Professional Documents
Culture Documents
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, căn cứ vào tình hình trong nước và
thế giới, Đảng đã đề ra đường lối: toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
trường kỳ kháng chiến.Đảng ta chủ trương dựa vào sức mình là chính, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc; đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ
thù chung; phát triển lực lượng chính trị, xây dựng LLVT ba thứ quân; kết hợp
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kết hợp tiến công địch cả về quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao; phát triển chiến tranh du kích tiến lên
kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; phát huy sức mạnh toàn
dân tộc làm phá sản mọi chiến lược của thực dân Pháp… Nhờ vậy, chúng ta đã
huy động được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, phát huy được truyền
thống yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của toàn dân tộc "thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" để chiến
thắng quân thù. Trải qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, ác liệt, nhờ có
đường lối kháng chiến, kiến quốc đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta
chiến đấu, chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ bằng chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đề ra đường lối đồng
thời thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, nhằm mục tiêu hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên CNXH. Xuất phát từ vấn đề cơ bản đó, Đảng xác định đường lối
chiến tranh nhân dân, đường lối quốc phòng toàn dân và xây dựng LLVT nhân
dân. Thực hiện đường lối của Đảng, quân và dân miền Bắc đã tích cực thực hiện
nhiệm vụ xây dựng CNXH, củng cố quốc phòng, xây dựng miền Bắc thành hậu
phương lớn; tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại miền Bắc bằng không quân và chống phong tỏa đường biển bằng hải
quân của đế quốc Mỹ; đồng thời, làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn với tiền
tuyến lớn, chi viện kịp thời sức người, sức của cho chiến trường đánh thắng.
Ở miền Nam, quân và dân ta đã quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, với sự sáng
tạo và tinh thần bất khuất, kiên cường, dũng cảm vô song. Quán triệt tư tưởng
cách mạng tiến công, từ đấu tranh chính trị, nhân dân miền Nam đã tiến hành
đồng khởi rồi phát triển lực lượng tiến hành chiến tranh cách mạng và chiến
tranh giải phóng; kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ
trang, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị; đẩy mạnh đánh địch trên cả
3 vùng chiến lược, bằng cả lực lượng quân sự và chính trị; kết hợp tiến công
quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và binh vận, liên tiếp đánh
bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng
lợi vẻ vang, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
CNXH.
Bước vào thời kỳ mới - thời kỳ cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược (xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN) - đất nước ta có những thời cơ, thuận lợi mới,
nhưng cũng phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức. Tổ quốc đã
hoàn toàn độc lập, tự do, nhưng các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá cách
mạng nước ta một cách ráo riết. Nhằm mục tiêu xóa bỏ CNXH trên đất nước ta,
chúng tiến hành chiến lược "Diễn biến hòa bình" với những thủ đoạn hết sức
thâm độc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh và đối ngoại. Chúng tập trung phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; lợi dụng vấn đề: "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để
chống phá; phối hợp giữa các lực lượng chống đối trong nước với các thế lực
thù địch ở nước ngoài để gây mất ổn định chính trị, xã hội, hòng từng bước
chuyển hóa chế độ chính trị đất nước ta theo con đường tư bản chủ nghĩa…
Chính vì vậy, Đảng ta đã tiếp tục bổ sung và không ngừng hoàn thiện đường lối
quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đảng đã
xác lập những quan điểm mới, rất cơ bản về bảo vệ Tổ quốc phù hợp với đặc
điểm và điều kiện mới. Theo đó, bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ
XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, bảo vệ lợi ích quốc
gia, dân tộc; bảo vệ môi trường hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng XHCN. Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp trọng yếu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị; là sự kết hợp sức mạnh toàn
dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó sức mạnh trong nước, với sự kết hợp
chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác là
nhân tố quyết định. Để thực hiện tốt vấn đề đó, chúng ta đã không ngừng tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, coi
việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội là lợi
ích cao nhất; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Chúng ta đã tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân trên từng địa bàn, khu vực và cả nước; chăm lo xây dựng LLVT nhân
dân vững mạnh toàn diện, thực sự làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc; quán
triệt, thực hiện tốt đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối
ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm "thêm bạn bớt
thù", vừa hợp tác, vừa đấu tranh; chủ động phòng ngừa, phát hiện và triệt tiêu
những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc… Nhờ đó, công cuộc bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, góp phần giữ vững ổn định, tạo môi trường hòa
bình cho nhiệm vụ xây dựng đất nước. Nét nổi bật, bao trùm nhất là chúng ta đã
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, các
thành quả của cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Chúng ta
đã thực hiện điều chỉnh chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình và khả
năng của đất nước, tạo ra thế phòng thủ vững chắc, nhất là ở các địa bàn chiến
lược, hướng chiến lược; điều chỉnh một bước tổ chức biên chế gắn với nâng cao
chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu của LLVT
nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc không ngừng được tăng cường; nền quốc phòng toàn dân được củng cố
vững chắc; thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng gắn kết chặt chẽ với
thế trận an ninh nhân dân; các khu kinh tế-quốc phòng được triển khai xây dựng
trên các địa bàn chiến lược, góp phần quan trọng bảo đảm quốc phòng-an ninh
gắn với phát triển kinh tế-xã hội vùng sâu, vùng xa, biên giới của Tổ quốc; việc
xây dựng khu vực phòng thủ đạt được nhiều kết quả tích cực; công tác giáo dục
quốc phòng-an ninh có nhiều đổi mới, góp phần nâng cao kiến thức quốc
phòng-an ninh cho toàn dân và cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, nâng
cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ trong nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc cho nhân dân…
2. Liên hệ vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Nhìn lại 44 năm, sau ngày đất nước thống nhất (1975-2019), từ thực tiễn lịch
sử, nhất là trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước,
Đảng càng thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo các bài học, kinh nghiệm
rút ra từ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sau ngày thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng CNXH, phải đối
diện với những thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước, khu vực và trên
trường quốc tế. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ nặng nề của
Đảng. Trong quá trình lãnh đạo, tuy đã có được những thành tựu quan trọng,
song cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thậm chí sai lầm, khuyết điểm. Thực
tế đó đòi hỏi Đảng phải chú trọng nắm bắt đặc điểm, thực tiễn của đất nước, đổi
mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nóng vội để
nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI
(12-1986) đã được hoạch định trên cơ sở đó.
Đặc biệt, vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp
và tình hình đất nước có muôn vàn khó khăn, nhất là sau sự kiện chế độ XHCN
ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực thù địch không ngừng chống phá,
Đảng kiên định mục tiêu mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, giữ
vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp
tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng
đã kiên trì lãnh đạo và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại
Đại hội VII (6-1991) và bổ sung Cương lĩnh 1991 tại Đại hội XI của Đảng (1-
2011). Trên cơ sở đó, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và
nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với thực tế của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng (1-2016) khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại[2].
Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lý
luận nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng, đã làm biến đổi và phát triển đất nước cả về
chính trị, kinh tế, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, nâng cao và khẳng định vị thế của đất nước trong đời sống chính trị,
kinh tế của thế giới.
Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, kinh tế tăng
trưởng tương đối nhanh và ổn định, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường,
đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế trung
bình hàng năm đạt gần 7%. Tái cơ cấu nền kinh tế đạt kết quả bước đầu. Thu
nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 2.200 USD năm
2015[3] và 2.587 USD năm 2018. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn:
dầu khí, dệt may, da giày, thủy hải sản, lương thực, cây công nghiệp, lắp ráp
linh kiện điện tử... Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Kinh tế Việt
Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam có quan
hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại
song phương với hơn 100 nước, trong đó có 20 hiệp định thế hệ mới.
Về văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo
đảm, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Chú trọng xây dựng văn hóa
và phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện. Công tác giải quyết việc
làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt: tỷ lệ nghèo đói giảm từ
53 % năm 1993 xuống còn 6% năm 2015[4]. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản
hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra.
Về xây dựng hệ thống chính trị, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đạt được những kết quả
bước đầu. Quốc hội đẩy mạnh xây dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia
được cải cách một bước. Quốc hội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động theo hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn một bước. Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và phương
thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.
Về đối ngoại, Việt Nam đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối
ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền
quốc gia. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm
1995); gia nhập ASEAN (năm 1995); gia nhập WTO (năm 2006); mở rộng quan
hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn như: Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và các nước
tư bản phát triển: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý…; ký kết Hiệp ước chiến lược
và Hiệp ước toàn diện với nhiều nước trên thế giới. Từng bước giải quyết hòa
bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đảo với các nước liên quan. Đồng thời,
tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương mại tự do với ASEAN, EU,
Mỹ…Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động
hội nhập quốc tế.
Về quốc phòng - an ninh, thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh, quốc phòng với
chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các đối
tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền, để gây mất ổn định. Chú trọng xây dựng, phát triển tiềm lực quốc
phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là quân đội
và công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng được
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Về công tác xây dựng Đảng, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp, các thế lực thù địch tấn công toàn diện vào Đảng và chế độ chính trị
của đất nước, Đảng vẫn vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư
tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới; đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đường lối đúng đắn; phê phán các quan điểm sai trái đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan, phủ nhận thành tựu của quá khứ...
Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và tầm trí tuệ của
Đảng. Đảng lãnh đạo, cầm quyền thông qua Nhà nước và hệ thống chính trị. Hệ
thống tổ chức của Đảng và Nhà nước từng bước được kiện toàn theo hướng tinh
gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Đến năm 2015, đội ngũ của Đảng đã lên tới 4
triệu đảng viên trong tổng số hơn 90 triệu dân.[5] Tiến hành đổi mới công tác
cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm
chất, năng lực của cán bộ; bước đầu đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở
coi trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh,
khắc phục tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay.
Từ thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn
về mục tiêu và mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng.
Những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, con người và chặng đường
bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng được thực tiễn làm rõ để
nhận thức đúng đắn hơn.
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng
trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước
trong hoàn cảnh mới. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước
sau 44 năm thống nhất càng khẳng định vai trò lãnh đạo xuất sắc của Đảng và
minh chứng rõ ràng Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
C.KẾT LUẬN
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn
cuộckháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta, tạo bước ngoặt
trong lịch sử dântộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập,
thống nhất, cả nước đi lên chủnghĩa xã hội.Thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thể hiện sâu sắc sức mạnh củachủ nghĩa anh hùng cách
mạng, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó cũng là một
sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc.
Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định nhất là
nhờ cósự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy cao độ nghệ thuật
quân sự độc đáo ViệtNam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta (1954 -1975) là sự tiếp tục cuộccách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Lịch sử ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời
điểmkhó khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của
Đảng càng được khẳngđịnh. Chúng ta tin tưởng rằng, bài học thành công về sự
lãnh đạo của Đảng trong Đại thắngmùa Xuân 1975, cũng như toàn bộ sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước sẽ tiếp tục được phát huytrong tình hình mới.
Thực tiễn qua 92 năm xây dựng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
khẳng định, nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao năng
lực cầm quyền, lãnh đạo và sự đổi mới, sáng tạo của Đảng trong hệ thống chính
trị, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.88-89.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2020, t1, tr. 94.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia -
Sự thật, H, 1997, t. 37, tr. 948.
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.102-103, 670-671.