệ hợp tác với Trung
Philippines, Singapore và Thái Lan nhận Quốc cả về chính trị lẫn kinh tế [14, tr.87].
thấy phải đưa khu vực Đông Nam Á tránh Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại
xa những hệ quả mà chiến tranh lạnh gây giao giữa hai nước Việt Nam và Trung
ra, cần phải đoàn kết ASEAN chặt chẽ, Quốc, cả hai nước đều muốn bình thường
gắn bó hơn bao giờ hết. Mục đích của các hóa quan hệ với nhau, gác lại những xung
quốc gia ASEAN là cần gắn bó với phần đột trong quá khứ, mặc dù hai bên đã có
còn lại của khu vực, nghĩa là phải hoà giải xung đột trong thời gian dài trong
với Việt Nam. Sự điều chỉnh chính sách cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung
đối ngoại của ASEAN đều nhấn mạnh năm 1979 và xung đột trên biển Đông năm

84
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

1988. Từ năm 1989, nhằm tạo điều kiện xã hội trên phạm vi cả nước (1975-1986),
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền kinh tế mang đậm bản sắc nông dân –
Tổ quốc, quan hệ Việt Nam với Trung nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá
Quốc và Mỹ cùng một số nước được cải nặng nề, mô hình phát triển gắn với cơ chế
thiện, Năm 1990, tổ chức ba vòng đàm kế hoạch hoá tập trung có những khiếm
phán cấp thứ trưởng ngoại giao Việt Nam – khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm
Trung Quốc, thảo luận việc bình thường vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.
hoá quan hệ Việt – Trung. Kế hoạch kinh tế 5 năm (1976 – 1980) của
Từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9 năm đất nước chưa thu hẹp được những mất cân
1990, các nhà lãnh đạo hai nước Việt Nam đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc
và Trung Quốc đã gặp nhau không chính dân. Sản xuất phát triển chậm, thu nhập
thức tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên chưa bảo đảm tiêu dùng xã hội; nền kinh tế
(Trung Quốc) [5, tr.72]. Cuộc gặp này, về chưa có tích luỹ từ bên trong. Đời sống
thực chất đã là bình thường hoá quan hệ nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Đại hội
giữa Việt Nam – Trung Quốc và khôi phục VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam là
tình hữu nghị truyền thống lâu đời giữa sự đổi mới tư duy về tất cả các mặt an ninh
nhân dân hai nước. Kết quả của hội nghị là – phát triển, lợi ích quốc gia – nghĩa vụ
một loạt các thay đổi trong chính sách đối quốc tế, hợp tác – đấu tranh. Đồng thời,
nội và đối ngoại giữa Việt Nam – Trung Việt Nam xác định những nhiệm vụ chiến
Quốc, Việt Nam – Mỹ và Việt Nam với lược: hoà bình và phát triển, thoát khỏi
ASEAN. khủng hoảng kinh tế - xã hội, thoát khỏi
Tháng 3 năm 1991, Thủ tướng Trung bao vây và cấm vận.
Quốc Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Việt – Tháng 12 năm 1986, đường lối “đổi
Trung tan băng”. Tháng 9 năm 1991 Bộ mới” do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng
trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn sản Việt Nam phát khởi đã tạo ra một bước
Mạnh Cầm đến Bắc Kinh, ra thông cáo ngoặt mà ba năm sau đó (Hội nghị Trung
khôi phục trao đổi và hợp tác về kinh tế, ương 6, khóa VI, tháng 9 năm 1989) đã
thương mại, khoa học và công nghệ, giao chuyển hẳn nền kinh tế Việt Nam sang cơ
thông vận tải và văn hoá, bình thường hóa chế thị trường định hướng XHCN, và
quan hệ Trung - Việt. Từ ngày 1 đến 4 đường lối đó vẫn được tiếp tục duy trì đến
tháng 12 năm 1991, đoàn đại biểu cấp cao nay. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn
Đảng và Chính phủ Việt Nam sang thăm ra từ hai chiều: “từ dưới lên” tức là ở các
chính thức Trung Quốc. Hai bên đã ra hợp tác xã, doanh nghiệp và “từ trên
thông cáo chung và ký kết một số hiệp xuống” tức là các quyết định của Đảng và
định. Thông cáo chung giữa Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Trung Quốc khẳng định quan hệ hai nước Nam. Mối liên hệ hai chiều ấy đã làm cho
đã được bình thường hoá và sẽ phát triển công cuộc đổi mới ở Việt Nam thành công.
trên cơ sở nguyên tắc chung sống hoà bình. Cũng từ sau Đại hội VI, Đảng Cộng sản
1.2. Tình hình trong nước Việt Nam đã từng bước thực hiện mục tiêu
Trước thời kỳ đổi mới, nhất là trong của hoạt động đối ngoại là giữ vững hoà
hơn 10 năm tiến hành xây dựng chủ nghĩa bình, tranh trủ các điều kiện quốc tế thuận

85
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)

lợi để đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ Campuchia, đã làm cho các quốc gia
nghĩa xã hội. ASEAN lo ngại. Trong cuộc họp với các
Từ năm 1986 đến 1990, là giai đoạn nước ASEAN từ ngày 12 đến 13 tháng 1
đầu của công cuộc đổi mới. Kết thúc kế năm 1979, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia
hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi cùng với các Bộ trưởng Ngoại giao các
mới đã đạt được những thành tựu bước đầu nước ASEAN ra tuyên bố chung lên án sự
rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng “xâm lược của nước ngoài” ám chỉ Việt
giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân Nam tại Campuchia. Cũng trong tháng 9
3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân năm 1979, Indonesia cùng với các quốc gia
7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu ASEAN chống lại đề nghị của Việt Nam
dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch dành chiếc ghế của Khmer Đỏ tại Liên hợp
xuất khẩu tăng 28%/năm [10, tr.141]. quốc cho Cộng hoà nhân dân Campuchia,
Chính “vấn đề Campuchia”đã làm được thành lập tháng 1 năm 1979. Những
cho quan hệ chính trị căng thẳng kéo theo sự kiện này làm quan hệ giữa Việt Nam
quan hệ kinh tế thương mại ngày càng bị và các quốc gia thành viên ASEAN
hạn chế giữa Việt Nam và các quốc gia giảm xuống nhanh chóng. Mặc dù vậy,
trong tổ chức ASEAN. Trong thập niên 80, Indonesia không xem Việt Nam là nguy cơ
quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam của sự mất ổn định khu vực [8, tr.107].
và ASEAN chỉ còn tồn tại trên giấy tờ, trừ Indonesia nhìn nhận sự có mặt của quân
Singapore là khách hàng trung gian, là thị tình nguyện Việt Nam ở Campuchia xuất
trường chuyển khẩu của Việt Nam nên phát từ lợi ích của Việt Nam trong hoàn
mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và cảnh quan hệ Việt – Trung có nhiều căng
Singapore vẫn được duy trì và phát triển. thẳng, không tốt đẹp và quan hệ Trung –
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Xô đối đầu trong giai đoạn này.
Việt Nam lần VI (1986) đã nêu rõ: “Chính Tháng 11 năm 1979, Ngoại trưởng các
phủ ta chủ trương tiếp tục rút quân tình nước ASEAN họp tại Bali (Indonesia) bàn
nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, đồng về cuộc khủng hoảng người tị nạn. Trong
thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để cuộc họp này, nhiều nước ASEAN đã lên
đi tới giải pháp chính trị đúng đắn về tiếng chống Việt Nam. Từ năm 1979, các
Campuchia” [4, tr.108]. Đại hội VI của quốc gia trong ASEAN luôn cùng Mỹ,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Trung Quốc và các nước phương Tây mở
“chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng chiến dịch đòi Việt Nam rút quân khỏi
các nước trong khu vực thương lượng để Campuchia. Các hoạt động của ASEAN
giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết trong giai đoạn này hợp tác quân sự song
lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây phương và đa phương trên cơ sở “phi
dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ASEAN”, kêu gọi sự trợ giúp của Mỹ và
ổn định và hợp tác” [4, tr.108]. Trung Quốc, nuôi dưỡng các lực lượng
2. Hợp tác Việt Nam – ASEAN trong chống đối tại Campuchia… Các hoạt động
việc giải quyết "vấn đề Campuchia" ngoại giao của ASEAN nhằm mục đích lên
Sau ngày 7 tháng 1 năm 1979, sự có án và cô lập Việt Nam và các nước Đông
mặt của quân đội tình nguyện Việt Nam tại Dương khác chứ không thực chất đề nghị

86
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

đối thoại. Song song với các nỗ lực ngoại của việc nếu Đông Nam Á trở thành một
giao vận động tại các tổ chức quốc tế, viện địa bàn của sự thù địch gay gắt Trung –
dẫn luật pháp quốc tế, ASEAN còn phối Xô. ASEAN cho rằng Việt Nam giảm ảnh
hợp với Trung Quốc và Mỹ gây sức ép đối hưởng ở Campuchia thì Trung Quốc sẽ
với Việt Nam bằng cách dựng lên và nuôi tăng vai trò ở khu vực Đông Nam Á và
dưỡng Chính phủ liên hiệp đối lập ở Đông Dương. Ngược lại, thì vai trò và sự
Campuchia. có mặt của Liên Xô ở Đông Dương sẽ tăng
Sự ra đời của Chính phủ liên hiệp lên. Có sự khác nhau trong nhận định của
Campuchia Dân chủ (22-6-1982) đã làm ASEAN giữa một bên là Indonesia,
tăng vị thế quốc tế của ASEAN và đem lại Malaysia và bên kia là Thái Lan, Singapore
sức sống mới cho các phe phái Campuchia về nguy cơ Trung Quốc mở rộng ảnh
chống Việt Nam. Số nước bỏ phiếu ủng hộ hưởng ở Đông Nam Á. Các quốc gia
nghị quyết do ASEAN đưa ra chống Việt ASEAN đều nhất trí cố gắng tạo điều kiện
Nam tăng từ 91 năm 1979 lên con số kỉ lục để quân tình nguyện Việt Nam sớm rút
114 nước vào năm 1985. Cả ASEAN và quân khỏi Campuchia, Việt Nam sớm
Mỹ phát triển một chương trình viện trợ chấm dứt tình trạng bị cô lập trên thế giới
kinh tế, quân sự, và đào tạo cho các phe [11, tr.74].
phái trong Chính phủ liên hiệp. Ngoài hỗ Từ 1979 đến 1985, Việt Nam tiếp tục
trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng
Đỏ, Trung Quốc và Bắc Hàn cũng cung tốt với các quốc gia trong tổ chức ASEAN,
cấp viện trợ cho các phái này. Nhờ đó, lực tôn trọng độc lập chủ quyền của các nước
lượng quân sự của Chính phủ đối lập này trong khu vực Đông Nam Á, góp phần làm
đã phát triển [7, tr.392]. cho khu vực trở thành hoà bình và ổn định.
ASEAN coi việc quân tình nguyện Từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 8 năm
Việt Nam ở Campuchia là trở ngại chính 1986, tại 13 cuộc Hội nghị bộ trưởng
trong việc bình thường hoá quan hệ giữa Ngoại giao ASEAN, Việt Nam đã nhiều
ASEAN với Việt Nam. Hàng năm ASEAN lần đưa ra các đề nghị về hoà bình và hợp
đều bảo trợ nghị quyết của Liên hợp quốc tác ở khu vực Đông Nam Á.
(1979-1989) về Campuchia, cụ thể đòi Ngày 05 tháng 1 năm 1980, tại Hội
quân đội nước ngoài rút và ủng hộ ghế của nghị ba ngoại trưởng Việt Nam, Lào và
phái Campuchia Dân chủ (Khmer Đỏ). Campuchia họp lần đầu tiên ở Phnom
Với mong muốn khu vực Đông Nam Penh, Việt Nam đã đưa ra đề nghị giải
Á là khu vực hoà bình và ổn định để phát quyết hoà bình và ổn định ở Đông Nam Á,
triển và hội nhập, tại kỳ họp Ủy ban bao gồm cả “vấn đề Campuchia” [18,
thường trực ASEAN, Bộ trưởng Ngoại tr.137]. Cũng vào tháng 1 năm 1980, Việt
giao Malaysia đã nói rằng: “Vấn đề Nam đã đề nghị ký Hiệp định không xâm
Campuchia cản trở tiến bộ kinh tế”. Ông lược giữa các nước Đông Nam Á và chủ
đã nhấn mạnh: “ASEAN không nên để vấn trương sẵn sàng thảo luận việc thành lập
đề Campuchia cản trở tiến bộ kinh tế, thay một “khu vực Đông Nam Á hoà bình, độc
vào đó cần hợp tác với nhau hơn nữa” [1]. lập, tự do, trung lập, ổn định và phồn vinh”
Các quốc gia ASEAN nhận thức rõ hậu quả (thực chất là Việt Nam chấp nhận

87
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)

ZOPFAN) với các nước ASEAN. Từ năm Nam và ASEAN (đại diện là Indonesia)
1981, Việt Nam đã đề nghị ba nước Đông được tiến hành theo đường lối hoà bình,
Dương mở các cuộc đối thoại giữa hai rộng mở đã đạt được một số kết quả khả
nhóm nước Đông Dương và ASEAN nhằm quan và tốt đẹp. Điều này làm dịu bớt thái
tìm ra các giải pháp giải quyết các vấn đề độ căng thẳng của các quốc gia ASEAN về
thuộc lợi ích chung của hai bên [3, tr.225]. vấn đề Campuchia
Tại Hội nghị lần thứ ba Ngoại trưởng Nội dung Nghị quyết 32 của Bộ Chính
Đông Dương tháng 3 năm 1981, Việt Nam trị Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá V,
đề nghị ba nước Đông Dương cùng Trung tháng 7-1986) được xem là chính sách
Quốc ký hiệp định về cùng tồn tại hoà bình xuyên suốt của Việt Nam, giải quyết “vấn
giữa ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam đề Campuchia” chính là điểm mấu chốt
với Trung Quốc, có thể song phương. Tiếp giúp Việt Nam thực hiện được đường lối
theo, tại Hội nghị lần thứ 6 Bộ trưởng chính sách đối ngoại đã đặt ra đồng thời
Ngoại giao ba nước Đông Dương, nhằm đẩy nhanh quá trình hợp tác, đưa chính
góp phần ổn định khu vực Đông Nam Á và sách đối ngoại với ASEAN trở thành hiện
giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã thực cụ thể. Thực hiện Nghị quyết Đại hội
tuyên bố hàng năm rút một bộ phận quân Đảng toàn quốc lần VI, và các Nghị quyết
tình nguyện. Vào ngày 07 tháng 7 năm Hội nghị Trung ương, Nhà nước Việt Nam
1981, một bộ phận quân đội Việt Nam đầu đã có một loạt điều chỉnh về chính sách có
tiên rút về nước [15, tr.175]. ý nghĩa chiến lược nhằm phá thế bao vây,
Tháng 9 năm 1981, tại Liên hợp quốc, cô lập, tạo môi trường quốc tế thuận lợi
Lào thay mặt ba nước Đông Dương đưa ra cho việc thực hiện công cuộc đổi mới: Thứ
7 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai nhất, Việt Nam rút từng phần và rút hết
nhóm nước Đông Dương và ASEAN “vì quân tình nguyện ra khỏi Campuchia; Thứ
một Đông Nam Á hoà bình, ổn định, hữu hai, Việt Nam đổi mới quan hệ hợp tác với
nghị và hợp tác” [9, tr. 88]. Lào và Campuchia; Thứ ba, Việt Nam thúc
Từ tháng 7 năm 1982, Việt Nam tiếp đẩy từng bước bình thường hoá quan hệ
tục rút một phần quân đội Việt Nam khỏi với Trung Quốc; Thứ tư, Việt Nam từng
Campuchia [5, tr.68] và tuyên bố sẽ rút bước cải thiện với các nước nói chung và
thêm một số lượng quân đội nữa nếu Thái với ASEAN nói riêng.
Lan chấm dứt để cho bọn tàn quân Khmer Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba
Đỏ và các thế lực Khmer phản động khác nước Đông Dương lần thứ 12 (ngày 24-01-
sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ quân 1986) đã làm rõ thêm hai mặt của “vấn đề
sự, yêu cầu Thái Lan phải chấm dứt việc Campuchia”:
cung cấp vũ khí, trang thiết bị quân sự và 1) Về mặt nội bộ Campuchia: Nội bộ
lương thực cho Khmer Đỏ chống lại nhân là phải do các bên Campuchia giải quyết,
dân Campuchia. không có sự can thiệp của bên ngoài;
Từ cuối năm 1983 đến 1984, xu thế 2) Về mặt quốc tế: Thoả thuận về việc
đối thoại giữa ASEAN và các nước Đông rút quân tình nguyện Việt Nam đi đôi với
Dương trong đó có Việt Nam ngày càng việc chấm dứt cung cấp viện trợ, vũ khí và
trở nên rõ rệt. Các cuộc đối thoại giữa Việt cho sử dụng lãnh thổ Thái Lan đối với Pol

88
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Pot, chấm dứt sự can thiệp vào công việc coi Việt Nam là mối đe doạ với Philippines
nội bộ của Campuchia, tiến tới cùng tồn tại và Philippines không phản đối khi Việt
hoà bình giữa các nước trong khu vực để Nam muốn gia nhập ASEAN.
lập khu vực hoà bình, ổn định ở Đông Từ ngày 13 đến 20 tháng 6 năm 1988,
Nam Á. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn
Tháng 8 năm 1986, Hội nghị Bộ Cơ Thạch sang thăm Vương quốc Thái Lan
trưởng Ngoại giao ba nước Việt Nam – giải toả căng thẳng quan hệ giữa hai nước.
Lào – Campuchia lần thứ 13 khẳng định ba Ngày 25 tháng 8 năm 1988, cuộc gặp gỡ
nước sẵn sàng hợp tác với các bên để tìm giữa hai nhóm nước Đông Dương và
một giải pháp trên cơ sở Việt Nam rút hết ASEAN và các phe phái Campuchia đã tổ
quân tình nguyện và loại trừ Pol Pot. chức Hội nghị JIM-I [12, tr.401]. Vào năm
Từ ngày 15 đến 16 tháng 6 năm 1987, 1988, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các quốc Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố ý định của Việt
gia ASEAN lần thứ 20 họp tại Singapore. Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Hội nghị bàn về các vấn đề hợp tác kinh tế. Nam Á. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt
“Vấn đề Campuchia” cũng là vấn đề lớn quan trọng đối với sự phát triển của
cũng được thảo luận tại hội nghị này. Bộ ASEAN trong khu vực [6, tr.130].
trưởng Ngoại giao Thái Lan đã báo cáo kết Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư
quả chuyến thăm Liên Xô tháng 5 năm Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn
1987 để bàn với Liên Xô về việc giải quyết Linh tuyên bố: “Cộng hoà xã hội chủ
“vấn đề Campuchia”. nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị
Ngày 29 tháng 7 năm 1987, Ngoại với các nước ASEAN và các nước khác
trưởng Indonesia (với tư cách là nước đại trong khu vực”. Đồng thời, cùng một quan
diện của ASEAN) đã thăm chính thức Việt điểm như trên, Bộ trưởng Ngoại giao Việt
Nam, hai bên đã ra thông cáo chung, đánh Nam Nguyễn Cơ Thạch cũng nhấn mạnh:
dấu sự kết thúc của thời kì đối đầu giữa “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các
Việt Nam và ASEAN xung quanh “vấn đề nước Đông Nam Á” [19, tr.351].
Campuchia” và mở ra thời kỳ của những Ngày 9 tháng 1 năm 1989, Việt Nam
cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Hunsen và rút hết quân tình nguyện còn lại ở
Sihanouk. Nhằm đẩy nhanh đối thoại với Campuchia về nước và tuyên bố dù tình
ASEAN về “vấn đề Campuchia”, ngày 11- hình xảy ra như thế nào thì quân tình
10-1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã ra nguyện Việt Nam sẽ không trở lại [12,
Thông cáo chung về việc rút quân tình tr.401]. Việt Nam và Nhà nước Campuchia
nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước đã cùng phối hợp với nhóm P5 (thông qua
vào tháng 11 năm 1987. Liên Xô) để cùng nhau khai thông bế tắc
Trong thời gian này, các quốc gia tại Hội nghị quốc tế về Campuchia. Việt
ASEAN bắt đầu nối lại quan hệ song Nam cũng đã rút toàn bộ chuyên gia quân
phương với Việt Nam. Tháng 12 năm sự về nước, đưa tất cả các học viên
1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần Campuchia đang học tập tại các trường
thứ ba ở Manila, Tổng thống Cộng hoà quân sự của Việt Nam về Campuchia
Philipines Korazon Aquino tuyên bố không trước khi Hiệp định Paris về Campuchia có

89
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)

hiệu lực. quân Việt Nam khỏi Campuchia gắn với ba


Ngày 21 tháng 1 năm 1989, Bộ trưởng bước chấm dứt viện trợ quân sự của nước
Ngoại giao Malaysia tuyên bố: ngoài cho các bên Campuchia. Sau đó, từ
“Các nước ASEAN đang nghiên cứu ngày 19 đến 21 tháng 2 năm 1989 đã diễn
xem xét việc mở rộng các cuộc hội đàm về ra Hội nghị chính thức JIM-II. Hội nghị
vấn đề Campuchia để gồm cả một số một lần nữa khẳng định lại hai vấn đề mấu
cường quốc tham dự, trong đó có Liên Xô, chốt của giải pháp cho vấn đề Campuchia
Trung Quốc, nhằm chuẩn bị cho cuộc hội là rút quân Việt Nam trong khuôn khổ một
đàm sắp tới ở Jakarta. Nếu cuộc hội đàm ở giải pháp chính trị và ngăn ngừa sự quay
Jakarta thành công thì các cuộc đàm phán trở lại chính sách và những hành động diệt
này có thể mở rộng ảnh hưởng của cả chủng của chế độ Pol Pot; chấm dứt mọi sự
Trung Quốc, Liên Xô và các nước khác can thiệp của nước ngoài và sự giúp đỡ về
nhằm chấm dứt cuộc xung đột ở quân sự cho các phái đối lập Khmer; đồng
Campuchia” [9, tr.178]. thời xác định việc thực hiện quá trình tổng
Tiếp đó các cuộc gặp giữa đại diện các tuyển cử, cơ chế kiểm soát quốc tế được
nước ASEAN, các nước Đông Dương và trang bị những vũ khí tự vệ với chức năng
các phe phái ở Campuchia mang tên Hội kiểm soát và giám sát. Tại Hội nghị JIM-II,
nghị không chính thức Jakarta JIM-I (tháng Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn
7 năm 1988) và JIM-II (tháng 2 năm 1989) Cơ Thạch phát biểu quan điểm của Việt
và Hội nghị quốc tế về Campuchia IMC Nam: Nếu không đạt được giải pháp chính
(tháng 2 năm 1990) đã diễn ra tại Jakarta, trị thì bộ đội Việt Nam sẽ tiếp tục ở
Indonesia, nhằm tiến tới giải quyết vấn đề Campuchia cho tới cuối năm 1990 và Việt
Campuchia bằng biện pháp chính trị. Nam bác bỏ nói chuyện trực tiếp với
Hội nghị JIM-I tổ chức tại Bogor Sihanouk [9, tr.178].
(Indonesia). Hội nghị tiến hành hai bước: Ngày 05 tháng 4 năm 1989, ba nước
bước đầu chỉ có 4 phái Campuchia; bước Việt Nam, Lào và Campuchia ký Tuyên bố
sau có thêm Việt Nam, Lào và 6 nước chung về việc rút toàn bộ quân tình nguyện
ASEAN. Mục đích của JIM-I là tạo một Việt Nam ở Campuchia về nước [17,
khuôn khổ cho các cuộc thảo luận không tr.263]. Đây là một bước đi trong khuôn
chính thức, giữa các bên liên quan trực khổ thoả thuận của các cuộc gặp gỡ không
tiếp và các nước hữu quan trong việc tìm chính thức giữa các bên hữu quan ở
kiếm một giải pháp toàn diện, đúng đắn và Campuchia tại Jakarta, Indonesia (JIM-I và
lâu dài cho vấn đề Campuchia. Kết quả JIM-II) cũng như trong khuôn khổ cam kết
Hội nghị JIM-I đã khẳng định hai vấn đề của Trung Quốc và các quốc gia có liên
then chốt: việc rút quân Việt Nam trong quan về việc Trung Quốc và các nước đó
khuôn khổ một giải pháp chính trị và việc chấm dứt viện trợ quân sự cho các bên
ngăn chặn sự trở lại của chế độ diệt chủng Campuchia khi Việt Nam rút quân. Theo
Pol Pot. thoả thuận này, Việt Nam sẽ hoàn thành
Hội nghị trù bị (Working group) JIM- việc rút quân vào cuối tháng 9 năm 1989.
II tổ chức từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 2 Ngày 02 tháng 7 năm 1989, Hội nghị
năm 1989. Việt Nam đưa ra ba bước rút Bộ trưởng Ngoại giao các quốc gia

90
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

ASEAN lần thứ 22 tại Brunei đã bàn về Ngày 17 tháng 3 năm 1990, Bộ trưởng
việc ASEAN có nên cử lực lượng vũ trang Ngoại giao Thái Lan Xitthi đã đưa ra đề
tham gia gìn giữ hoà bình và cơ quan giám nghị của Hoàng thân Sihanouk đưa ra đầu
sát quốc tế ở Campuchia hay không. Hội tháng 3 năm đó, về việc Thái Lan đăng cai
nghị cũng bàn về việc tăng cường hợp tác hội nghị quốc tế khác gồm Trung Quốc,
kinh tế trong tổ chức ASEAN, các quốc Việt Nam và các nước ASEAN không phù
gia ASEAN chấp nhận nguyên tắc về hợp với lời kêu gọi của ASEAN về một
thành lập một khối các nước châu Á – giải pháp cho vấn đề Campuchia.
Thái Bình Dương để hợp tác kinh tế do Từ ngày 25 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm
Australia đề xuất. 1990, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sang
Ngày 15 – 16 tháng 1 năm 1990, tại thăm Indonesia. Chuyến thăm của Đại
Paris (Pháp), đại diện của năm nước tướng đánh dấu sự khởi động tốt đẹp trong
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quan hệ Việt Nam –Indonesia nói riêng và
quốc đã tổ chức Hội nghị bàn về việc giải Việt Nam – ASEAN nói chung, góp phần
quyết vấn đề Campuchia. Hội nghị đã nhất làm cho hai bên hiểu rõ hơn về quan điểm
trí chấp nhận vai trò của Liên hợp quốc của nhau đối với việc bảo đảm an ninh và
trong việc giải quyết vấn đề Campuchia; chính trị của khu vực Đông Nam Á.
hoan nghênh việc sớm nhóm lại cuộc đối Từ ngày 16 đến 17 tháng 7 năm 1990,
thoại xây dựng giữa các bên Campuchia; đại diện của năm nước lớn gồm Liên Xô,
thông qua một số nguyên tắc cụ thể trong Mỹ, Trung Quốc, Anh và Pháp gặp nhau
việc giải quyết vấn đề này [17, tr.286]. để bàn về vấn đề Campuchia. Hội nghị đã
Ngày 14 tháng 2 năm 1990, cuộc họp đi đến thoả thuận dự thảo ba văn kiện về
Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN việc tiến hành bầu cử tự do và công bằng;
thống nhất lập trường về vấn đề bảo vệ quyền con người; việc quốc tế bảo
Campuchia trước Hội nghị Jakarta, lần đầu đảm quyền độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh
tiên các quốc gia ASEAN đồng ý đề nghị thổ và trung lập của Campuchia, sau đó
của Australia về lập một chính phủ lâm chuyển cho các bên Campuchia xem xét.
thời dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc ở Hội nghị kêu gọi các bên Campuchia chấm
Campuchia cho đến cuộc bầu cử tự do năm dứt hoạt động quân sự chuyển sang đối
1991. thoại hoà bình vấn đề Campuchia [17,
Hội nghị không chính thức về tr.301]. Cuộc họp vòng năm này cũng
Campuchia (IMC) tổ chức ở Jakarta, thông qua vai trò của Liên hợp quốc ở
Indonesia từ ngày 26 tháng 2 đến 01 tháng Campuchia, tổ chức tuyển cử, kiểm soát
3 năm 1990. Ngoài thành phần như JIM năm bộ, thành lập Hội đồng Dân tộc tối
(Campuchia, Việt nam, Lào và đại diện 6 cao (SNC) ở Campuchia là cơ quan đại
nước ASEAN) còn có thêm đại diện Tổng diện cho nhân dân Campuchia.
Thư ký Liên hợp quốc, Pháp và Australia. Trong tuyên bố chung của Hội nghị Bộ
Hai đồng chủ tịch của hội nghị là Indonesia trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 23 tại
và Pháp. IMC không đưa ra được tuyên bố Indonesia (24 – 25/7/1990) đã thống nhất
chung nào về vấn đề Campuchia vì Khmer một giải pháp chính trị toàn diện cho
Đỏ dùng quyền phủ quyết. Campuchia cần phải thực hiện bằng Hội

91
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)

nghị Paris về Campuchia (PICC – Paris Khmer Đỏ trở lại cầm quyền. Vì vậy, Mỹ
International Conference on Cambodia). quyết định rút bỏ việc công nhận chính
Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (của 3
vào thực hiện, Đảng và Nhà nước Việt phái) tại Liên hợp quốc; sẵn sàng thảo luận
Nam đã “đưa vấn đề Campuchia ra để với Việt Nam và Nhà nước Campuchia
giải quyết bằng con đường hoà bình”. (SOC) để thúc đẩy giải pháp cho vấn đề
Những giải pháp đưa ra trong chính sách Campuchia.
để giải quyết vấn đề Campuchia, đã có tác Những nỗ lực của ASEAN và các
động thúc đẩy tác động đến một giải pháp nước Đông Dương đã tiến tới cải thiện
chung trong vấn đề Campuchia đi đến một quan hệ với nhau và phát triển sự hợp tác
giải pháp hoà bình toàn diện, đến năm về mọi mặt. Điều này thể hiện qua câu nói
1989 thì cơ bản hoàn thành bằng tuyên bố vào năm 1989 của Thủ tướng Thái Lan
về một giải pháp chính trị toàn diện cho Chatichai Choohavan: “Biến Đông Dương
xung đột ở Campuchia. Đây chính là thành từ chiến trường thành thị trường” [15,
công đầu tiên của chính sách đối ngoại đổi tr.184].
mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Tháng 8 năm 1990, năm Uỷ viên
Đông Nam Á được cải thiện từ đối đầu thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu quốc đã tiến hành cuộc họp lần thứ 6 về
nghị, hợp tác. “vấn đề Campuchia” ở New York (Mỹ) và
Trên thực tế, Việt Nam đã rút hết quân đưa ra giải pháp toàn diện cho “vấn đề
tình nguyện ra khỏi Campuchia ngày 26 Campuchia”, đó là “Văn kiện khung về
tháng 9 năm 1989 trước thời hạn đưa ra. một giải pháp chính trị toàn bộ cho cuộc
Hành động của Việt Nam đã “tước vũ khí” xung đột Campuchia”, thường gọi là giải
của đối phương tập trung chống Việt Nam pháp P5. Giải pháp này thể hiện rõ nét
suốt 10 năm và làm thay đổi tính chất của trong Hiệp định Paris về Campuchia ký
“vấn đề Campuchia”, tạo điều kiện sớm vào tháng 10 năm 1991, chấm dứt cuộc
giải quyết “vấn đề Campuchia”, để có thể xung đột Campuchia kéo dài hơn 10 năm ở
mở rộng quan hệ giữa Việt Nam và các Đông Nam Á. ASEAN đã hài lòng với giải
nước trong khối ASEAN và tập trung vào pháp P5 do giải pháp này phù hợp với lợi
hai nhiệm vụ chiến lược mà Đại hội đại ích của ASEAN là chấm dứt xung đột tại
biểu toàn quốc lần VI của Đảng Cộng sản Campuchia, Campuchia sẽ trở thành một
Việt Nam đề ra. Đặc biệt, việc Việt Nam quốc gia trung lập.
hoàn thành rút quân tình nguyện tạo điều Ngày 20 tháng 10 năm 1990, Hội
kiện đẩy nhanh giải pháp chính trị cho đồng Bảo an Liên hợp quốc ra nghị quyết
“vấn đề Campuchia”. số 668 (1990) thông qua văn kiện khung
Ngày 18 tháng 07 năm 1990, Ngoại của nhóm P5. Ngày 26 tháng 11 năm
trưởng Mỹ Baker tuyên bố chính sách mới 1990, nhóm P5 đề nghị Liên hợp quốc
của Mỹ về vấn đề Campuchia: Mỹ thừa thông qua cái gọi là Cơ quan quyền lực
nhận Việt Nam đã rút quân khỏi quá độ của Liên hợp quốc tại Campuchia
Campuchia; chính quyền Phnom Penh hiện (UNTAC), xây dựng lại đất nước
là lực lượng chủ yếu có khả năng ngăn Campuchia trong thời gian này.

92
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Tháng 11 năm 1990, Tổng thống Ngoại giao. Ngày 19 tháng 7 năm 1991,
Indonesia Suharto thăm Việt Nam, đánh các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN bắt đầu
dấu một bước tiến quan trọng giữa Việt cuộc họp hàng năm ở Kua Lumpur. Liên
Nam và ASEAN, Việt Nam – Indonesia, Xô và Trung Quốc tham dự với tư cách là
thành công của cuộc viếng thăm của Tổng khách mời.
thống Indonesia đánh dấu một bước phát Ngày 23 tháng 10 năm 1991, tại
triển mới trong quan hệ truyền thống và Trung tâm hội nghị quốc tế Kléber-Paris
hợp tác giữa Việt Nam và Indonesia, tất cả (Pháp), đại diện các phía của Campuchia
vì lợi ích của hai dân tộc, vì hoà bình, ổn và ngoại trưởng của 18 quốc gia, tổng
định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng cộng là 30 đại biểu và Tổng thư ký Liên
như thế giới. Hợp Quốc Javier Pérez de Cuéllar, ký tên
Từ ngày 21 đến 23 tháng 12 năm vào những văn kiện bằng năm loại ngôn
1990, tại Paris (Pháp), Hội đồng dân tộc tối ngữ Anh, Hoa, Pháp, Nga, Khmer. Hội
cao Campuchia (SNC) đã thông qua bản dự nghị Paris đi đến nhất trí và ký vào 4 văn
thảo Hiệp định hoà bình. Vào tháng 1 năm kiện trong đó Hiệp định về một giải pháp
1991, Liên hợp quốc đã chuyển bản dự chính trị toàn bộ cho cuộc xung đột ở
thảo đó cho hai quốc gia láng giềng của Campuchia là quan trọng nhất. Hiệp định
Campuchia là Việt Nam và Lào. Paris ngày 23 tháng 10 năm 1991 đã mở
Ngày 4 tháng 1 năm 1991, Bộ trưởng ra cơ hội cho nhân dân Campuchia đi đến
Ngoại giao Indonesia Alatat tuyên bố tán một giải pháp hoà bình, hoà hợp dân tộc.
thành việc Việt Nam, Campuchia và Lào Năm 1993, dưới sự giám sát của Liên Hợp
gia nhập ASEAN. Tiếp theo ngày 7 tháng 1 quốc, Campuchia đã tiến hành tổng tuyển
năm 1991, Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia cửa bầu quốc hội. Quốc hội Campuchia đã
Abu Hasan Oma tuyên bố ASEAN hoan họp thông qua hiến pháp, tuyên bố thành
nghênh và đồng ý nếu Việt Nam, Lào, lập Vương quốc Campuchia do vua
Campuchia và Myanmar gia nhập tổ chức Norodom Sihanouk lãnh đạo và cử ra một
ASEAN. Ngày 9 tháng 1 năm 1991, tại Chính phủ liên hiệp đoàn kết dân tộc.
Indonesia, Thủ tướng Singapore Goh Chok Khmer Đỏ lúc này bị đặt ra ngoài vòng
Tong tuyên bố rằng, một trong những pháp luật.
thách thức đặt ra cho ASEAN trong thập Tháng 10 năm 1991, trong bài trả lời
kỷ 90 là giúp đỡ Việt Nam, Lào, phỏng vấn Tạp chí Quan hệ quốc tế, Bộ
Campuchia và Myanmar cải tạo nền kinh tế trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn
của quốc gia. Mạnh Cầm đã nêu rõ chính sách đối ngoại
Tháng 3 năm 1991, tại Hội nghị quốc của Việt Nam đối với các quốc gia trong
tế về “Giai đoạn hoà giải thứ hai” giữa khu vực, khẳng định “Khu vực Châu Á –
các nước ASEAN và các nước còn lại ở Thái Bình Dương, mà trước hết là Đông
Đông Nam Á tổ chức tại Bali, Thủ tướng Nam Á và Đông Á, giữ vị trí quan trọng
Malaysia Mahathir Mohamad đã đưa ra ý trong chính sách đối ngoại của Việt
tưởng tổ chức đối thoại giữa các quốc gia Nam…”. Tại Kỳ họp thứ IX Quốc hội khoá
ASEAN với Việt Nam, Lào, và Myanmar, VII (1987-1991), Chủ tịch Hội đồng Bộ
bắt đầu bằng cuộc họp cấp Bộ trưởng trưởng Võ Văn Kiệt đã nhấn mạnh: “Lợi

93
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)

ích của Việt Nam gắn bó chặt chẽ với lợi lôi cuốn các nước lớn tham gia. Việt Nam
ích của khu vực. Do vậy, lợi ích đặc biệt trong thời gian này, công cuộc đổi mới
của chúng ta lúc này là mở rộng quan hệ đất nước đặt ra yêu cầu tạo dựng môi
với các nước láng giềng và các nước trong trường hoà bình, ổn định trong nước và
khu vực, phấn đấu vì một Đông Nam Á hoà khu vực để tập trung vào phát triển kinh
bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác” [16, tế đất nước, cải thiện đời sống nhân dân,
tr.64]. Vào năm 1991, Thủ tướng Việt Nam đưa Việt Nam đi lên hội nhập vào nền
Võ Văn Kiệt đã có chuyến thăm hữu nghị kinh tế khu vực và thế giới. Vì thế, vấn đề
một số quốc gia ASEAN như Malaysia (7- quan hệ giữa Việt Nam với các nước
2-1991), Indonesia, Thái Lan và Singapore ASEAN có tầm quan trọng đặc biệt.
(từ ngày 24-10 đến 01-11-1991). Ngày 16 Việc cùng nhau giải quyết “vấn đề
tháng 11 năm 1991, Singapore bãi bỏ lệnh Campuchia” đã thay đổi quan hệ giữa Việt
cấm đầu tư vào Việt Nam. Nam – ASEAN chuyển từ đối đầu sang đối
Sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và thoại, khẳng định vị trí của Việt Nam trong
ASEAN có thêm những nhân tố mới thúc khu vực. Điều này có ý nghĩa rất to lớn
đẩy sau khi Trung Quốc sử dụng vũ lực trong việc mang lại ổn định an ninh cho
đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo khu vực và làm giảm nguy cơ xung đột tại
Trường Sa của Việt Nam và thái độ phản khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm tàng
ứng của Việt Nam đối với Trung Quốc, sử nhiều mâu thuẫn giữa các nước. Thực hiện
dụng biện pháp đàm phán để giải quyết đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986
tranh chấp về lãnh thổ trên biển Đông [9, đến 1991, Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt
tr.93]. động đối ngoại kinh tế, đối ngoại chính trị,
Năm 1991 và 1992 là các mốc tiền đề đã giải tỏa được tình trạng đối đầu, thù
đánh dấu sự tiến triển trong quan hệ giữa địch, mở cửa giao lưu hợp tác với bên
Việt Nam và ASEAN, quan hệ đối thoại và ngoài, tạo được vị thế mới cho đất nước
hợp tác đã thay cho quan hệ đối đầu, Việt trong quan hệ quốc tế.
Nam nhận được sự đồng tình, ủng hộ của Tháng 7 năm 1992 Việt Nam ký Hiệp
các quốc gia ASEAN, càng làm thúc đẩy ước Bali và trở thành quan sát viên của
quan hệ Việt Nam – ASEAN tiếp tục phát ASEAN. Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt
triển thuận lợi hơn. Nam chính thức trở thành thành viên thứ
3. Kết luận 7 của ASEAN. Đây là một sự kiện rất
Quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN quan trọng trong lịch sử Đông Nam Á.
thực sự cải thiện khi “vấn đề Đối với Việt Nam, đây là sự hội nhập khu
Campuchia” được giải quyết vào năm vực theo đúng chính sách truyền thống
1989 dưới sự giám sát của Liên hợp quốc, của Việt Nam và chính sách bốn điểm
quân tình nguyện Việt Nam đã rút khỏi tháng 7 năm 1976. Đối với ASEAN, đây
Campuchia an toàn mở ra một thời kỳ là một sự mở rộng cần thiết để tiếp tục kế
mới cho quan hệ của Việt Nam với tổ hoạch của tổ chức nhằm bao gồm cả 10
chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. quốc gia của khu vực, làm cho Đông Nam
ASEAN đã đi đầu trong việc tìm kiếm Á đóng vai trò to lớn hơn trong khu vực
giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, và trên thế giới.

94
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

TÀI LIỆU THAM KHẢO 2005)”, Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
1. Báo Nhân dân, số ra ngày 28-1-1985. 11. Thông tấn xã Việt Nam (1984), Chiến lược
2. Trần Đức Cường (chủ biên), Lịch sử Việt của Mỹ đối với châu Á, Tài liệu tham khảo
Nam, tập 14, Nxb Khoa học Xã hội, Hà số 6.
Nội, 2017. 12. Trần Nam Tiến (chủ biên), Lịch sử quan hệ
3. Lê Duẩn, Tình hình thế giới và chính sách quốc tế (1945-2000), Nxb Giáo dục, Hà
đối ngoại của chúng ta, Nxb Sự thật, 1981. Nội, 2008.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 13. Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế
VI, Nxb Chính trị quốc gia, 1987. giới hiện đại từ 1945 đến 1995, quyển A,
Nxb ĐHQG Hà Nội, 1998.
5. Vũ Dương Huân (chủ biên), Ngoại giao
Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 14. Phạm Đức Thành, Liên kết ASEAN trong
(1975-2002), Học viện Quan hệ Quốc tế, thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học Xã
Hà Nội, 2002. hội, Hà Nội, 2006.

6. Nguyễn Thu Mỹ (chủ biên), Lịch sử Đông 15. Lê Khương Thuỳ, Chính sách của Hoa Kỳ
Nam Á, tập VI, Nxb Khoa học Xã hội, Hà đối với ASEAN trong và sau chiến tranh
Nội, 2012. lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003.

7. Nayan Chanda, Brother Enemy: the war 16. M.Rajaretnam –Thái Quang Trung, Một
after the war, Harcourt Brace Jovanovich, Đông Nam Á vận mệnh chung tương lai
the University of Michigan, 1986. chung, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.

8. Vũ Dương Ninh (chủ biên), Việt Nam – 17. Viện Sử học, Thế giới – Những sự kiện lịch
ASEAN quan hệ đa phương và song phương, sử thế kỷ XX (1946-2000), Nxb Giáo dục,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Hà Nội, 2001.

9. Đào Huy Ngọc, ASEAN và sự hội nhập của 18. Nguyễn Khắc Viện, Thế giới ngày nay, Nxb
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Trẻ, 1987.
1997. 19. Trần Thị Vinh (chủ biên), Lịch sử thế giới
10. Võ Hồng Phúc, “Những thành tựu về kinh hiện đại, quyển 2, Nxb Đại học Sư phạm,
tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986- Hà Nội, 2011.

Ngày nhận bài: 01/8/2018 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019

95

You might also like