Professional Documents
Culture Documents
Bài 22. Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền
Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)
1. Chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1965 - 1968)
a) Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mĩ ở miền Nam
Hiểu được âm mưu và hành động mới của Mĩ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ":
* Hoàn cảnh: Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mĩ phải chuyển sang chiến lược
"Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
* Đặc điểm: Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới được
tiến hành bằng lực lượng quân Mĩ, quân một số nước đồng minh của Mĩ và quân đội Sài Gòn, lúc cao
nhất lên gần 1,5 triệu tên....
* Âm mưu: tạo ra ưu thế về binh lục và hỏa lực để áp đảo quân ta bằng chiến thuật “tìm diệt” và “bình
định” cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lực lượng vũ trang của ta trở về phòng ngự,
buộc ta phải phân tán đánh nhỏ hoặc rút về biên giới.
* Thủ đoạn:
+ Mở cuộc hành quân “tìm diệt” vào căn cứ Vạn Tường (Quảng Ngãi).
+ Mở hai cuộc phản công mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967.
+ Dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc.
b) Chiến đấu chống chiến lược " Chiến tranh cục bộ" của Mĩ
* Mặt trận chính trị: cùng với phong trào phá ấp chiến lược được đẩy mạnh ở khắp các vùng nông
thôn, phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị dâng cao vùng giải phóng được mở rộng, uy tín
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng được nâng cao trên trường quốc tế.
* Mặt trận quân sự:
- Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi, 8/1965): sau một ngày (từ mờ sáng 18/8/1965) quân chủ lực
và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên.
Vạn Tường được coi là "Ấp Bắc" đối với quân Mĩ và quân đồng minh của Mĩ, mở đầu cao trào
"Tìm Mĩ mà đánh, lùng nguỵ mà diệt" trên khắp miền Nam.
- Chiến thắng mùa khô 1965- 1966 và 1966- 1967: nhân dân miền Nam lần lượt đập tan hai cuộc
phản công chiến lược gồm nhiều cuộc hành quân “Tìm diệt” và “Bình định” của Mĩ – ngụy.
- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
Ý nghĩa: giáng cho địch những đòn bất ngờ, làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải
tuyên bố "Phi Mĩ hoá chiến tranh", ngừng hoàn toàn ném bom bắn phá miền Bắc, ch ấp nhận đến đàm
phán với ta ở Pari, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ, vừa sản xuất và
làm nghĩa vụ hậu phương (1965 - 1968) (HS tự đọc)
3. Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và “Đông Dương hóa chiến tranh”
của Mĩ (1969 - 1973)
a) Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh"của Mĩ
Hiểu được âm mưu, thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh"
* Hoàn cảnh: Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ", Mĩ phải chuyển sang Chiến lược
"Việt Nam hoá chiến tranh"
* Đặc điểm "Việt Nam hoá chiến tranh" được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự
phối hợp về hoả lực, không quân Mĩ, vẫn do cố vấn Mĩ chỉ huy.
* Âm mưu:
+ Tiến hành "Việt Nam hoá chiến tranh ", Mĩ tiếp tục âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt",
để giảm xương máu người Mĩ trên chiến trường.
+ Quân đội Sài Gòn được sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương, thực hiện âm mưu “dùng
người Đông Dương đánh người Đông Dương”
* Thủ đoạn:
+ Tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự giúp đỡ chính quyền Sài Gòn xây dựng lực lượng chủ lực
mạnh
+ Mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, mở rộng xâm lược Lào và Campuchia để hỗ trợ cho "Việt
Nam hoá chiến tranh "
+ Mĩ tìm cách thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô, nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các
nước này đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
b) Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và “Đông Dương hóa chiến
tranh”của Mĩ
* Mặt trận chính trị - ngoại giao:
- Ngày 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập, được 23
nước công nhận, 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
- Ngày 24 - 25/04/1970: hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương họp, tăng cường quyết tâm đoàn kết
chống Mĩ.
- Ở các nơi khác, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và sinh viên, học sinh nổ ra liên tục.
- Quần chúng nổi dậy phá “Ấp chiến lược”, chống “bình định” Đầu năm 1971, cách mạng làm
chủ thêm 3600 ấp với 3 triệu dân.
*Mặt trận quân sự
- Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972
- Ngày 30/3/1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu,
rồi phát triển rộng khắp miền Nam.
- Ý nghĩa: giáng đòn nặng nề vào chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", buộc Mĩ phải tuyên bố "Mĩ
hoá" trở lại chiến tranh xâm lược (thừa nhận thất bại của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh").
4. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần
thứ hai của Mĩ và làm nghĩa vụ của hậu phương
a) Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội (HS tự đọc)
b) Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu
phương
* Vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
- Ngày 16/4/1972, Tổng thống Mĩ Níchxơn chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân
và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai).
- Từ ngày 18 đến hết ngày 29/12/1972, Mĩ mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay
B52 vào Hà Nội và Hải Phòng.
- Quân dân ta ở miền Bắc đã đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của
chúng, làm nên trận "Điện biên Phủ trên không".
- Kết quả: Trong trận" Điện Biên Phủ trên không" quân dân ta đã bắn rơi 81 máy bay, bắt sống 43 phi
công Mĩ. Trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, miền Bắc bắn rơi 735 máy bay Mĩ, bắn
chìm 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ.
- Ý nghĩa: "Điện Biên Phủ trên không" là trận quyết định buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt
động chống phá miền Bắc và kí Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
(1/1973).
* Làm nghĩa vụ hậu phương lớn: Miền Bắc vẫn đảm bảo tiếp nhận hàng viện trợ từ bên ngoài và chi
viện theo yêu cầu của chiến trường miền Nam.
Trong 3 năm (1969 - 1971), hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ, đưa vào chiến trường. Khối lượng
vật chất đưa vào các chiến trường tăng gấp 1,6 lần...
5. Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
Trình bày được đôi nét về diễn biến Hội nghị, nêu nội dung và ý nghĩa của Hiệp định Pari năm 1973
về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam:
- 27 – 1 – 1973, Mĩ phải kí hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
* Nội dung Hiệp định:
- Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam.
- Hai bên ngừng bắn ở miền Nam, Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống
miền Bắc Việt Nam.
- Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân các nước đồng minh, cam kết không dính líu quân
sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
- Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển
cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
* Ý nghĩa:
- Là thắng lợi của đường lối đấu tranh kết hợp giữa quân sự, chính trị với ngoại giao và là kết quả
của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân hai miền đất nước.
- Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, rút hết quân về nước.
- Mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, buộc Mĩ phải rút quân khỏi VN,
tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng MN thống nhất đất nước.
-------Hết------