You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận môn:


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ MIỀN BẮC VÀ ĐÁNH BẠI "VIỆT
NAM HOÁ CHIẾN TRANH" GIAI ĐOẠN 1969-1972. NHỮNG GIẢI PHÁP
ĐỂ VIỆT NAM CÓ THỂ TẬN DỤNG ĐƯỢC SỨC MẠNH CỦA THỜI ĐẠI
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn:


GV. Nguyễn Thị Duyên

TP.HCM, tháng 8 năm 2023

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam hoá chiến tranh là cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ nhằm xâm lược
Việt Nam. Do bị thất bại nặng nề trong chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh
phá hoại ở miền Bắc. Đế quốc Mỹ dưới thời tổng thống Ních Xơn chuyển sang thực
hiện “Việt Nam hoá” chiến tranh. Đây là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân
kiểu mới của Mỹ, được tiến hành bằng quân đội tay sai là chủ yếu, có sự hỗ trợ của
một lực lượng chiến đấu Mỹ, do cố vấn Mỹ chỉ huy cùng với vũ khí và phương tiện
chiến tranh của Mỹ. Đứng trước tình hình đó, Đảng lãnh đạo nhà nước ta đã xây dựng
và bảo vệ miền Bắc để đánh bại chiến lược chiến tranh của Mỹ như thế nào?
TCCS - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy
hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, việc tích cực, chủ động triển
khai chủ trương hội nhập quốc tế theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần
hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Với các yếu tố xu
thế chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới như: hoà bình, hợp tác và phát triển, cách
mạng khoa học công nghệ, xu thế dân chủ hoá, xu thế phát triển bền vững, tự chủ, xu
thế hợp tác và liên kết kinh tế, đó chính là sức mạnh của thời đại. Hiện nay đất nước
đang đứng trước cơ hội lớn hơn để bứt phá và khẳng định vị thế của mình. Vậy, giải
pháp nào là tốt nhất để Việt Nam có thể tận dụng được sức mạnh của thời đại trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay?
MỤC LỤC

Lời mở đầu
Nội dung
I. Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1969 - 1972
1. Tình hình quốc tế
1.1. Thuận lợi
1.2. Khó khăn
2. Tình hình trong nước
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
II. Đảng lãnh đạo xây dụng và bảo vệ miền Bắc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
giai đoạn 1969 - 1972
1. Chủ trương của Đảng
2. Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ miền Bắc như thế nào?
3. Đánh bại “Việt Nam hoá chiến tranh”
3.1. Đảng lãnh đạo chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, bảo vệ miền Bắc
3.2. Kết quả chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
3.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của giai đoạn kháng chiến chống “Việt
Nam hoá chiến tranh” năm 1969 - 1972
III. Những giải pháp để Việt Nam có thể tận dụng được sức mạnh của thời đại
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
1. 1. Khái niệm và bối cảnh Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện
nay
1. 1.1. Khái niệm
1.2. Bối cảnh Việt Nam hiện nay
2. 2. Những thuận lợi và khó khăn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay của Việt Nam
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
3. Giải pháp chung của Việt Nam để tận dụng sức mạnh của thời đại trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
Kết luận
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1969 - 1972
1. Tình hình quốc tế:
1.1. Thuận lợi:
Quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn kháng
chiến, quân và dân Việt Nam luôn sát cánh với quân và dân các nước Lào,
Cam-pu-chia chiến đấu, tạo ra thế chiến lược tiến công địch trên chiến trường
mỗi nước và chiến trường chung Đông Dương. Trong đó, chiến trường miền
Nam Việt Nam được xác định là chiến trường chính, miền Bắc Việt Nam vừa
là chiến trường, vừa là hậu phương của các chiến trường miền Nam Việt Nam,
Lào và Cam-pu-chia, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp chiến lược của
địch.
Ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, lực lượng vũ trang Việt
Nam đã sát cánh cùng quân và dân Lào đánh bại âm mưu, thủ đoạn phá hoại
hai tỉnh tập kết Sầm Nưa và Phông Sa Lỳ, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào. Từ
năm 1960, khi đế quốc Mỹ thực hiện “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt
Nam và Lào, nhất là khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam và mở rộng chiến
tranh phá hoại miền Bắc, tình đoàn kết, liên minh chiến đấu của quân và dân ba
nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia càng được củng cố và phát triển mạnh
mẽ. Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương được triệu tập (tháng 3-1965),
thông qua nghị quyết lên án Mỹ vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ,
gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, can thiệp vũ trang vào Lào và tiến
công khiêu khích Cam-pu-chia; đồng thời khẳng định nhân dân ba nước Đông
Dương tăng cường đoàn kết, liên minh chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trên chiến trường Lào, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt
Nam cùng với quân và dân Lào xây dựng lực lượng, củng cố các khu căn cứ,
vùng giải phóng; đồng thời đẩy mạnh chiến đấu trên các chiến trường. Từ phối
hợp đánh từng trận, Liên quân Lào - Việt mở các đợt tác chiến và chiến dịch
lớn như Nậm Thà (1962), 128, 74 A (1964), Nậm Bạc (1968)..., đánh bại
“chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở Lào, góp phần cùng quân và dân Việt Nam
đánh bại “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và đánh thắng một bước quan trọng
chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc.
1.2. Khó khăn:
Hội nghị quốc tế lần thứ ba của 75 Đảng Cộng sản và công nhân đã diễn
ra ở Matxcova vào mùa hè 1969 để đề ra đường lối, củng cố sự thống nhất
phong trào cộng sản quốc tế và các lực lượng chống đế quốc. Hơn 10 Đảng
Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Trung Quốc, không tham gia hội nghị.
Do tập trung cho công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng không có mặt ở Hội nghị này.
Về mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc:
Đúng vào lúc chúng ta triển khai cuộc đấu tranh vũ trang ở Miền Nam,
giữa Liên Xô và Trung Quốc đã diễn ra cuộc đấu tranh giành giật ảnh hưởng
và tập hợp lực lượng mà Việt Nam là đối tượng tranh chấp. Trung Quốc
giương cao ngọn cờ chống Mỹ và chống chủ nghĩa xét lại để chống Liên Xô,
phá hoà hoãn Xô - Mỹ, nhưng cũng muốn hoà hoãn với Mỹ; đồng thời ra sức
tập hợp lực lượng để giành quyền lãnh đạo cách mạng thế giới.
Về Liên Xô, do mâu thuẫn ngày càng tăng, tháng 6/1959, Liên Xô hủy
bỏ thoả thuận cung cấp mẫu bom nguyên tử cho Trung Quốc đã thỏa thuận
trước đó. Từ năm 1964, Liên Xô còn vận động triệu tập hội nghị các Đảng
Cộng sản và công nhân để khai trừ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến năm 1969
hội nghị như vậy đã được Liên Xô tổ chức, có 75 đảng tham dự.
Mâu thuẫn Xô - Trung gây hậu quả nghiêm trọng cho phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế và ảnh hưởng tiêu cực lớn đến cuộc kháng chiến
chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Về sức ép quân sự:
Sử dụng song song hai “con bài” Liên Xô và Trung Quốc, Mỹ còn dùng
sức mạnh quân sự để tạo sức ép với Việt Nam trên bàn đàm phán. Tháng
3/1969, Nixon đã ra lệnh bí mật ném bom xuống Campuchia nhằm ngăn chặn
các con đường tiếp tế của miền Bắc dọc đường mòn Hồ Chí Minh và quét sạch
các cơ quan đầu não chỉ huy của quân đội Việt Nam. Không những vậy, Tổng
thống Mỹ còn dự định ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam.
Nhân tố Mỹ đóng vai trò chủ động và vị trí chi phối trong tam giác chiến
lược Mỹ - Xô – Trung. Thông qua quan hệ với Trung Quốc, lợi dụng vị thế của
Trung Quốc trong quan hệ với Việt Nam, trong những năm 1969-1972, nhân tố
Mỹ đã có tác động lớn đến Việt Nam và quan hệ Việt – Trung. Tác động này
càng tăng khi nhu cầu, lợi ích của Mỹ gặp gỡ nhu cầu, lợi ích của Trung Quốc.
Trong lúc Mỹ muốn gây sức ép để Trung Quốc ngừng viện trợ cho Việt Nam,
làm suy yếu và buộc Việt Nam chấp nhận một giải pháp phù hợp với lợi ích
của Mỹ, Trung Quốc cũng muốn sử dụng vấn đề Việt Nam để tăng ảnh hưởng,
sức mạnh của mình, làm đối trọng với Liên Xô, giữ thế chủ động trong đàm
phán với Mỹ. Trung Quốc sớm nắm bắt được các tín hiệu của Nixon trước bầu
cử và đã chọn Nixon, ủng hộ Nixon (trong khi Việt Nam, Liên Xô chọn và ủng
hộ Humphrey - ứng viên của đảng Dân chủ) nên đã phản đối gay gắt việc Việt
Nam và Mỹ sắp thoả thuận về việc Mỹ hoàn toàn chấm dứt ném bom miền
Bắc, bởi như vậy sẽ có lợi cho ứng viên của đảng Dân chủ, bất lợi cho Nixon.
Để tạo sức ép với Việt Nam, Trung Quốc đã giảm viện trợ quân sự.
2. Tình hình trong nước
2.1. Thuận lợi:
Trung ương Đảng đã chủ trương phát động ba cuộc vận động trên toàn
miền Bắc. Đó là: Cuộc vận động lao động sản xuất động viên mọi lực lượng
lao động sản xuất của toàn xã hội; cuộc vận động phát huy dân chủ; cuộc vận
động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh.
Năm 1970, công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất ở miền
Bắc đã thu được kết quả. Nông nghiệp có một số tiến bộ. Chính phủ đã thực
hiện các chính sách nhằm khuyến khích nông dân phát triển sản xuất để tăng
thêm nông sản, thực phẩm, trao đổi với Nhà nước. Chính sách về ổn định nghĩa
vụ lương thực và phân phối lương thực trong hợp tác xã, chính sách chăn nuôi
lợn, bò được thực hiện có kết quả tốt. Các chính sách về thu mua sản phẩm
cây công nghiệp, về cung cấp tư liệu cho sản xuất nông nghiệp, bán hàng công
nghiệp cho nông dân, về quản lý thị trường, về giá cả, về cho vay vốn dần dần
được bổ sung.
Sản xuất công nghiệp cũng có những chuyển biến tốt. Những cơ sở công
nghiệp bị địch đánh phá phần lớn đã được khôi phục trong năm 1970. Nhờ sản
xuất phát triển và năng suất lao động tăng lên, đời sống nhân dân nói chung bớt
khó khăn. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông
nghiệp tăng 20% so với năm 1965. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế được đẩy
mạnh về chất lượng.
Năm 1971, nông nghiệp miền Bắc vẫn có một số tiến bộ về thâm canh
lúa. Sản lượng lương thực thóc đạt 5,6 triệu tấn, cao hơn mức bình thường của
các năm.
Nhờ những nỗ lực lớn và những tiến bộ đáng kể trong khôi phục kinh tế,
cộng với sự viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
anh em khác, miền Bắc đã đáp ứng được về cơ bản nhu cầu ăn mặc, học hành,
sinh hoạt cho nhân dân và tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Tình hình kinh
tế-xã hội ổn định, sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong nhân dân được củng
cố vững chắc.
2.2. Khó khăn:
Mất mát lớn nhất mà nhân dân Việt Nam không bao giờ quên được đó là
vào ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra Thông cáo đặc
biệt và thành lập Ban Lễ tang Nhà nước để phụ trách việc tổ chức lễ tang Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Ngày 3/9/1969, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam đã ra Lời kêu gọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào cả nước và
kiều bào ở nước ngoài triệu người như một hãy biến đau thương thành hành
động cách mạng, dũng cảm tiến lên, tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, thực hiện thắng lợi lý tưởng và hoài bão của Người, chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Trung ương Đảng và chính phủ, ra sức
học tập tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người.
Trận lụt đồng bằng sông Hồng năm 1971 là một đợt lũ lụt rất lớn xảy ra
ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào giữa
tháng 8 năm 1971. Do chịu tác động của một tổ hợp thời tiết nguy hiểm nên ở
khu vực đã xuất hiện các trận mưa lớn, gây vỡ đê và khiến lũ trên các sông lên
nhanh, nhiều khu vực đạt tới mức báo động. Theo số liệu thống kê thì đã có
594 người thiệt mạng, ngoài ra đã có 20 xã, hay 1 huyện bị ngập hoàn toàn với
tổng dân số trong những xã đó bị ngập mất nhà cửa vào khoảng 100.000 người.
Về tài sản, trận lụt gây thiệt hại về tài sản khoảng 70 triệu đồng theo thời giá
bấy giờ tương đương với 10.000 tỉ đồng theo thời giá hiện tại.
Từ tháng 5/1972, các lực lượng không quân Mỹ ở Đông Nam Á và Tây
Thái Bình Dương đã thực hiện 97.524 lần xuất kích, riêng máy bay ném bom
chiến lược B-52 đã thực hiện 4.941 lần xuất kích. Theo thống kê, các cuộc ném
bom này đã giết chết hơn 8.000 người,làm bị thương gần 15.000 người khsc.
Riêng tỏng 12 ngày cuối tháng 12/1972 đã có 2.380 người chết, 1.355 người bị
thương, trong đó đáng chú ý nhất là trận không kích vào phố Khâm Thiên, Hà
Nội trong đêm 26/12/1972, giết chết 278 dân thường và làm 290 người khác bị
thương. Về cơ sở vật chất: 100% số nhà máy điện bị đánh phá, 1.500/1.600
công trình thuỷ lợi và gần 100km đê xung yếu bị hư hại; hầu hết các cống quan
trọng và toàn bộ 6 tuyến đường sắt đều bị đánh hỏng; 3/6 thành phố lớn (Hà
Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên) và 23/30 thị xã, 96/116 thị trấn, 3.987/5.788 xã,
350 bệnh viện, gần 1.500 bệnh xá, 1.300 trường học bị tàn phá nặng nề; trong
đó có 12 thị xã, hơn 300 xã, 10 bệnh viện, 11 ga xe lửa đầu mối bị hủy diệt
hoàn toàn.
→ Yêu cầu đặt ra của đất nước và cách mạng:
Nhiệm vụ trước mắt của ta trong suốt giai đoạn mới của cuộc kháng
chiến là: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên
cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng
chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và
mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến
công ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và
chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu Việt Nam hoá chiến
tranh của đế quốc Mỹ, đánh bại âm mưu của chúng xuống thang từng bước,
kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới
của chúng ở miền Nam nước ta; làm thất bại chiến lược phòng ngự của địch,
tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước
đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho
nguỵ phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập,
dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.
Để làm tròn các nhiệm vụ to lớn nói trên, cần tiến hành công tác động
viên, giáo dục sâu rộng làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở miền Bắc
nhận rõ tình hình và quán triệt nhiệm vụ, sát cánh với quân và dân miền Nam,
cả nước một lòng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, khắc phục tư tưởng hoà
bình chủ nghĩa, nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, kiên trì và
đẩy mạnh kháng chiến, ra sức thi đua sản xuất, thực hiện khẩu hiệu: "Tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", giành cho được thắng lợi quyết định.
II. Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ miền Bắc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
giai đoạn 1969 - 1972
1. Chủ trương của Đảng
Trong giai đoạn từ 1969 - 1972, Đảng ta chủ trương mục tiêu chủ yếu
của mặt trận ngoại giao lúc này là buộc Mỹ phải rút hết quân về nước, tôn
trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta.
Ngày 6/6/1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam
Việt Nam đã ra đời do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch. Ngày 10-6-
1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam họp
phiên đầu tiên. Dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát, Chính phủ đã
bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu quốc dân và thông
qua chương trình hành động của Chính phủ. Chương trình gồm các chính sách
lớn, như chính sách đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, chính sách
hoà hợp dân tộc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, bảo đảm các quyền
tự do dân chủ, trong đó chính sách về ruộng đất, khẩu hiệu “người cày có
ruộng” được đặc biệt quan tâm. Đại bộ phận nông dân ở miền Nam đã có
ruộng để cày cấy. Sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp phát triển. Sự nghiệp
văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những kết quả quan trọng.
Nghị quyết số 196-NQ/TW, ngày 10/3/1970 Hội nghị lần thứ 18 Ban
Chấp hành Trung ương về tình hình và nhiệm vụ;
Nhiệm vụ trước mắt của ta trong suốt giai đoạn mới của cuộc kháng
chiến là: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên
cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng
chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và
mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến
công ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và
chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu Việt Nam hoá chiến
tranh của đế quốc Mỹ, đánh bại âm mưu của chúng xuống thang từng bước,
kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới
của chúng ở miền Nam nước ta; làm thất bại chiến lược phòng ngự của địch,
tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước
đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho
nguỵ phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập,
dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.
Nghị quyết số 219 - NQ/TW, ngày 4/4/1972 Hội nghị lần thứ 20 Ban
chấp hành Trung ương Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải
quyết vấn đề chủ trương của Đảng đối với miền Bắc:
Một là, trong khi ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc
vững mạnh về mọi mặt cần phải thấu suốt nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là
nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong cả nước, động
viên sức người, sức của, hết lòng chi viện cho miền Nam và giúp đỡ cuộc chiến
lực lượng cơ động chiến lược, thực hiện thật tốt công tác giao thông, vận
với quân đội.
Hai là, nâng cao tinh thần cảnh giác và trình độ sẵn sàng chiến đấu của
quân và dân ta. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác
quân sự địa phương; tích cực xây dựng dân quân và tự vệ, làm tốt công tác
phòng không nhân dân; chú trọng phòng gian, giữ bí mật, chống chiến tranh
tâm lý và chiến tranh gián điệp của địch, giữ gìn trật tự, trị an; kết hợp chặt chẽ
xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng; luôn luôn sẵn sàng đập tan mọi âm
mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ và tay sai, bảo vệ vững
chắc sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Lãnh đạo đã xây dựng và bảo vệ miền Bắc như thế nào?
Trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược,
Đảng ta sớm xác định rất rõ kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta, của cách
mạng nước ta và lường định con đường đấu tranh hoàn thành sự nghiệp thống
nhất đất nước sẽ diễn ra lâu dài, rất gian khổ và ác liệt. Trong cuộc đấu tranh
đó, vai trò, vị trí của miền Bắc được hoạch định rõ ngay từ đầu.
Để xây dựng miền Bắc vững mạnh về chính trị, trong khi lãnh đạo toàn
dân và toàn quân ta tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo các thành phần kinh tế
tư nhân, phát hiện và đập tan mọi âm mưu của các thế lực phản động,... Đảng
đồng thời tự chỉnh đốn, tự đổi mới nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh và
vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của chính quyền bắt nguồn từ khối đại
đoàn kết vững chắc của các lực lượng yêu nước tập hợp trong Mặt trận Dân tộc
thống nhất.
Đi đôi với xây dựng miền Bắc vững mạnh về chính trị là phát triển về
kinh tế, văn hoá, xã hội. Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện các kế
hoạch kinh tế ngắn hạn và dài hạn nhằm từng bước biến đổi sâu rộng nền kinh
tế miền Bắc. 10 năm xây dựng trong điều kiện hoà bình và tiếp đó trong điều
kiện có chiến tranh, nền kinh tế miền Bắc có bước phát triển vững chắc cả về
cơ cấu, thành phần và năng suất.
Đi đôi với xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng, Nhà nước đề ra và thực
hiện nhiều biện pháp nhằm tăng cường sức mạnh chính trị, tư tưởng, nâng cao
ý thức quốc phòng trong nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng trong mọi
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện... Kết hợp
phân chia địa bàn kinh tế với xây dựng tiềm lực quốc phòng từng khu vực, tổ
chức và bố trí lực lượng phù hợp với yêu cầu xây dựng kinh tế, bảo vệ miền
Bắc và sẵn sàng cơ động vào chiến trường miền Nam.
3. Đảng lãnh đạo đánh bại “Việt Nam hoá chiến tranh”
3.1. Đảng lãnh đạo chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, bảo vệ miền bắc:
Với ý đồ tìm kiếm một thắng lợi về quân sự làm hậu thuẫn cho Hội nghị
Pari đồng thời ngăn chặn cuộc tiến công chiến lược của quân dân ta ở miền
Nam, từ tháng 4/1972, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc hiến tranh phá hoại lần
thứ hai đối với miền Bắc. Đặc biệt nghiêm trọng là cuộc tập kích chiến lược
bằng pháo đài bay B.52 suốt 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972 vào Hà Nội, Hải
Phòng và một số địa phương khác.
Trung ương Đảng đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, tiếp tục chi viện cho miền Nam,
giữ vững lập trường đàm phán tại Hội nghị Pari. Đỉnh điểm là làm nên trận
“Điện Biên Phủ trên không”, bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 máy bay
B.52 và 5 máy bay F.111; bắt sống 44 giặc lái; bắn chìm và bắn hỏng 9 tàu
chiến.
3.2. Kết quả chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
Sau kháng chiến, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, giúp
nhân dân các miền hoàn toàn giải phóng. Tháng 1/1973, Hiệp định Paris được
ký kết, trong đó điều quan trọng nhất là Mỹ phải rút khỏi miền Nam, miền
Nam thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
của Đế quốc Mỹ hoàn toàn thất bại.
3.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm cảu giai đoạn kháng chiến chống “Việt Nam hoá
chiến tranh” năm 1969 - 1972
Ý nghĩa:
Thắng lợi của Đảng và dân ta đã làm sụp đổ hoàn toàn chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh” của thực dân Mỹ. Nó giáng một đòn nặng nề vào quân
nguỵ cũng như chủ trương bình định của dân tộc chúng. Tạo bước ngoặt cho
cuộc kháng hiến chống Mỹ cứu nước. Chiến lược mang ý nghĩa đặc biệt là
buộc Mỹ phải tuyên bố thất bại với chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” thất bại hoàn toàn, củng cố thêm
niềm tin cho nhân dân về một nền hoà bình độc lập. Chiến thắng này của Đảng
và dân ta đã khẳng định sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, của quân và
dân đất Việt.
Ý chí của quân địch sụt lùi, tình thần, niềm tin chiến thắng của quân dân
Việt Nam ngày càng lớn. Đây được xem là những bước chạy bền để nhân dân
Việt Nam cùng Đảng và nhà nước đi đến cuộc nổi dậy mùa Xuân năm 1976
nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam , thống nhất đất nước.
Bài học kinh nghiệm:
Một là, đánh giá đúng tình hình, dự báo sớm, chính xác âm mưu và hành
động chiến tranh của địch, bảo đảm sự chủ động về mọi mặt để đối phó thắng
lợi khi tình huống xảy ra.
Hai là, kiên định đường lối lãnh đạo của Đảng, xây dựng ý chí quyết
chiến, quyết thắng. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc khánh chiến
chống Mỹ, cứu nước nhờ đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phương
châm chỉ đạo chiến lược tài tình, phát huy sức mạnh để giành thắng lợi từng
bước.
Ba là, xây dựng tinh thần chủ động, quyết đánh và quyết thắng cho bộ
đội phòng không - không quân.
Bốn là, sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ to lớn cảu bạn bè quốc tế và của
nhân dân tiến bộ trên thế giới về cả tinh thần lẫn vật chất, về vũ khí, trang bị kỹ
thuật hiện đại và nguồn lực vật chất,.. tất cả những nhân tố đó góp phần tạo
thành động lực và sức mạnh tổng hợp để quân và dân ta làm nên chiến thắng
“Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
III. Những giải pháp để Việt Nam có thể tận dụng được sức mạnh của thời đại
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
1. Khái niệm và bối cảnh Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
1.1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giao lưu, hợp tác, gắn kết nền kinh
tế của quốc gia này với quốc gia khác hoặc tổ chức kinh tế khu vực hội nhập
với toàn cầu. Đây là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia.
Trong hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế là giai đoạn phát triển cao nhất
mà mỗi quốc gia sẽ tham gia vào quá trình xây dựng, áp dụng các quy tắc và
luật lệ của cộng đồng. Khi đó các thành viên sẽ chịu sự ràng buộc theo các quy
định chung của cả khối kinh tế, những vẫn đảm bảo sự phù hợp và đạt lợi ích
cho dân tộc mình.
1.2. Bối cảnh Việt Nam hiện nay
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam bắt đầu từ rất sớm
nhưng chủ yếu được đẩy mạnh từ sau khi Đảng ta phát động sự nghiệp đổi
mới. Hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là
một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Các quan điểm,
chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế mang tính nhất quán, hệ
thống, luôn được cập nhật và mang tính kế thừa qua các kỳ Đại hội.
2. Những thuận lợi và khó khăn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay của Việt Nam
2.1. Thuận lợi
Mở rộng quan hệ bạn hàng: Nội dung của hội nhập là mở rộng thị
trường cho nhau, Cùng với việc được hưởng nhiều ưu đãi về thuế qua, xoá bỏ
hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng
hoá Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số
lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra
nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của người lao động.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế là cơ hội để thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư.
Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn
có của nước ta ra làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với
các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước
huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hoá các quan hệ tài
chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo
gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng
trong việc nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng…
Giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam: trong những năm vừa qua nhờ
phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương các khoản nợ
nước ngoài của Việt Nam trước đây được giải quyết thông qua câu lạc bộ
Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi
ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội
trong nước.
Tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến: Việt Nam gia nhập kinh tế quốc
tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật cho công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con
đường khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường
đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả.
Sự hợp tác của Việt Nam với các thị trường lớn đóng góp không nhỏ
vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu hút FDI có giá trị lớn:
Đối với thị trường Mỹ, Mỹ vẫn duy trì vị thế là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam. Tính chất bổ trợ của hai nền kinh tế Việt Nam và Mỹ là
đặc điểm quan trọng giúp Việt Nam định hình chính sách kinh tế, thương mại
với Mỹ theo hướng hài hoà và bền vững, bảo đảm các nền tảng quan trọng và
duy trì lợi ích quốc gia trong hợp tác song phương, từ đó đưa Mỹ trở thành đối
tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Số liệu của Tổng cục Hải quan Việt
Nam, năm 2021, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Mỹ đạt 111
tỷ USD, tăng gần 21 tỷ so với năm 2020. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam
đạt 96,29 tỷ USD, tăng 24,9%, nhập khẩu từ Mỹ đạt gần 15,27 tỷ USD, tăng
11,4% so với năm 2020.
Đối với thị trường Trung Quốc, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt
Nam và Trung Quốc trong thời gian qua phát triển theo hướng tích cực, đạt
nhiều tiến triển mới. Theo Tổng cục Hải quan, thương mại hai chiều Việt Nam
- Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2022 đạt 87,3 tỷ USD, trong đó kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 26,17 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ
năm 2021 (tương đương tăng hơn 1,6 tỷ USD) và nhập khẩu từ Trung Quốc lên
đến 61,12 tỷ USD, tăng 14,63% (tương đương tăng 7.8 tỷ USD)
Đối với thị trường Hàn Quốc, doanh nghiệp FDI Hàn Quốc đóng góp
hơn 30% trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hàn Quốc cũng là một
trong số ít quốc gia tham gia ký kết FTA song phương và đa phương với Việt
Nam. Trong hai tháng đầu năm 2022, kim ngạch thương mại song phương tiếp
tục phát triển mạnh mẽ khi tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 13,8 tỷ USD,
tăng 19,03% so với cùng kỳ 2021.
Đối với thị trường Nhật Bản, kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao (1973), quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển mạnh
mẽ và năng động nhất, Nhật Bản trở thành đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu
của Việt Nam và ngược lại. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm
2021, hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 20,13 tỷ
USD, tăng 4,4% so với năm 2020. Việt Nam nhập siêu từ thị trường này trị
giá trên 2,52 tỷ USD, tăng 138,5% so với năm 2020.
2.2. Khó khăn
Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, đặc biệt là chưa tận dụng được
hết những cơ hội mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem đến mà ngược lại
hội nhập kinh tế quốc tế còn làm trầm trong hơn những khó khăn nội tại của
nền kinh tế, cụ thể:
Thứ nhất, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế càng nhanh, càng rộng thì
áo lực cạnh tranh đối với sản xuất trong nước càng lớn trong khi năng lực sản
xuất trong nước chậm cải thiện, đặc biệt là ở các ngành công nghiệp nên nhập
siêu đã liên tục tăng lên. Trong khi đó, sự chuẩn bị trong nước về cơ bản là
chưa đủ, chưa có sự nỗ lực chung của cả cộng đồng để tận dụng cơ hội từ hội
nhập dẫn đến cơ cấu kinh tế còn chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu
quả; năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn ở múc thấp, khu vực tư nhân
quy mô còn nhỏ và còn nhiều hạn chế về năng lực tài chính,... tất cả vấn đề này
đều tác động và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của Việt Nam trong
tương lai.
Thứ hai, năng lực kiểm soát và điều tiết các dòng vốn còn yếu khiến cho
hiệu quả của FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) cũng như ODA (Hỗ trợ phát
triển chính thức) chưa cao. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho Việt Nam
cơ hội thu hút các dòng vốn nước ngoài cho phát triển kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy bên cạnh những tác động tích cực, chất lượng kiểm
soát và điều tiết, quản lí các dòng vốn này chưa cao nên những vấn đề như ô
nhiễm môi trường, chuyển giá, thất thu thuế, tác động lan tỏa từ khu vực kinh
tế nhà nước sang các khu vực khác kém, ổn định kinh tế vĩ mô,... đều là thách
thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ
trong các lĩnh vực khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một
chiến lược tổng thế. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát
quá trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn
nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải
thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu
cầu hội nhập.
Thứ tư, khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế chưa cao. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác
động trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập
sâu với nền kinh tế thế giới nhìn chung còn yếu. Công tác tham mưu, tư vấn
chính sách vẫn còn hạn chế trong việc phân tích, định hướng và dự báo những
vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.
Thứ năm, nền kinh tế vẫn mang tính gia công,chưa tạo ra các thương
hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng
chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn
thấp, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ sáu, các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế chậm được
lồng ghép, nhìn nhận đầy đủ trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, chưa gắn kết chặt chẽ với công tác quản lý điều hành phát triển kinh tế -
xã hội, và thiếu nguồn lực để thực hiện.Tính gắn kết giữa các ngành, lĩnh vực
chưa cao, nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được xử lý hoặc xử lý cục
bộ, ngắn hạn. Ở cấp độ vi mô, chủ trương, chính sách hội nhập chưa được cụ
thể hoá dẫn đến tình trạng thụ động,các doanh nghiệp chưa nhận thức hết tính
cấp thiết và lợi ích của hội nhập đối với hoạt động kinh doanh của mình.Cơ chế
giám sát, theo dõi việc thực hiện các kế hoạch, đề án, chương trình về hội nhập
kinh tế quốc tế chưa thực sự được chú trọng, gây khó khăn trong việc tổng hợp
đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết quả của việc triển khai một cách xác
đáng và toàn diện.
3. Giải pháp chung của Việt Nam để tận dụng sức mạnh của thời đại trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Để hội nhập quốc tế toàn diện trong giai đoạn mới có hiệu quả cần triển
khai thực hiện hệ thống các giải pháp sau:
Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức:
Thứ nhất, tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và
hội nhập quốc tế nói chung; chủ động , kịp thời phát hiện, đấu tranh với các
luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng
về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực thực thi
pháp luật; rà soát, bổ sung, hoàn thiện luật pháp trực tiếp liên quan đến hội
nhập kinh té quốc tế, tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy luật của kinh tế thị
trường và các cam kết,... bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua
các khó khăn, thách thức từ việc tham gia và thực hiện các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
mau bán - sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở phát huy nội lực, bảo
đảm tính độc lập, tự chủ nền kinh tế, phù hợp với các cam kết quốc tế, nâng
cao hiệu quả hoạt động.
Nâng cao năng lực cạnh tranh
Việc đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất và
năng lực cạnh tranh là tiền đề và là giải pháp quyết định để nâng cao nội lực
nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của hội nhập kinh tế, trong đó:
(1) Tiếp tục nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung ưu tiên đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước; tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô
vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; bảo đảm cân đối, giữ vững an ninh của nền
kinh tế.
(2) Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược, hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại; chú trọng
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập
của đất nước.
(3) Đẩy mạnh cơ cấu tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi
cả nước và từng vùng, địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ
trình cụ thể. Đổi mới phương thức thực hiện liên kết, phối hợp trong phát triển
kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hoá.
(4) Xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ và tạo mọi điều kiên
thuận lợi thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng,
chất lượng ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế để khu vực này thực sự trở
thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.
(5) Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn
nhân lực.
Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Để giữ vững độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tăng cường
đa dạng hoá và mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều đối tác, thực hiện hội
nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình sinh hoạt theo nhiều hướng, nhiều tuyến,
nhiều tầng là cách thức để tạo ra một dải lựa chọn, khiến cho Việt Nam không
bị lệ thuộc và bên ngoài. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều
kiện cơ bản để Việt Nam thực hiện mục tiêu xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Đổi mới sáng tạo công nghệ
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay, Việt Nam cần
thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, định vị đất nước ở
vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu và thu hẹp khoảng cách phát triển với
các nước. Đây chính là những nhân tố thuận lợi để Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh
cải cách, đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập và
phát triển nhanh, bền vững hơn. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay là
tìm kiếm động lực mới cho phát triển gắn với cuộc Cách mạng công nghệ 4.0
và lợi thế của đất nước như công nghệ thông tin, nông nghiệp công nghệ cao,
đô thị thông minh, các ngành dịch vụ được phát triển từ cuộc Cách mạng công
nghệ 4.0, y tế, du lịch chất lượng cao.
Không ngừng đổi mới phương pháp
Không ngừng đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng
các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến, cập nhật tình hình hội nhập
kinh tế quốc tế và hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp và người dân có nhận
thức đầy đủ hơn, từ đó có thể chủ động ứng phó và vượt qua thách thức, tận
dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế; tạo sự kiên định và đồng
thuận cao trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam.
Các cơ quan truyền thông cần khách quan khi đưa tin, bài, tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp và hoạt động xuất khẩu.
Chủ động và đương đầu với mọi thách thức
Chủ động nắm vững thời cơ, nghiên cứu cảnh báo sớm và có bước đi
chuẩn bị vững vàng trong thực hiện và đón đầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt trước những sức ép về trình độ, tri thức, tay nghề, nguy cơ tranh chấp
thương mại quốc tế mà các cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội và người lao động
trong nước phải đối mặt. Trong 5 năm qua, chúng ta đã có đội ngũ các nhà đàm
phán có kỹ năng về chuyên môn và nghiệp vụ được tạo nền tảng và đào tạo từ
giai đoạn đàm phán gia nhập WTO. Kinh nghiệm này cho thấy, để có nguồn
nhân lực chất lượng cao cho mỗi giai đoạn phát triển tiếp theo, các cơ quan bộ,
ngành hay doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đặc biệt trong bối cảnh
dịch chuyển các luồng lao động trong khu vực đang diễn ra mạnh mẽ như một
xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ ngày càng sâu rộng.
KẾT LUẬN

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nguồn nội
lực, kết hợp với điều kiện thuận lợi của ngoại lực là bài học đúc kết từ quá
trình phát triển lịch sử từ khi thành lập nước. Bài học chiến lược này có vai trò
quyết định thành bại của quá trình xây dựng và phát triển đất nước, hội nhập
quốc tế thành công. Nhờ chú trọng thu hút và kết hợp các nguồn lực bên trong
và bên ngoài cho phát triển, kinh tế - xã hội của đất nước liên tục phát triển, vị
thế của Việt Nam đã được nâng cao chưa từng có trên trường quốc tế, quan hệ
đối ngoại phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, toàn diện trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, quốc phòng và an ninh. Trong bối cảnh và tình hình mới ngày
càng phức tạp, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phải luôn
linh hoạt, thích ứng với các xu thế hoạt động của thế giới, nhưng trên hết phải
phát huy nguồn lực tổng hợp với nguồn lực nội tại, giữ vững mục tiêu, nhiệm
vụ và lợi ích quốc gia để đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

You might also like