You are on page 1of 18

Đề tài 6. Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 -1975.

Vận dụng
vào việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
A. MỞ ĐẦU

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
1. Hoàn cảnh ls sau năm 1954
1.1. Tình hình thế giới
Hệ thống XHCN ngày cành lớn mạnh về kinh tế và quốc phòng.
Phong trào giải phóng dân tộc đã phát triển rộng khắp đều ở cả 3 châu:
châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, làm sụp đổ căn bản chủ nghĩa thực dân cũ và
bước đầu làm thất bại âm mưu, tham vọng của chủ nghĩa thực dân mới.
Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế phát triển đều khắp ở các quốc
gia dân tộc.
Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ chạy đua vũ trang đang de doạ nền
hoà bình thế giới.
1.2. Đặc điểm tình hình nước ta sau năm 1954
Sau năm 1954 đất nước bị chia cắt thành 2 miền với 2 chế độ chính trị
khác nhau. Miền Bắc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, miền Nam vẫn
nằm trong ách thống trị của thực dân, phong kiến.
Kẻ thù của cách mạng Việt Nam là đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và
quốc phòng hùng mạnh.
2. Đường lối cách mạng VN 2 giai đoạn: 1954 – 1965 và 1965 – 1975
1.1 Từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, làm thất bại một
bước chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ (1954 - 1960)
1.1.1. Âm mưu của đế quốc Mỹ
Tiêu diệt phong trào cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài đất nước
ta. Biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự để làm bàn đạp
xâm lược miền Bắc.
Bao vây, ngăn chặn phong trào cộng sản lan rộng xuống Đông Nam Á,
phá hoại độc lập dân tộc và hoà bình ở Đông Nam Á.
1.1.2. Chủ trương của Đảng
Từ 1954 đến 1956: Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ
đấu tranh vũ trang trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp sang đấu tranh chính
trị là chủ yếu để củng cố hoà bình, đòi tổng tuyển cử thống nhất đất nước,
chống khủng bố, giữ gìn lực lượng.
Ngày 4/3/1956 Mỹ Diệm tổ chức tuyển cử riêng lẻ, bầu “Quốc hội” bù
nhìn. Hiệp định Giơnevơ bị chúng công khai bác bỏ. Mỹ Diệm rảnh tay tập
trung mũi nhọn dùng bạo lực tàn khốc, khủng bố nhân dân.
Từ 1957-1958: Đảng ta chủ trương đấu tranh chính trị là chính, xây dựng,
củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, lập các chiến khu, đấu tranh vũ trang ở
mức độ thích hợp để bảo vệ cách mạng, chuẩn bị chuyển lên giai đoạn mới
Nhưng nhu cầu thực tiễn không dừng lại ở đó. Khi Mỹ Diệm đã đưa lưỡi
lê vào chương trình nghị sự của chúng, khi nhân dân đã không trông cậy vào
đấu tranh chính trị đơn thuần và pháp lý Hiệp định Giơnevơ đê ngăn chặn bàn
tay khát máu của chúng thực tiễn lại đặt ra những vấn đề mới bức thiết hơn.
Thực tiễn đòi hỏi Đảng ta phải giải đáp những vấn đề vừa trước mắt, vừa cơ
bản, vừa lâu dài.
Hội nghị TW 15 (1/1959)
Xác định mâu thuẫn
Hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam:
Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ, địa chủ phong kiến
và bọn tư sản mại bản ở miền Nam,
Mâu thuẫn giữa hai con đuờng; tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam:
Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ xâm lược và tập đoàn tay
sai Ngô Đình Diệm
Mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông dân với địa chủ phong kiến.
Lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc.
Đối tượng của cách mạng:là đế quốc Mỹ, gai cấp tư sản mại bản và địa chủ
phong kiến.
Về nhiệm vụ cách mạng:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mang miền Nam là:
Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực
hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là:
Đoàn kết toàn dân, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm
Thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc
lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ.
Cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình thực hiện thống nhất nước
nhà, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Con đường phát triển cho cách mạng miền Nam là: là khởi nghĩa giành
chính quyển về tay nhân dân.
Ý nghĩa của Nghị quyết TW 15:
Mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, làm xoay chuyển tình thế. Từ
thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân miền Nam
Là cơ sở để cả nước đánh Mỹ
Góp phần vào quá trình hoàn thiện đường lôi chung cách mạng cả nước.
1.1.3. Phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam (1954 – 1960)
Thời gian đầu sau khi ký Hiệp Định Giơnevơ: Đảng lãnh đạo nhân dân đầu
tại đòi thi hành Hiệp Định Giơnevơ, thực hiện tổng tuyển cử cả nước. Mỹ -
Diệm tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Nhiều cuộc biểu tình, mít tinh nổ ra, chủ yếu là đấu tranh chính trị và đều bị
đin trong bể máu. Cách mạng miền Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Khi có Nghị quyết TW 15 (1/1959), Đảng ta phát động quần chúng khởi
nghĩa, làm lên một “Đồng Khởi" vang dội khắp Miền Nam.
Ý nghĩa thắng lợi của phong trào Đồng Khởi
Làm phá vỡ từng mảng hệ thống chính quyền địch ở nông thôn, làm thất bại
một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ,
đồng thời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên của cách mạng miền Nam:
từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Thắng lợi khẳng định tính đúng đắn đường lối chiến lược của Đảng.
Làm thất bại chiến lược “chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mỹ. Tạo ra
bước ngoặt mới cho cách mạng miền Nam tiến lên.
1.2. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
(1961 - 1965)
1.2.1. Âm mưa của địch
Chiến tranh đặc biệt
Là một hình thức trong chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt”
của Kennơđi và Giônxơn. Đây là một loại hình chiến chiến tranh thực dân kiểu
mới của Mỹ.
Âm mưu:
Mỹ đề ra hai kế hoạch quân sự: kế hoạch Staley Tailor và kế hoạch Giônxơn
Macnamara nhằm 3 mục tiêu:
- Tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta
- Tiến hành lập ấp chiến lược nhằm bình định miền Nam, tách lực lượng
cách mạng với nhân dân.
Phá hoại miền Bắc bằng chiến tranh tâm lý và gián điệp, ngăn chặn sự chi
viện của miền Bắc đối với miền Nam
Trong kế hoạch này Mỹ nguy coi, lập ấp chiến lược là nội dung cơ bản, là
xương sống của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
1.2.2. Chủ trương của Đảng
Thể hiện qua nghị quyết Bộ chính trị (1/1962 và 2/1962)
Đảng nhận định: Thời kỳ tạm ổn của chế độ Mỹ Diệm đã qua và thời kỳ
khủng hoảng liên tiếp đã bắt đầu,
Phương hướng chiến lược của cách mạng miền Nam: phát triển theo con
đường tiến lên tổng khởi nghĩa.
Nhiệm vụ trước mắt:
Nhanh chóng xây dựng lực lượng của ta về cả hai mắt chính trị và quân sự
Xây dựng cơ sở Đảng và quần chúng ở đồng bằng và đô thị
Xây dựng lực lượng vũ trang để tiêu diệt sinh lực địch
1.3. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ giữa
1965 -1968
1.3.1. Âm mưu của Mỹ
Chiến tranh cục bộ: là hình thức cao của chiến tranh thực dân mới được tiến
hành bằng: lực lượng quân viễn chính Mỹ cùng với quân chư hầu, cố vấn và
phương tiện chiến tranh. Trong đó quân viễn chinh Mỹ là con át chủ bải của
chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Âm mưu:
Chặn đứng sự phát triển của cách mạng miền Nam, cứu nguy cho chế độ Sài
Gòn, tìm diệt quân chủ lực giải phóng, giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Tăng cường các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá để mua chuộc lòng
dân, binh định lại miền Nam.
Tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhằm triệt phá tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và cắt chi viện từ
miền Bắc vào miền Nam.
1.3.2. Chủ trương của Đảng
Thể hiện trong Hội nghị TW: Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) và Hội nghị lần
thứ 12 (12/1965).
Đánh giá so sánh lực lượng: Mặc dù Mỹ đưa quân vào miền Nam động và
đầy mâu thuẫn, song so sánh lực lượng giữa ta và địch không có gì thay đổi.
Phương châm chiến lược: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng
thời tuỳ hoàn cảnh mà cần phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả 2
miền để tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối
ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo: kiên quyết tiến công, tiên công liên tục, đánh lui từng
bước, đánh bại từng âm mưu thủ đoạn, kéo địch xuống thang, từng bước tiến lên
giành thắng lợi cuối cùng.
Phương châm đấu tranh: vẫn kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính
trị, nhưng đấu tranh quân sự ngày càng co vai trò quyết định trực tiếp, triệt để
thực hiện 3 mũi giáp công.
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao: tăng cường tiếp xúc
với nhiều nước, làm rõ sự nghiệp chính nghĩa và thái độ thiện chí của ta, tranh
thủ : đồng tình, ủng hộ của các nước trên thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
Nghị quyết TW 11, nhất là Nghị quyết TW 12 là những văn kiện lịch sử rất
trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, là đường lối kháng chiến chống Mỹ,
góp phần soi đường cho quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi.
1.3.3. Kết quả
Giành thắng lợi trong trận đánh Núi Thành (Tam Kỳ - Quảng Nam)
(5/1965), trận Vạn tường (Bình Sơn - Quảng Ngãi) (8/1965).
Tháng 12/1967, Bộ chính trị họp và ra nghị quyết lịch sử: Phải giảng cho
địch một đòn thật mạnh, hiểm, bất ngờ và đồng loạt làm cho Mỹ lung lay ý đồ
xâm lược, tạo nên sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta, chuyển
cuộc chiến tranh sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến lên giành thắng lợi quyết định
bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa.
Vì vậy đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 - đêm giao thừa Tết Mậu
Thân, ta bất ngờ đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 64 thành phố, thị xã, thị trấn,
chi khu quân sự, cùng nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Được sự giúp đỡ của lực
lượng vũ trang nhân dân đã nổi dạy phá tan từng mảng hệ thống kìm kẹp của
địch giành quyền làm chủ ở mức độ khác nhau, ở nhiều nơi.
Thắng lợi của Tết Mậu Thân 1968 làm cho: Tổng thống Giôn xơn phải
tuyên bố 3 điểm:
- Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra (Thanh Hoá
trở ra)
Chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari
Không ra tranh cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 nữa.
Đây là sự thừa nhận đầu tiên nhưng đầy đủ nhất về sự phá sản của chiến
lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và là một thắng lợi quan trọng đối với cách
mạng miền Nam.
1.4. Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc
Mỹ, giải phỏng hoàn toàn miền Nam (1969 – 1975)
1.4.1. Đánh bại một bước quan trọng trong chiến lược “Việt Nam hoả
chiến tranh (1969-1973)
Âm mưu của địch:
Thực hiện “Việt Nam hoá chiến tranh” một mặt Mỹ rút quân về nước để lừa
bịp dư luận quốc tế và nước Mỹ, mặt khác càng tăng cường lực lượng cho quân
ngụy.
Mở rộng chiến tranh sang cả Lào và Campuchia, thực hiện “Đông dương
hoá chiến tranh”.
Lợi dụng mâu thuẫn trong các nước XHCN để cô lập và gây sức ép đối với
cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Mỹ tập trung bình định lại nông thôn, kiểm soát lại dân chúng.
Chủ trương của Đảng:
Hội nghị Bộ chính trị tháng 4/1969: vạch ra âm mưu chiến lược mới của
địch và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho quân và dân ta tiến hành đánh bại
chủ trương chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, nhưng sự chỉ đạo của ta lúc này
“chưa đánh giá thật đầy đủ” ý đồ nham hiểm của Mỹ cũng như những khó khăn
của ta trên chiến trường.
Hội nghị TW 18 (tháng 1/1970):
Hội nghị phân tích nguyên nhân của thiếu sót, khuyết điểm của HN Bộ
chính trị. Dự đoán âm mưu của địch: lấy bình định làm biện pháp hàng đầu, mở
rộng chiến tranh ra miền Bắc, Lào, Campuchia.
Nhiệm vụ trước mắt: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ở 2 miền, kiên trì đẩy mạnh kháng chiến.
Phương châm: Tiến công địch trê cả 3 vùng chiến lược, lấy nông thôn làm
hướng tiến công chính, quán triệt phương châm đánh lâu dài, trên cơ sở đó tranh
thủ giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân
sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng.
Hội nghị lần thứ 18 của Đảng đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về sự
chỉ đạo của Đảng trong giai đoạn mới. Hội nghị tổng kết thực tiễn cuộc đấu
tranh đặc rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong việc vận dụng đường
lối chiến tranh của Đảng, mở ra phương hướng mới, khắc phục những khó khăn
trước mắt và chuẩn bị cho những thắng lợi sau này.
1.4.2. Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975)
* Âm mưu của địch:
Mặc dù rút quân, nhưng Mỹ vẫn ngoan cố phá hoại Hiệp định Pari, vẫn tiếp
tục sử dụng nguỵ quân, nguỵ quyền, tiếp tục cuộc chiến tranh “Việt Nam hoả”.
Trang bị cho quân nguy thành quân đội mạnh nhất Đông Nam Á, thay thế quân
viễn chinh Mỹ, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường.
* Chủ trương của Đảng:
Hội nghị TW Đảng lần thứ 21 (tháng 7/1973)
Hội nghị đã kịp thời khẳng định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách
chiến tranh cách mạng và chỉ đạo chiến lược:
Con đường cách mạng miền Nam: bạo lực cách mạng.
Tư tưởng chỉ đạo: Kiên quyết, chủ động tiến công, tạo thời cơ, tiến lên giải
phóng MN, thực hiện thống nhất tổ quốc
Nhiệm vụ trước mắt cách mạng miền Nam: đấu tranh trên 3 mặt trận: chính
trị, quân sự và ngoại giao, tuỳ theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp các mặt trận
đó. Nhiệm vụ giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực cách mạng là
yêu cầu vừa bức thiết, vừa cơ bản trong giai đoạn mới, nhằm tạo thế, tạo lực và
tạo thời cơ chuẩn bị giải phóng miền Nam.
Điều kiện để giành thắng lợi: Đảng bộ miền Nam phải mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Nhiệm vụ miền Bắc: tranh thủ những điều kiện hiện có, tập trung các lực
lượng giao thông vận tải, ra sức chi viện cho miền Nam. Khôi phục và phát triển
nền kinh tế quốc dân, làm cho miền Bắc XHCN luôn là chỗ dựa vững chắc cho
cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hội nghị TW lần thứ 21 là một trong những văn kiện lịch sử của cuộc khủng
chiến chống Mỹ có ý nghĩa rất quan trọng, là văn kiện quan trọng trực tiếp chỉ
đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết
thúc chiến tranh.
Đến giữa năm 1974, chính quyền Sài Gòn khó khăn, Mỹ cắt giảm viện trợ,
làm cho sức chiến đấu, cơ động của quân nguy giảm. Nền chính trị nước Mỹ rồi
ren, buộc tổng Mỹ Nichxơn từ chức. Trên chiến trường miền Nam, tình hình so
sánh lực lượng thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng.
*Kết quả thực hiện:
Thực hiện chủ trương của Hội nghị TW 21 của Đảng, quân và dân miền
Nam đã kiên quyết phản công địch, chủ động mở những cuộc tiến công mới,
giành thắng lợi trên khắp chiến trường từ Trị Thiên đến Tây Nam Bộ và vùng
ven Sài gòn, làm cho so sảnh lực lượng thay đổi mau lẹ co lợi cho cách mạng.
Thực hiện kế hoạh chiến lược Bộ chính trị (10/1974 và 1/1975): Kế hoạch
tấn công bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên với trận đột phá chiến lược: Buôn
Ma Thuột (10/3/1975) đã giành thắng lợi nhanh chóng. Sau đó là chiến dịch
Huế - Đà Nẵng nổ ra và giành thắng lợi: Huế giải phóng 26/3, Đà Nẵng 29/3 tạo
điều kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam.
Thực hiện NQ Bộ chính trị (ngày 31/3/1975): Cuộc tiến công và nổi dậy
mùa Xuân 1975 được kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26 đến
30/4/1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa đến thắng lợi toàn vẹn cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cắm mốc son chói lọi trong tiến trình đi lên
của lịch sử dân tộc.
II. Vận dụng:
1. Làm rõ tính đúng đắn trong chủ trương của Đảng qua các NQ
Thứ nhất, đổi mới đường lối phát triển kinh tế
Bước đột phá có tính quyết định trong đổi mới đường lối phát triển kinh tế
của Đảng Cộng sản Việt Nam được mở ra từ Đại hội 6 của Đảng, tháng 12-
1986. Trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, từ kết quả tổng kết thực tiễn 10
năm xây dựng đất nước, chắt lọc những sáng kiến của nhân dân và tiếp nhận có
chọn lọc những bài học của các nước XHCN trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhìn nhận những tính chất của nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung
không còn phù hợp với yêu cầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, từ đó đi đến
quyết định xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa hợp tác quốc tế và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở định hướng từ Đại hội 6 của Đảng,
Đại hội 7 năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991), xác định chủ trương: “Phát triển một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó
kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, còn lại các thành phần kinh tế: tập thể,
cá thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế gia đình, đều được quyền phát triển dưới
sự quản lý của Nhà nước. Các hình thức sở hữu được kết hợp với nhau thành
“các tổ chức kinh tế đa dạng”; các tổ chức kinh tế được quyền “tự chủ và liên
kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh”.
Cương lĩnh 2011 của Đảng hoàn thiện thêm một bước đường lối xây dựng,
phát triển kinh tế, trong đó xác định đặc trưng kinh tế trong mô hình CNXH của
Việt Nam là: “có nền kinh kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Từ chỗ chỉ công nhận “chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh 1991) đến việc mở rộng
ra “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” là cả một bước đi xa về nhận thức lý luận
trên cơ sở những nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo Cương lĩnh
2011, đường lối phát triển kinh tế được cụ thể hóa là: “Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư
nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài được khuyến khích phát triển”.
Sự đổi mới đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản, mở ra con
đường phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực sự một cuộc
cách mạng về nhận thức và thực tiễn, dẫn đến những thành tựu lịch sử toàn diện
về xây dựng và phát triển của Việt Nam.
Thứ hai, đổi mới đường lối xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Trên cơ sở nhận thức về tính chất, yêu cầu của công cuộc xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có diễn đạt mới về Đảng.
Thay vì xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc” (Cương lĩnh 1991), Cương lĩnh 2011 của Đảng
diễn đạt: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc”. Với nội dung diễn đạt mới, tính đại diện của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã mở rộng ra phạm vi cả dân tộc. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ
tính chất là “đội tiên phong của giai cấp công nhân”, thể hiện tính chất cách
mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân, vẫn lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức. Cách diễn đạt mới thể hiện đường lối của Đảng tập trung chủ yếu cho
mục tiêu phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần lao động sáng
tạo của nhân dân, thực hiện thành công các mục tiêu đặt ra cho công cuộc xây
dựng CNXH.
Trong quá trình thực hiện đường lối Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
không ngừng tổng kết, đánh giá về vai trò, tính chất, yêu cầu, kết quả công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng để rút ra những bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở
những bài học đó, Đảng đã dần dần đổi mới chủ trương về công tác xây dựng
Đảng, chủ yếu tập trung ở các nội dung: Thứ nhất, Đảng xác định, cùng với Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là
“kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể” của đất nước, “kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại”. Thứ hai, Đảng phải
“thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản
lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo”. Thứ ba, nhấn mạnh hơn mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng với dân, củng cố niềm tin của dân đối với Đảng, Đảng dựa vào
dân để xây dựng, Đảng chịu sự giám sát của dân. Thứ tư, Đảng phải “chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, sức
chiến đấu” ngang tầm nhiệm vụ. Thứ năm, thường xuyên đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ sự đoàn kết của
Đảng.
Sự đổi mới quan trọng nhất trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng nhà nước là từ nhà nước chuyên chính vô sản trước Đổi mới đến
chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Nghị quyết Đại hội IV của
Đảng xác định: “Nhà nước chuyên chính vô sản của ta phải là nhà nước của
dân, do dân và vì dân, một tổ chức đủ năng lực tiến hành ba cuộc cách mạng,
xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới”(3).
Đến Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994, chủ trương về xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN được Đảng chính thức xác lập. Tại Cương
lĩnh 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định một lần nữa, “nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo” là một trong 8 đặc trưng của mô hình CNXH Việt Nam.
Thứ ba, đổi mới đường lối xây dựng văn hóa, con người, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội
Xét một cách tổng thể, có thể nói đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng văn hóa, con người là tương đối nhất quán trong cả quá trình cách
mạng. Những đổi mới trong lĩnh vực này chủ yếu là ở các mức độ, khía cạnh
như: Cụ thể hóa đường lối thành các chủ trương rõ hơn; nhận thức sâu sắc hơn
về các quan điểm; cập nhật các quan điểm, chủ trương chung cho phù hợp với
điều kiện, bối cảnh mới và đổi mới về nội dung, giải pháp tổ chức thực hiện.
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Đó là sự khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa với tư cách là sức
mạnh dẫn dắt đời sống mọi mặt của đất nước. Theo tinh thần ấy, Đề cương văn
hóa của Đảng năm 1943 xác định 3 tính chất của nền văn mới là dân tộc, khoa
học, đại chúng. Cương lĩnh 2011 làm rõ hơn vai trò của văn hóa với tính cách là
một trong 4 trụ cột chính sách của Đảng, văn hóa là “nền tảng tinh thần vững
chắc” của xã hội, là “sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Từ tổng kết
đánh giá tình hình thực tế, nhất là chỉ ra sự phát triển chưa đồng bộ, hợp lý mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI, ngày
14/5/2014 nhấn mạnh quan điểm hàng đầu về văn hóa: “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn
hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Với vai trò to lớn
ấy, Đảng xác định yêu cầu đặt ra là xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”, một nền văn hóa “thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học”.
Về con người, quan điểm về mục tiêu cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định ngay từ khi thành lập Đảng, đó là đấu tranh nhằm mang
lại tự do, hạnh phúc cho con người. Từ năm 1953, trong tác phẩm “Thường thức
chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là
để “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức”. Cương
lĩnh 1991 làm rõ hơn quan điểm về con người trong mô hình CNXH mà đất
nước hướng tới. Đó là: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều phát triển toàn diện cá nhân”. Cương lĩnh 2011 tiếp tục hoàn thiện
nhận thức về con người, đặt “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển”. Nói cách khác, con người vừa là mục tiêu, đồng
thời vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH. Từ quan điểm đó, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được từng bước đổi mới, hoàn thiện trong quá
trình thực hiện đường lối đổi mới, theo hướng ngày càng tạo điều kiện để cải
thiện toàn diện đời sống của nhân dân, ngày càng quan tâm hơn đến sự phát
triển toàn diện, hài hòa của con người. Cụ thể hơn, yêu cầu đặt ra là tăng trưởng
kinh tế đồng thời với xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách; bảo đảm
cho người dân được thụ hưởng đầy đủ những thành tựu của phát triển.
Thứ tư, đổi mới đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Quá trình đổi mới đường lối quốc phòng, an ninh và đối ngoại gắn liền với
quá trình nhận thức lý luận và thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển
đất nước mà mở đầu là quan điểm được khẳng định tại Hội nghị đại biểu giữa
nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1996): “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đây là sự
đổi mới tất yếu trong điều kiện, bối cảnh mới của thế giới, nhất là trong điều
kiện toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Đại hội IX của
Đảng (tháng 4-2001) khẳng định nhất quán đường lối đó và tuyên bố rõ hơn về
trách nhiệm trong hợp tác: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Cụ thể hóa đường lối đối ngoại trên, với tinh thần thêm bạn, bớt thù, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ, mở rộng hợp tác phát triển, Hội
nghị Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) ra Nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới” và xác định quan điểm về đối tác, đối tượng.
Mười năm sau, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI
về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (25-10-2013) đã xác định
rõ hơn quan điểm đối tác - đối tượng, trong đó: Đối tác là những ai tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thiết lập và mở rộng quan hệ
hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam; Đối tượng là “bất kỳ
thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Quan điểm đối tác - đối tượng thể hiện
một cách nhìn biện chứng về bối cảnh thế giới, làm cho chính sách quốc phòng,
an ninh, đối ngoại của Đảng mềm mại, uyển chuyển hơn, mở ra điều kiện thuận
lợi cho mở rộng hợp tác phát triển, tăng cường hội nhập quốc tế toàn diện của
đất nước.
Về quốc phòng, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định quan điểm 4 không:
Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại
nước khác; không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để
chống nước kia; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Quan điểm 4 không là kết quả nhận thức lý luận mới của Đảng về
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cũng là kết quả của việc tổng kết những bài học
kinh nghiệm từ thực tế công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ
quốc. Đến lượt nó, đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại theo quan điểm 4
không là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho những thành tựu to
lớn, toàn diện của đất nước trong giai đoạn vừa qua.
2. Liên hệ vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được những thành tựu toàn diện, to lớn
và quan trọng; trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, đời sống của
Nhân dân có nhiều thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở
rộng, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng
Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị
được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững;
quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Tuy nhiên, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị vẫn còn
một số hạn chế cần được hoàn thiện. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của
Đảng chỉ rõ: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn
chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và
Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”(1). Việc thể chế
hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức thực hiện vẫn là
khâu yếu. Công tác tư tưởng còn có mặt hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết phục
chưa cao. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu
chưa cao. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát
thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số
nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao
biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn
xảy ra ở một số nơi. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh:
“Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp”(2).
Do vậy, việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị luôn được đặc biệt quan tâm. Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng, đồng thời tôn trọng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, vai trò,
tính tự chủ, năng động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị, cần
thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng ta phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền; giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao lập trường, bản lĩnh chính
trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp chiến lược. Tích cực đấu tranh, phản bác có
hiệu quả quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; thực hiện nghiêm các
nguyên tắc, quy định; thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác hoạch định đường lối, chủ trương của
Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Coi trọng năng
lực dự báo và ứng phó với các thách thức, diễn biến khó lường của tình hình
khu vực và thế giới. Cần có các chủ trương, giải pháp cụ thể, bám sát và xuất
phát từ thực tiễn, đánh giá tác động, bố trí nguồn lực và tổ chức thực hiện có
hiệu quả. Nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các
chủ trương, nghị quyết của Đảng; kiên quyết khắc phục những yếu kém, trì trệ,
tình trạng né tránh trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức
thực hiện chủ trương, nghị quyết; kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xác định rõ trách
nhiệm tập thể và cá nhân.
Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng
yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Ðó là sự lựa chọn
duy nhất đúng và được thực tiễn kiểm nghiệm; kiên quyết giữ vững nguyên tắc
lãnh đạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất
trong Ðảng. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức đầy đủ và
sâu sắc để thường xuyên có kế hoạch nghiên cứu học tập, nâng cao trình độ, tư
duy lý luận, nhận thức để phân tích, tổng kết thực tiễn, năng lực đề ra quyết
sách đúng và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, thường xuyên đổi mới, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng yêu cầu: “Đổi mới mạnh
mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm
nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; đổi mới việc xây dựng,
ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng
ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi”(3). Đảng cần đổi mới
tư duy lý luận, nâng cao tầm nhận thức về vị thế cầm quyền, lãnh đạo; đổi mới,
nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết. Đồng thời, phải làm tốt
công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đảm bảo cho Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đồng thời,
không ngừng chỉnh đốn về tổ chức, lề lối làm việc... nghiêm túc nhìn nhận
những ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để khắc phục sửa chữa, góp phần củng
cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội, đội ngũ cán bộ, đảng viên và của toàn thể Nhân dân; xây dựng Nhà nước
thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Có sự phối hợp hiệu quả
giữa cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để hiện thực
hóa mục tiêu, lý tưởng và thực hiện nội dung cầm quyền, lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong các cấp
ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và
tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
Hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị; xác định rõ hơn chức năng,
nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; quan
tâm đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới.
Ba là, tăng cường xây dựng Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình.
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là việc tổ chức
thực hiện nghị quyết và khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh
đạo giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ sở”(4). Do vậy, xây dựng tổ chức cơ sở
đảng phải hướng vào nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở
đảng, nhất là ở cấp xã. Việc tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng phải gắn với thực hiện đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp hoạt động theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng
cường kỷ cương, kỷ luật. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn
mạnh: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân,
tăng cường đồng thuận xã hội”(5).
Khắc phục tính hình thức trong sinh hoạt đảng, bảo đảm sự lãnh đạo, tính
giáo dục, tính chiến đấu và thực hành dân chủ của tổ chức cơ sở đảng. Từ đó,
tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng,
bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên mọi lĩnh vực để xây dựng và phát
triển đất nước nhanh và bền vững. Cấp ủy các cấp trước hết cần đổi mới cách ra
nghị quyết theo hướng ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ triển khai thành chương
trình hành động cụ thể. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối
với cấp ủy cấp dưới, nhất là kiểm tra việc thực hiện quy chế, chương trình làm
việc để kịp thời phát hiện, uốn nắn những thiếu sót trong thực hiện. Đồng thời,
các cấp ủy cần chỉ đạo xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ
thể để tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm nâng cao tính tích cực
và năng lực sáng tạo của đảng viên; bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ
chức đảng và đảng viên. Do đó, cần nhận thức thống nhất và có cơ chế cụ thể để
thực hiện, kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng và hành động sai trái. Các
cấp ủy và tổ chức đảng cần bảo đảm thực hiện và phát huy đầy đủ quyền của
đảng viên trong xây dựng quy chế, quy định để đảng viên tham gia trực tiếp vào
quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Cán
bộ lãnh đạo, trước hết là người đứng đầu cấp ủy đảng phải tôn trọng, lắng nghe
những ý kiến của đảng viên, của cấp dưới, lắng nghe những ý kiến khác nhau
trước khi quyết định.
Thực hiện dân chủ trong công tác cán bộ, đấu tranh với những khuynh
hướng dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan muốn lợi dụng dân chủ để chia
rẽ, bè phái, đả kích. Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị công tác nào đều phải
thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương và chấp hành theo nghị quyết. Tập trung
dân chủ phải gắn với phân công cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách
nhiệm và tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh
đó, thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình, chăm lo củng cố sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng, trên cơ sở nguyên tắc tổ chức và tình thương yêu
đồng chí. Giải quyết dứt điểm tình trạng mất đoàn kết ở một số nơi; kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, kèn cựa, lợi ích nhóm địa vị, cục
bộ bản vị... xây dựng tình thương yêu đồng chí, đồng đội; tôn trọng, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ vì sự nghiệp cách mạng.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, năng lực thực
hiện nhiệm vụ.
Thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và uy tín, ngang
tầm yêu cầu nhiệm vụ. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, các cơ quan, đơn vị. Kiên quyết đấu tranh
phòng, chống các biểu hiện chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái,
những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Coi trọng đánh giá
chất lượng, hiệu quả, sản phẩm thực tế theo chức trách, nhiệm vụ được giao và
đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Chú trọng cơ cấu hợp lý, quan tâm phát
hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số
ở các cấp, nhất là ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự tiên phong, gương mẫu trước Nhân
dân, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử
thách, dám hành động vì lợi ích chung”(6). Thực hiện tốt phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và nguyên
tắc: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh”(7). Cần quản lý chặt chẽ cán bộ ngay từ cơ sở, phát hiện và xử lý kịp thời
những hiện tượng vi phạm pháp luật và Điều lệ Đảng nhằm làm trong sạch nội
bộ Đảng. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán
bộ rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt công việc; kiên quyết phòng, chống các
biểu hiện bè phái, “lợi ích nhóm” trong công tác cán bộ. Công tác cán bộ là
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong giai đoạn cách mạng mới. Do đó, cần đổi
mới phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân chủ trên cơ
sở nắm vững quan điểm giai cấp, có chính sách đoàn kết tập hợp cán bộ để đào
tạo, bồi dưỡng và thu hút, trọng dụng nhân tài của đất nước, tránh tình trạng
chảy máu chất xám. Thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đồng thời bảo đảm tính
liên tục, kế thừa và phát triển trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Sử dụng, bố trí
cán bộ đúng người, đúng việc, phù hợp với khả năng trình độ và sở trường. Có
chính sách đãi ngộ hợp lý để đội ngũ cán bộ yên tâm công tác. Xử lý kiên quyết
với những cán bộ vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống, thoái hóa biến chất.
Từng bước đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng nhiệm vụ cách mạng và tạo
nguồn cán bộ kế cận lâu dài. Chú trọng thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống cho cán bộ, đảng
viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, thật
sự tiền phong, gương mẫu, có trách nhiệm cao trong công việc, có trí tuệ, phẩm
chất đạo đức cách mạng, tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao và có
năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của
Đảng. Các cấp ủy cần quan tâm hơn nữa đến công tác chính trị, tư tưởng, trang
bị kịp thời những thông tin, định hướng cho cán bộ, đảng viên, nhất là trước tác
động của những thông tin phức tạp, nhạy cảm, khiến dư luận quan tâm; quán
triệt và cụ thể hóa thực hiện các chủ trương, chính sách bảo đảm nghiêm túc,
phù hợp với tình hình thực tiễn mỗi cơ quan, đơn vị; đồng thời, thường xuyên rà
soát, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và
quy định của Đảng.
C.KẾT LUẬN

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.88-89.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2020, t1, tr. 94.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc
gia - Sự thật, H, 1997, t. 37, tr. 948.
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII,
IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.102-103, 670-671.

You might also like