You are on page 1of 17

Đề tài 6. Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 -1975.

Vận dụng vào


việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
A. MỞ ĐẦU
Đại thắng mùa Xuân 1975 là thành quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện ý chí,
khátvọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí
Minh. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua gần
21 năm, làcuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt và phức tạp nhất
trong lịch sử chống ngoạixâm của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh lâu
dài ấy, đế quốc Mỹ đã nhiều keo thấtbại phải bị động thay đổi chiến lược; ta
đánh thắng từng chiến lược chiến tranh của địch,giành thắng lợi từng bước làm
thay đổi cục diện chiến trường.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975
đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộckháng chiến chống Mỹ, tạo ra bước ngoặt
trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối vớinước ta - kỷ nguyên độc lập,
thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộckháng chiến lịch
sử này đã cho thấy được sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được thể hiện sâu sắc qua những đường lối chính
trị vàđường lối quân sự đúng đắn, những chiến lược sáng tạo, nhạy bén trong
cách phòng và đánhgiặc, truyền thống yêu nước nồng nàn của đất nước ngàn
năm văn hiến cho cuộc kháng chiếnchống đế quốc Mỹ xâm lược lâu dài, cam
go, quyết liệt. Việc xác định đường lối cách mạngđộc lập, tự chủ, đúng đắn,
sáng tạo đã thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tư duy chiến lược, tàithao lược xuất
sắc của Đảng, nhất là ở những thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc
khángchiến
Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được những thành tựu toàn diện, to lớn và
quan trọng; trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, đời sống của
Nhân dân có nhiều thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở
rộng, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng
Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị
được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững;
quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Với những lý do trên, em chọn đề tài”
Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 -1975. Vận dụng vào việc
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tiểu
luận của mình.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
1. Hoàn cảnh ls sau năm 1954
1.1. Tình hình thế giới
Hệ thống XHCN ngày cành lớn mạnh về kinh tế và quốc phòng.
Phong trào giải phóng dân tộc đã phát triển rộng khắp đều ở cả 3 châu: châu
Á, châu Phi, Mỹ Latinh, làm sụp đổ căn bản chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu
làm thất bại âm mưu, tham vọng của chủ nghĩa thực dân mới.
Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế phát triển đều khắp ở các quốc gia
dân tộc.
Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ chạy đua vũ trang đang de doạ nền hoà
bình thế giới.
1.2. Đặc điểm tình hình nước ta sau năm 1954
Sau năm 1954 đất nước bị chia cắt thành 2 miền với 2 chế độ chính trị khác
nhau. Miền Bắc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, miền Nam vẫn nằm
trong ách thống trị của thực dân, phong kiến.
Kẻ thù của cách mạng Việt Nam là đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và quốc
phòng hùng mạnh.
2. Đường lối cách mạng VN 2 giai đoạn: 1954 – 1965 và 1965 – 1975
1.1 Từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, làm thất bại một
bước chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ (1954 - 1960)
1.1.1. Âm mưu của đế quốc Mỹ
Tiêu diệt phong trào cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài đất nước ta.
Biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự để làm bàn đạp
xâm lược miền Bắc.
Bao vây, ngăn chặn phong trào cộng sản lan rộng xuống Đông Nam Á, phá
hoại độc lập dân tộc và hoà bình ở Đông Nam Á.
1.1.2. Chủ trương của Đảng
Từ 1954 đến 1956: Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ đấu
tranh vũ trang trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp sang đấu tranh chính trị là
chủ yếu để củng cố hoà bình, đòi tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chống
khủng bố, giữ gìn lực lượng.
Ngày 4/3/1956 Mỹ Diệm tổ chức tuyển cử riêng lẻ, bầu “Quốc hội” bù nhìn.
Hiệp định Giơnevơ bị chúng công khai bác bỏ. Mỹ Diệm rảnh tay tập trung mũi
nhọn dùng bạo lực tàn khốc, khủng bố nhân dân.
Từ 1957-1958: Đảng ta chủ trương đấu tranh chính trị là chính, xây dựng,
củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, lập các chiến khu, đấu tranh vũ trang ở
mức độ thích hợp để bảo vệ cách mạng, chuẩn bị chuyển lên giai đoạn mới
Nhưng nhu cầu thực tiễn không dừng lại ở đó. Khi Mỹ Diệm đã đưa lưỡi lê
vào chương trình nghị sự của chúng, khi nhân dân đã không trông cậy vào đấu
tranh chính trị đơn thuần và pháp lý Hiệp định Giơnevơ đê ngăn chặn bàn tay
khát máu của chúng thực tiễn lại đặt ra những vấn đề mới bức thiết hơn. Thực
tiễn đòi hỏi Đảng ta phải giải đáp những vấn đề vừa trước mắt, vừa cơ bản, vừa
lâu dài.
Hội nghị TW 15 (1/1959)
Xác định mâu thuẫn
Hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam:
Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ, địa chủ phong kiến và
bọn tư sản mại bản ở miền Nam,
Mâu thuẫn giữa hai con đuờng; tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam:
Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ xâm lược và tập đoàn tay sai
Ngô Đình Diệm
Mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông dân với địa chủ phong kiến.
Lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Đối
tượng của cách mạng:là đế quốc Mỹ, gai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong
kiến.
Về nhiệm vụ cách mạng:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mang miền Nam là:
Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện
độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là:
Đoàn kết toàn dân, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm
Thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập
dân tộc và các quyền tự do dân chủ.
Cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình thực hiện thống nhất nước nhà,
tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Con đường phát triển cho cách mạng miền Nam là: là khởi nghĩa giành chính
quyển về tay nhân dân.
Ý nghĩa của Nghị quyết TW 15:
Mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, làm xoay chuyển tình thế. Từ thế
giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân miền Nam
Là cơ sở để cả nước đánh Mỹ
Góp phần vào quá trình hoàn thiện đường lôi chung cách mạng cả nước.
1.1.3. Phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam (1954 – 1960)
Thời gian đầu sau khi ký Hiệp Định Giơnevơ: Đảng lãnh đạo nhân dân đầu tại
đòi thi hành Hiệp Định Giơnevơ, thực hiện tổng tuyển cử cả nước. Mỹ - Diệm
tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Nhiều cuộc biểu tình, mít tinh nổ ra, chủ yếu là đấu tranh chính trị và đều bị đin
trong bể máu. Cách mạng miền Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Khi có Nghị quyết TW 15 (1/1959), Đảng ta phát động quần chúng khởi nghĩa,
làm lên một “Đồng Khởi" vang dội khắp Miền Nam.
Ý nghĩa thắng lợi của phong trào Đồng Khởi
Làm phá vỡ từng mảng hệ thống chính quyền địch ở nông thôn, làm thất bại
một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ,
đồng thời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên của cách mạng miền Nam:
từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Thắng lợi khẳng định tính đúng đắn đường lối chiến lược của Đảng.
Làm thất bại chiến lược “chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mỹ. Tạo ra bước
ngoặt mới cho cách mạng miền Nam tiến lên.
1.2. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1961 -
1965)
1.2.1. Âm mưa của địch
Chiến tranh đặc biệt
Là một hình thức trong chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của
Kennơđi và Giônxơn. Đây là một loại hình chiến chiến tranh thực dân kiểu mới
của Mỹ.
Âm mưu:
Mỹ đề ra hai kế hoạch quân sự: kế hoạch Staley Tailor và kế hoạch Giônxơn
Macnamara nhằm 3 mục tiêu:
- Tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta
- Tiến hành lập ấp chiến lược nhằm bình định miền Nam, tách lực lượng cách
mạng với nhân dân.
Phá hoại miền Bắc bằng chiến tranh tâm lý và gián điệp, ngăn chặn sự chi viện
của miền Bắc đối với miền Nam
Trong kế hoạch này Mỹ nguy coi, lập ấp chiến lược là nội dung cơ bản, là
xương sống của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
1.2.2. Chủ trương của Đảng
Thể hiện qua nghị quyết Bộ chính trị (1/1962 và 2/1962)
Đảng nhận định: Thời kỳ tạm ổn của chế độ Mỹ Diệm đã qua và thời kỳ khủng
hoảng liên tiếp đã bắt đầu,
Phương hướng chiến lược của cách mạng miền Nam: phát triển theo con đường
tiến lên tổng khởi nghĩa.
Nhiệm vụ trước mắt:
Nhanh chóng xây dựng lực lượng của ta về cả hai mắt chính trị và quân sự
Xây dựng cơ sở Đảng và quần chúng ở đồng bằng và đô thị
Xây dựng lực lượng vũ trang để tiêu diệt sinh lực địch
1.3. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ giữa 1965
-1968
1.3.1. Âm mưu của Mỹ
Chiến tranh cục bộ: là hình thức cao của chiến tranh thực dân mới được tiến
hành bằng: lực lượng quân viễn chính Mỹ cùng với quân chư hầu, cố vấn và
phương tiện chiến tranh. Trong đó quân viễn chinh Mỹ là con át chủ bải của
chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Âm mưu:
Chặn đứng sự phát triển của cách mạng miền Nam, cứu nguy cho chế độ Sài
Gòn, tìm diệt quân chủ lực giải phóng, giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Tăng cường các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá để mua chuộc lòng dân,
binh định lại miền Nam.
Tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhằm triệt phá tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và cắt chi viện từ miền Bắc
vào miền Nam.
1.3.2. Chủ trương của Đảng
Thể hiện trong Hội nghị TW: Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) và Hội nghị lần thứ
12 (12/1965).
Đánh giá so sánh lực lượng: Mặc dù Mỹ đưa quân vào miền Nam động và đầy
mâu thuẫn, song so sánh lực lượng giữa ta và địch không có gì thay đổi.
Phương châm chiến lược: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
tuỳ hoàn cảnh mà cần phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả 2 miền để
tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên
chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo: kiên quyết tiến công, tiên công liên tục, đánh lui từng bước,
đánh bại từng âm mưu thủ đoạn, kéo địch xuống thang, từng bước tiến lên giành
thắng lợi cuối cùng.
Phương châm đấu tranh: vẫn kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,
nhưng đấu tranh quân sự ngày càng co vai trò quyết định trực tiếp, triệt để thực
hiện 3 mũi giáp công.
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao: tăng cường tiếp xúc với
nhiều nước, làm rõ sự nghiệp chính nghĩa và thái độ thiện chí của ta, tranh thủ :
đồng tình, ủng hộ của các nước trên thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
Nghị quyết TW 11, nhất là Nghị quyết TW 12 là những văn kiện lịch sử rất
trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, là đường lối kháng chiến chống Mỹ,
góp phần soi đường cho quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi.
1.3.3. Kết quả
Giành thắng lợi trong trận đánh Núi Thành (Tam Kỳ - Quảng Nam) (5/1965),
trận Vạn tường (Bình Sơn - Quảng Ngãi) (8/1965).
Tháng 12/1967, Bộ chính trị họp và ra nghị quyết lịch sử: Phải giảng cho địch
một đòn thật mạnh, hiểm, bất ngờ và đồng loạt làm cho Mỹ lung lay ý đồ xâm
lược, tạo nên sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta, chuyển cuộc
chiến tranh sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến lên giành thắng lợi quyết định bằng
phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa.
Vì vậy đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 - đêm giao thừa Tết Mậu Thân,
ta bất ngờ đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 64 thành phố, thị xã, thị trấn, chi khu
quân sự, cùng nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Được sự giúp đỡ của lực lượng
vũ trang nhân dân đã nổi dạy phá tan từng mảng hệ thống kìm kẹp của địch
giành quyền làm chủ ở mức độ khác nhau, ở nhiều nơi.
Thắng lợi của Tết Mậu Thân 1968 làm cho: Tổng thống Giôn xơn phải tuyên bố
3 điểm:
- Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra (Thanh Hoá trở
ra)
Chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari
Không ra tranh cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 nữa.
Đây là sự thừa nhận đầu tiên nhưng đầy đủ nhất về sự phá sản của chiến lược
“chiến tranh cục bộ” của Mỹ và là một thắng lợi quan trọng đối với cách mạng
miền Nam.
1.4. Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ,
giải phỏng hoàn toàn miền Nam (1969 – 1975)
1.4.1. Đánh bại một bước quan trọng trong chiến lược “Việt Nam hoả chiến
tranh (1969-1973)
Âm mưu của địch:
Thực hiện “Việt Nam hoá chiến tranh” một mặt Mỹ rút quân về nước để lừa bịp
dư luận quốc tế và nước Mỹ, mặt khác càng tăng cường lực lượng cho quân
ngụy.
Mở rộng chiến tranh sang cả Lào và Campuchia, thực hiện “Đông dương hoá
chiến tranh”.
Lợi dụng mâu thuẫn trong các nước XHCN để cô lập và gây sức ép đối với cuộc
kháng chiến của nhân dân ta.
Mỹ tập trung bình định lại nông thôn, kiểm soát lại dân chúng.
Chủ trương của Đảng:
Hội nghị Bộ chính trị tháng 4/1969: vạch ra âm mưu chiến lược mới của địch và
đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho quân và dân ta tiến hành đánh bại chủ
trương chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, nhưng sự chỉ đạo của ta lúc này “chưa
đánh giá thật đầy đủ” ý đồ nham hiểm của Mỹ cũng như những khó khăn của ta
trên chiến trường.
Hội nghị TW 18 (tháng 1/1970):
Hội nghị phân tích nguyên nhân của thiếu sót, khuyết điểm của HN Bộ chính
trị. Dự đoán âm mưu của địch: lấy bình định làm biện pháp hàng đầu, mở rộng
chiến tranh ra miền Bắc, Lào, Campuchia.
Nhiệm vụ trước mắt: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ở 2 miền, kiên trì đẩy mạnh kháng chiến.
Phương châm: Tiến công địch trê cả 3 vùng chiến lược, lấy nông thôn làm
hướng tiến công chính, quán triệt phương châm đánh lâu dài, trên cơ sở đó tranh
thủ giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự
và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng.
Hội nghị lần thứ 18 của Đảng đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về sự chỉ
đạo của Đảng trong giai đoạn mới. Hội nghị tổng kết thực tiễn cuộc đấu tranh
đặc rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong việc vận dụng đường lối
chiến tranh của Đảng, mở ra phương hướng mới, khắc phục những khó khăn
trước mắt và chuẩn bị cho những thắng lợi sau này.
1.4.2. Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975)
* Âm mưu của địch:
Mặc dù rút quân, nhưng Mỹ vẫn ngoan cố phá hoại Hiệp định Pari, vẫn tiếp tục
sử dụng nguỵ quân, nguỵ quyền, tiếp tục cuộc chiến tranh “Việt Nam hoả”.
Trang bị cho quân nguy thành quân đội mạnh nhất Đông Nam Á, thay thế quân
viễn chinh Mỹ, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường.
* Chủ trương của Đảng:
Hội nghị TW Đảng lần thứ 21 (tháng 7/1973)
Hội nghị đã kịp thời khẳng định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách
chiến tranh cách mạng và chỉ đạo chiến lược:
Con đường cách mạng miền Nam: bạo lực cách mạng.
Tư tưởng chỉ đạo: Kiên quyết, chủ động tiến công, tạo thời cơ, tiến lên giải
phóng MN, thực hiện thống nhất tổ quốc
Nhiệm vụ trước mắt cách mạng miền Nam: đấu tranh trên 3 mặt trận: chính trị,
quân sự và ngoại giao, tuỳ theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp các mặt trận đó.
Nhiệm vụ giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực cách mạng là yêu
cầu vừa bức thiết, vừa cơ bản trong giai đoạn mới, nhằm tạo thế, tạo lực và tạo
thời cơ chuẩn bị giải phóng miền Nam.
Điều kiện để giành thắng lợi: Đảng bộ miền Nam phải mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Nhiệm vụ miền Bắc: tranh thủ những điều kiện hiện có, tập trung các lực lượng
giao thông vận tải, ra sức chi viện cho miền Nam. Khôi phục và phát triển nền
kinh tế quốc dân, làm cho miền Bắc XHCN luôn là chỗ dựa vững chắc cho cuộc
đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hội nghị TW lần thứ 21 là một trong những văn kiện lịch sử của cuộc khủng
chiến chống Mỹ có ý nghĩa rất quan trọng, là văn kiện quan trọng trực tiếp chỉ
đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết
thúc chiến tranh.
Đến giữa năm 1974, chính quyền Sài Gòn khó khăn, Mỹ cắt giảm viện trợ, làm
cho sức chiến đấu, cơ động của quân nguy giảm. Nền chính trị nước Mỹ rồi ren,
buộc tổng Mỹ Nichxơn từ chức. Trên chiến trường miền Nam, tình hình so sánh
lực lượng thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng.
*Kết quả thực hiện:
Thực hiện chủ trương của Hội nghị TW 21 của Đảng, quân và dân miền Nam đã
kiên quyết phản công địch, chủ động mở những cuộc tiến công mới, giành thắng
lợi trên khắp chiến trường từ Trị Thiên đến Tây Nam Bộ và vùng ven Sài gòn,
làm cho so sảnh lực lượng thay đổi mau lẹ co lợi cho cách mạng.
Thực hiện kế hoạh chiến lược Bộ chính trị (10/1974 và 1/1975): Kế hoạch tấn
công bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên với trận đột phá chiến lược: Buôn Ma
Thuột (10/3/1975) đã giành thắng lợi nhanh chóng. Sau đó là chiến dịch Huế -
Đà Nẵng nổ ra và giành thắng lợi: Huế giải phóng 26/3, Đà Nẵng 29/3 tạo điều
kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam.
Thực hiện NQ Bộ chính trị (ngày 31/3/1975): Cuộc tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975 được kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26 đến
30/4/1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa đến thắng lợi toàn vẹn cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cắm mốc son chói lọi trong tiến trình đi lên
của lịch sử dân tộc.
II. Vận dụng:
1. Làm rõ tính đúng đắn trong chủ trương của Đảng qua các NQ
Ngay từ khi mới thành lập (3-2-1930), căn cứ vào đặc điểm tình hình của đất
nước, Đảng ta đã xác định đúng đắn mục tiêu, nội dung, đối tượng, lực lượng
của cách mạng trong Chánh cương Vắn tắt, Sách lược Vắn tắt và Luận cương
Chính trị 1930. Trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, đường lối quân sự của
Đảng được hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện trong thực tiễn đấu
tranh cách mạng. Từ cao trào 1930 - 1931 đến Cách mạng tháng Tám 1945,
xuất phát từ đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Đảng đã đề ra
đường lối khởi nghĩa toàn dân và chỉ đạo cả nước tiến hành khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền thắng lợi. Đường lối của Đảng đã giải quyết đúng đắn những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, nên đã tập hợp, đoàn kết được toàn dân
trong Mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng được lực lượng chính trị rộng khắp
làm cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân; đẩy mạnh đấu
tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang từ thấp lên cao; thực hành khởi
nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, đập
tan chính quyền phát xít Nhật và tay sai, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, căn cứ vào tình hình trong nước và
thế giới, Đảng đã đề ra đường lối: toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
trường kỳ kháng chiến.Đảng ta chủ trương dựa vào sức mình là chính, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc; đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ
thù chung; phát triển lực lượng chính trị, xây dựng LLVT ba thứ quân; kết hợp
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kết hợp tiến công địch cả về quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao; phát triển chiến tranh du kích tiến lên
kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; phát huy sức mạnh toàn
dân tộc làm phá sản mọi chiến lược của thực dân Pháp… Nhờ vậy, chúng ta đã
huy động được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, phát huy được truyền
thống yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của toàn dân tộc "thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" để chiến
thắng quân thù. Trải qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, ác liệt, nhờ có
đường lối kháng chiến, kiến quốc đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta
chiến đấu, chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ bằng chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đề ra đường lối đồng
thời thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, nhằm mục tiêu hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên CNXH. Xuất phát từ vấn đề cơ bản đó, Đảng xác định đường lối
chiến tranh nhân dân, đường lối quốc phòng toàn dân và xây dựng LLVT nhân
dân. Thực hiện đường lối của Đảng, quân và dân miền Bắc đã tích cực thực hiện
nhiệm vụ xây dựng CNXH, củng cố quốc phòng, xây dựng miền Bắc thành hậu
phương lớn; tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại miền Bắc bằng không quân và chống phong tỏa đường biển bằng hải
quân của đế quốc Mỹ; đồng thời, làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn với tiền
tuyến lớn, chi viện kịp thời sức người, sức của cho chiến trường đánh thắng.

Ở miền Nam, quân và dân ta đã quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, với sự sáng
tạo và tinh thần bất khuất, kiên cường, dũng cảm vô song. Quán triệt tư tưởng
cách mạng tiến công, từ đấu tranh chính trị, nhân dân miền Nam đã tiến hành
đồng khởi rồi phát triển lực lượng tiến hành chiến tranh cách mạng và chiến
tranh giải phóng; kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ
trang, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị; đẩy mạnh đánh địch trên cả
3 vùng chiến lược, bằng cả lực lượng quân sự và chính trị; kết hợp tiến công
quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và binh vận, liên tiếp đánh
bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng
lợi vẻ vang, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
CNXH.

Bước vào thời kỳ mới - thời kỳ cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược (xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN) - đất nước ta có những thời cơ, thuận lợi mới,
nhưng cũng phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức. Tổ quốc đã
hoàn toàn độc lập, tự do, nhưng các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá cách
mạng nước ta một cách ráo riết. Nhằm mục tiêu xóa bỏ CNXH trên đất nước ta,
chúng tiến hành chiến lược "Diễn biến hòa bình" với những thủ đoạn hết sức
thâm độc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh và đối ngoại. Chúng tập trung phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; lợi dụng vấn đề: "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để
chống phá; phối hợp giữa các lực lượng chống đối trong nước với các thế lực
thù địch ở nước ngoài để gây mất ổn định chính trị, xã hội, hòng từng bước
chuyển hóa chế độ chính trị đất nước ta theo con đường tư bản chủ nghĩa…
Chính vì vậy, Đảng ta đã tiếp tục bổ sung và không ngừng hoàn thiện đường lối
quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đảng đã
xác lập những quan điểm mới, rất cơ bản về bảo vệ Tổ quốc phù hợp với đặc
điểm và điều kiện mới. Theo đó, bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ
XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, bảo vệ lợi ích quốc
gia, dân tộc; bảo vệ môi trường hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng XHCN. Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp trọng yếu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị; là sự kết hợp sức mạnh toàn
dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó sức mạnh trong nước, với sự kết hợp
chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác là
nhân tố quyết định. Để thực hiện tốt vấn đề đó, chúng ta đã không ngừng tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, coi
việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội là lợi
ích cao nhất; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Chúng ta đã tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân trên từng địa bàn, khu vực và cả nước; chăm lo xây dựng LLVT nhân
dân vững mạnh toàn diện, thực sự làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc; quán
triệt, thực hiện tốt đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối
ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm "thêm bạn bớt
thù", vừa hợp tác, vừa đấu tranh; chủ động phòng ngừa, phát hiện và triệt tiêu
những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc… Nhờ đó, công cuộc bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, góp phần giữ vững ổn định, tạo môi trường hòa
bình cho nhiệm vụ xây dựng đất nước. Nét nổi bật, bao trùm nhất là chúng ta đã
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, các
thành quả của cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Chúng ta
đã thực hiện điều chỉnh chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình và khả
năng của đất nước, tạo ra thế phòng thủ vững chắc, nhất là ở các địa bàn chiến
lược, hướng chiến lược; điều chỉnh một bước tổ chức biên chế gắn với nâng cao
chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu của LLVT
nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc không ngừng được tăng cường; nền quốc phòng toàn dân được củng cố
vững chắc; thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng gắn kết chặt chẽ với
thế trận an ninh nhân dân; các khu kinh tế-quốc phòng được triển khai xây dựng
trên các địa bàn chiến lược, góp phần quan trọng bảo đảm quốc phòng-an ninh
gắn với phát triển kinh tế-xã hội vùng sâu, vùng xa, biên giới của Tổ quốc; việc
xây dựng khu vực phòng thủ đạt được nhiều kết quả tích cực; công tác giáo dục
quốc phòng-an ninh có nhiều đổi mới, góp phần nâng cao kiến thức quốc
phòng-an ninh cho toàn dân và cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, nâng
cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ trong nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc cho nhân dân…
2. Liên hệ vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Nhìn lại 44 năm, sau ngày đất nước thống nhất (1975-2019), từ thực tiễn lịch
sử, nhất là trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước,
Đảng càng thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo các bài học, kinh nghiệm
rút ra từ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Sau ngày thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng CNXH, phải đối
diện với những thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước, khu vực và trên
trường quốc tế. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ nặng nề của
Đảng. Trong quá trình lãnh đạo, tuy đã có được những thành tựu quan trọng,
song cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thậm chí sai lầm, khuyết điểm. Thực
tế đó đòi hỏi Đảng phải chú trọng nắm bắt đặc điểm, thực tiễn của đất nước, đổi
mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nóng vội để
nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI
(12-1986) đã được hoạch định trên cơ sở đó.

Đặc biệt, vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp
và tình hình đất nước có muôn vàn khó khăn, nhất là sau sự kiện chế độ XHCN
ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực thù địch không ngừng chống phá,
Đảng kiên định mục tiêu mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, giữ
vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp
tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng
đã kiên trì lãnh đạo và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại
Đại hội VII (6-1991) và bổ sung Cương lĩnh 1991 tại Đại hội XI của Đảng (1-
2011). Trên cơ sở đó, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và
nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với thực tế của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng (1-2016) khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại[2].
Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lý
luận nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng, đã làm biến đổi và phát triển đất nước cả về
chính trị, kinh tế, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, nâng cao và khẳng định vị thế của đất nước trong đời sống chính trị,
kinh tế của thế giới.

Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, kinh tế tăng
trưởng tương đối nhanh và ổn định, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường,
đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế trung
bình hàng năm đạt gần 7%. Tái cơ cấu nền kinh tế đạt kết quả bước đầu. Thu
nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 2.200 USD năm
2015[3] và 2.587 USD năm 2018. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn:
dầu khí, dệt may, da giày, thủy hải sản, lương thực, cây công nghiệp, lắp ráp
linh kiện điện tử... Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Kinh tế Việt
Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam có quan
hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại
song phương với hơn 100 nước, trong đó có 20 hiệp định thế hệ mới.

Về văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo
đảm, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Chú trọng xây dựng văn hóa
và phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện. Công tác giải quyết việc
làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt: tỷ lệ nghèo đói giảm từ
53 % năm 1993 xuống còn 6% năm 2015[4]. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản
hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra.
Về xây dựng hệ thống chính trị, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đạt được những kết quả
bước đầu. Quốc hội đẩy mạnh xây dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia
được cải cách một bước. Quốc hội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động theo hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn một bước. Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và phương
thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.

Về đối ngoại, Việt Nam đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối
ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền
quốc gia. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm
1995); gia nhập ASEAN (năm 1995); gia nhập WTO (năm 2006); mở rộng quan
hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn như: Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và các nước
tư bản phát triển: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý…; ký kết Hiệp ước chiến lược
và Hiệp ước toàn diện với nhiều nước trên thế giới. Từng bước giải quyết hòa
bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đảo với các nước liên quan. Đồng thời,
tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương mại tự do với ASEAN, EU,
Mỹ…Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động
hội nhập quốc tế.

Về quốc phòng - an ninh, thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh, quốc phòng với
chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các đối
tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền, để gây mất ổn định. Chú trọng xây dựng, phát triển tiềm lực quốc
phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là quân đội
và công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng được
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

Về công tác xây dựng Đảng, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp, các thế lực thù địch tấn công toàn diện vào Đảng và chế độ chính trị
của đất nước, Đảng vẫn vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư
tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới; đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đường lối đúng đắn; phê phán các quan điểm sai trái đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan, phủ nhận thành tựu của quá khứ...
Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và tầm trí tuệ của
Đảng. Đảng lãnh đạo, cầm quyền thông qua Nhà nước và hệ thống chính trị. Hệ
thống tổ chức của Đảng và Nhà nước từng bước được kiện toàn theo hướng tinh
gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Đến năm 2015, đội ngũ của Đảng đã lên tới 4
triệu đảng viên trong tổng số hơn 90 triệu dân.[5] Tiến hành đổi mới công tác
cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm
chất, năng lực của cán bộ; bước đầu đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở
coi trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh,
khắc phục tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay.

Từ thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn
về mục tiêu và mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng.
Những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, con người và chặng đường
bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng được thực tiễn làm rõ để
nhận thức đúng đắn hơn.

Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng
trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước
trong hoàn cảnh mới. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước
sau 44 năm thống nhất càng khẳng định vai trò lãnh đạo xuất sắc của Đảng và
minh chứng rõ ràng Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
C.KẾT LUẬN
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn
cuộckháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta, tạo bước ngoặt
trong lịch sử dântộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập,
thống nhất, cả nước đi lên chủnghĩa xã hội.Thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thể hiện sâu sắc sức mạnh củachủ nghĩa anh hùng cách
mạng, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó cũng là một
sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc.
Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định nhất là
nhờ cósự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy cao độ nghệ thuật
quân sự độc đáo ViệtNam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta (1954 -1975) là sự tiếp tục cuộccách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Lịch sử ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời
điểmkhó khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của
Đảng càng được khẳngđịnh. Chúng ta tin tưởng rằng, bài học thành công về sự
lãnh đạo của Đảng trong Đại thắngmùa Xuân 1975, cũng như toàn bộ sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước sẽ tiếp tục được phát huytrong tình hình mới.
Thực tiễn qua 92 năm xây dựng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
khẳng định, nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao năng
lực cầm quyền, lãnh đạo và sự đổi mới, sáng tạo của Đảng trong hệ thống chính
trị, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.88-89.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2020, t1, tr. 94.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia -
Sự thật, H, 1997, t. 37, tr. 948.
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.102-103, 670-671.

You might also like