You are on page 1of 25

ĐỀ CƯƠNG ĐỂ ĐI IN

1. PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 15 (T1/1959) ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG MIỀN NAM.

Bối cảnh lịch sử: Sau Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam, Mỹ - Diệm thi hành chính sách tàn bạo.
phát xít hoá, trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ, tổ chức tổng tuyển cử riêng rẽ, khủng bố,
đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam.
Bối cảnh lịch sử:

-     Sau Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam, Mỹ - Diệm thi hành chính sách tàn bạo. phátxít hoá,
trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ, tổ chức tổng tuyển cử riêng rẽ, khủng bố, đàn áp dã man
phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam.

-      Qua nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh của nhân dân miền Nam và bản Đề
cương cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn khởi thảo từ mùa thu năm 1956, tháng 1-
1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khoá II họp tại Hà Nội ra Nghị quyết vế
đường lối cách mạng miền Nam.

Nội dung cơ bản:

Nghị quyết chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việi Nam một là,mâu thuẫn giữa một bên là
chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống
trị cả miền Nam và một bên là dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân
dân miền Bắc và nhân dân miền Nam; hai là, mâu thuẫn giữa con đường Xã hội chủ nghĩa với
con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai mâu thuẫn này mang tính chất khác nhau, song
chúng quan hệ biện chứng với nhau và tác động mạnh mẽ lẫn nhau.

-   Từ sự phân tích mâu thuẫn trên, Nghị quyết chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hoà bình:
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
dân tộc dân chủ trong cả nước; ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội; xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; tích cực
góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

-      Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết phân tích tình hình xã hội miền Nam sau năm 1954 có
hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuần giữa nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm lược,
chủ yếu là đế quốc Mỹ; hai là, mâu thuẫn giữa nhân dân mìên Nam, trước hết, là nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Mỹ xâm lược và
tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm là mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế quốc
và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện độc lập

1
dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh.

+ Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ; thành lập một
chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam; thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự
do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hoà bình; thực hiện thống nhất nước nhà
trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.

+ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về
tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của
quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.

+ Về khả năng phát triển của tình hình, Nghị quyết dự báo: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến
nhất, cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả
năng chuyển thành cuộc khởi nghĩa vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.

+ Về lực lượng cách mạng, Nghị quyết xác định: lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân,
nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, lấy liên minh công nông làm cơ sở. Nghị quyết chủ
trương thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở miền Nam, có cương lĩnh phù hợp với
tính chất, nhiệm vụ và thành phần nhằm tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng chống đế quốc và
tay sai.

+ Về vai trò của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết khẳng định: sự tồn tại và trưởng thành của
Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát-xít là một yếu tố quyết định thắng lợi của phong
trào cách mạng miền Nam. Vấn đề mấu chốt là phải củng cố, xây đựng Đảng bộ miền Nam vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong hoàn cảnh mới, Đảng bộ phải hết sức đề cao công
tác bí mật, triệt để lợi dụng khả năng hợp pháp để gìn giữ lực lượng của Đảng... Để bảo vệ cơ
quan đầu não và che giấu cán bộ cần xây dựng ở các địa phương những cơ sở an toàn và khu an
toàn.

Ý nghĩa:
-      Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khoá II (tháng 1-1959) có tầm
quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của cách mạng miền Nam. Nó phản ánh đúng và giải
quyết kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam trong việc khẳng định phương pháp đấu tranh
dùng bạo lực cách mạng để tự giải phóng mình là đúng đắn, phù hợp với tình thế cách mạng đã
chín muồi, khi địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ và nhân dân ta.
Như vậy, Nghị quyết 15 năm 1959 của Đảng là ngọn đuốc soi sáng con đường cách mạng miền
Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung. Từ khi có Nghị quyết 15, chuyển biển của
cách mạng miền Nam ngày càng rõ rệt. Đạo luật 10/59 của chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm
không còn là nỗi khiếp sợ của lực lượng cách mạng miền Nam. Mà ngược lại, chính quyền Sài

2
Gòn và Hoa Kỳ liên tục bị “bất ngờ” và khốn đốn trước những cuộc nổi dậy khắp nơi của nhân
dân miền Nam, bắt đầu bằng Đồng khởi năm 1960.
3. PHÂN TÍCH YẾU TỐ THỜI CƠ TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH
QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG (1939 – 1945). LIÊN HỆ ĐẾN BÀI
HỌC NẮM BẮT THỜI CƠ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. / LÀM
RÕ YẾU TỐ THỜI CƠ CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY?
Phân tích yếu tố thời cơ:

CÁCH TRẢ LỜI 1:


74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân, phong
kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần
làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Thứ nhất là từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản bị thua to
trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi công
hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn
chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau
cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận được thêm
một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh.
Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn
quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1” và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên
toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của
Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ
từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng: phát
xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp
các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn giao
chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc
này Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận
sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp thời
cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp đổ
của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc,
phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách
thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
“Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ

3
Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc
lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải
bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp
thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi
nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định
chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa
quân Đồng minh. 
 
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng
Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào
miền nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc quân
Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ trốn
hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ thuật,
nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực
lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành
thắng lợi. Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách
mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
CÁCH TRẢ LỜI 2:
Cách mạng Tháng Tám thành công là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống
giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc ta. Thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám được kết
hợp từ nhiều yếu tố. Từ lòng yêu nước mãnh liệt của dân ta và sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của
Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã dự đoán được tình hình cách mạng, bắt
kịp với sự chuyển biến mau lẹ của thời cuộc. Thực hiện tốt quá trình chuẩn bị thời cơ, quyết định
chớp lấy thời cơ, thực hiện hành động kiên quyết đúng lúc. Điều đó đã làm nên thắng lợi vang
dội của cuộc Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đem độc
lập, tự do cho toàn dân tộc Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta coi khởi
nghĩa là một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật chuẩn bị thời cơ, chớp lấy thời cơ, giành thế thắng lợi
trong một thời khắc quyết định.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư: Thời cơ là thời gian, điều kiện, hoàn cảnh chủ quan,
khách quan thuận lợi để tiến hành thắng lợi một việc gì đó. Trong chiến tranh, vấn đề thời cơ là
vấn đề quan trọng. Bởi vì, bên nào nắm được thời cơ thì chắc chắn bên đó sẽ giành được thắng
lợi. Vì vậy, tự cổ chí kim vấn đề thời cơ đã được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong đó
có Khổng Tử, Gia Cát Lượng, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh…
Vấn đề thời cơ cũng đã được chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập đến. Hồ Chí Minh đã nghiên
cứu vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta và linh hoạt, uyển chuyển
theo tình hình cách mạng thế giới. Đảng ta nhận thức rõ rằng: Thời cơ là sự kết hợp hàng loạt
nhân tố chủ quan và khách quan đã đến độ chín muồi. Thời cơ không tự đến, một phần là do ta
chuẩn bị nó, thúc đẩy nó.

4
Từ khi mới ra đời, Đảng ta đã ra sức xây dựng lực lượng về các mặt, mở rộng mặt trận,
xây dựng khối đoàn kết toàn dân, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng,
lực lượng cách mạng ở thành phố,…để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Đồng thời, Đảng hết sức chăm chú theo dõi sự phát triển của tình hình, diễn biến của chiến tranh
thế giới lần thứ hai, dự đoán các khả năng, phân tích mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để có
những quyết sách đúng đắn kịp thời.

Kể từ khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ (1/9/1939), trong khoảng hai năm, những
thông cáo của Đảng và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, 7 đã dự đoán cụ thể về khả năng
thắng lợi của cách mạng Việt Nam: Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô,
một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công. Tháng 5 năm 1941, dựa trên những dự
đoán ban đầu của tình hình cách mạng trong nước và thế giới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 8 đã nhận định: Nếu như Liên Xô thắng trận và Trung Quốc phản công bọn
phát xít Nhật thì đây sẽ là những điều kiện thuận lợi để Đảng ta xây dựng lực lượng tiến tới khởi
nghĩa rộng lớn. Đồng thời, Đảng cũng chỉ ra những điều kiện tạo nên thời cơ chín muồi. Đó là:
Ta xây dựng được mặt trận cứu quốc thống nhất trên toàn quốc. Nhân dân không thể sống dưới
sự áp bức của Pháp - Nhật được nữa. Phe thống trị ở Đông Dương bước vào khủng hoảng. Và
tình hình thế giới có chuyển biến thuận lợi cho ta như Trung Quốc thắng Nhật, quân Đồng Minh
thắng trận… Từ nǎm 1942, Đảng nhận định rằng: Liên Xô chiến thắng phát xít Đức - Nhật là
điều có khả năng nhất. Tình thế sẽ diễn biến thuận lợi cho ta. Vì vậy, Đảng xác định chuẩn bị
khởi nghĩa. Tháng 9 năm 1944, Đảng đã dự kiến rằng, mâu thuẫn Nhật - Pháp sẽ dẫn tới Nhật
đảo chính lật đổ Pháp và chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng. Tháng 10 năm 1944,
Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 9 tháng 3 năm
1945, Nhật đảo chính Pháp, chiếm Đông Dương. Pháp nhanh chống đầu hàng, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng họp từ ngày 9 tháng 3 năm 1945 đến ngày 10 tháng 3 năm 1945 đã đánh giá
tình hình, ra chỉ thị: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Nội dung chủ yếu của
bản Chỉ thị: Xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương là
phát xít Nhật. Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi
nghĩa. Tuy nhiên Đảng ta xác định, sự kiện Nhật đảo chính Pháp chỉ làm cho tình hình chính trị
tại Đông Dương lâm vào khủng hoảng chứ thời cơ cho khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi.
Tháng 8 năm 1945, tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Cuộc khủng hoảng chính
trị ở Đông Dương đã đến tột độ. Phe phát xít thua trận, phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh vô
điều kiện. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim hoang man cực độ. Đồng thời, ta đã xây dựng lực
lượng cách mạng hùng hậu. Nhân dân ta không thể chịu đựng bị áp bức được nữa. Quyết tâm
chiến đấu để giành độc lập tự do cho dân tộc, không khí cách mạng sôi sục. Bên cạnh đó, cách
mạng phải chạy đua gấp rút với quân Anh, Mỹ trước khi chúng vào Đông Dương giải giáp quân
phát xít, mượn danh nghĩa pháp lý để chiếm nước ta. Trong tình hình đó, Hội nghị toàn quốc của
Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang). Sau khi phân
tích những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi để cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ ra
và thắng lợi. Hội nghị quyết định: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi

5
nghĩa giành chính quyền từ tay phátxít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hồ
Chí Minh đã kiên quyết khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”.
Hưởng ứng sự lời kêu gọi của Đảng, nhân dân cả nước đã vùng lên khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính quyền tay sai. Chỉ trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến
ngày 25 tháng 8 năm 1945, nhân dân ta đã giành được chính quyền trong cả nước. Cách mạng
Tháng Tám thành công rực rỡ. Như vậy, ta thấy rằng Đảng ta đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ
“Nghìn năm có một” để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng. Thời cơ của Cách mạng Tháng Tám
trực tiếp xuất hiện khi.
Những yếu tố trên kết hợp tạo thành điều kiện thuận lợi khiến cho thời cơ để nổ ra cuộc
Cách mạng Tháng Tám đã chín muồi. Đây là thời cơ “nghìn năm có một”, chỉ xuất hiện một lần
trong lịch sử. Thời cơ không tự nhiên có mà do chúng ta tác động nó, thúc đẩy nó ra đời. Trong
suốt 15 năm Đảng ta luôn luôn chú trọng tới việc xây dựng lực lượng, củng cố đội ngũ Đảng
viên để làm nồng cốt cho cuộc cách mạng. Thực hiện tuyên truyền, giác ngộ vận động quần
chúng nhân dân dưới mọi hình thức, trên tất cả các mặt trận. Và khi thời cơ xuất hiện, đạt đến độ
chín muồi, Đảng ta đã nhanh chóng cướp lấy cơ hội này, phát động khởi nghĩa giành chính
quyền. Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế
giới, công nhận nền độc lập của dân tộc Việt Nam, chặn đứng âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho nghệ thuật tạo
thời cơ, chớp lấy thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng ta. Thể hiện sự lãnh đạo sáng
suốt, tài tình của Đảng, dù lúc đó mới được 15 tuổi. Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập quốc tế,
Đảng ta cũng cần phải sáng suốt lãnh đạo nhân dân ta nhanh chóng chớp lấy thời cơ, tạo thời cơ
cho chính mình. Bằng việc đi tắt đón đầu, nhạy bén tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật,…
để tạo điều kiện phát triển toàn diện đất nước. Xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội để xứng đáng với sự nghiệp mà
cha ông ta đã dày công xây dựng.
Làm rõ yếu tố thời cơ của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay:
Những bài học lịch sử về Cách mạng Tháng Tám còn rất nhiều nhưng bài học về nắm bắt
thời cơ cho đến nay vẫn là bài học nóng hổi, mang tính thời sự trong công cuộc phát triển đất
nước hôm nay. Chúng ta đã ra khỏi chiến tranh, ra khỏi sự kiệt quệ kinh tế và đang trở thành một
trong những quốc gia phát triển trên thế giới. Một nước có diện tích và dân số thuộc vào những
nước đứng nhóm đầu, tiềm năng rất lớn còn cần được khai thác; một đất nước ổn định về chính
trị, an ninh quốc phòng ngày càng được củng cố... tạo ra nhiều lợi thế đối nội và đối ngoại. Đó là
cơ sở xuất hiện những thời cơ để vươn lên dân giàu nước mạnh.
Ngày nay, thế giới đang diễn ra mạnh mẽ cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra
những kỹ thuật mũi nhọn đưa năng suất lao động lên rất cao. Xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa
kinh tế ngày càng tăng mạnh. Đồng thời, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển cũng diễn ra
mạnh mẽ trên thế giới. Đó là những thời cơ mới tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế của nước ta. Chính đường lối, chính sách hơn 20 năm đổi mới của Đảng và Nhà
nước đã mang lại những thành tựu to lớn, tạo thời cơ và điều kiện cho đất nước tiến lên theo xu

6
thế phát triển chung của thời đại. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vững bước đi lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ
trương tích cực và chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc nước ta gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đó
còn là kết quả của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế.
Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ trong tình hình mới, chúng ta phải luôn quán triệt
sâu sắc phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và vận
dụng thành công trong thời kỳ giành và giữ chính quyền năm 1945 - 1946. Đó là thước đo bản
lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta
4. VÌ SAO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ SỰ TẤT YẾU? PHÂN TÍCH SỰ
SÁNG TẠO TRONG CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG.
CÁCH TRẢ LỜI 1:

Sự ra đời của ĐCSVN là tất yếu vì: Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi mở ra một
thời đại mới trong lịch sử nhân loại, có tác động thức tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải phóng.
– Những tư tưởng cách mạng cấp tiến dội vào các nước thuộc địa.
– Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn cơ bản
trong lòng xã hội Việt Nam.
– Tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội , đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn
đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng.
– Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết cả nhân dân ta: là nhu cầu bức thiết
của dân tộc .
– Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước
– Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc tuy diễn ra liên tục mạnh
mẽ, nhưng các phong trào đều lần lượt bị thất bại vì đã không đáp ứng được những yêu cầu
khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc .
– Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau đang bế tắc về đường
lối thì khuynh hướng vô sản thắng thế: Phong trào dân tộc đi theo khuynh hướng vô sản.
– Đảng Cộng sản ra đời để giải quyết sự khủng hoảng này.
– Đảng ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam.
– Từ sự phân tích vị trí kinh tế xã hội của giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ có giai cấp
công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
– Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
– Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tồn tại tự nhiên. Muốn trở
thành phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; Vũ khí lý
luận và tư tưởng của giai cấp công nhân

7
– Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản.
– Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự phát
thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
– Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường giải
phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.
– Nguyễn ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị
về chính trị , tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam .
– Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công nhân và
phong trào yêu nước phát triển .
– Các phong trào đấu tranh từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng
thành và đang trở thành một lực lượng độc lập. Tình hình khách quan ấy đòi hỏi phải có một
Đảng cộng sản lãnh đạo.
– Ba tổ chức cộng sản ra đời là: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông
Dương cộng sản đảng liên đoàn đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng
– Ngày 3-2-1930 thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng, đó là Đảng Cộng sản Việt
Nam
Tính sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên là: Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã  thể hiện rõ nét và sinh động về tinh thần độc lập tự
chủ sáng tạo trong việc vận dụng CNMácLN, truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của nước ngoài 
một cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đặt ra và
được thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta, thông qua tại Hội nghị thành
lập ĐCSVN (từ ngày 3-7/2/1930).
Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã
chỉ ra phương hướng cơ bản của cách mạng VN, đặt nền móng cho việc xác định lý luận, đường
lối, phương pháp cách mạng và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân VN.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng CLCT đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần nhuyễn
quan điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những luận điểm sau nổi
bật. Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến lên
xã hội cộng sản. (Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn : giai đoạn thứ nhất đó là
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển
sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội cộng sản.)Hai là, trong cách mạng tư sản
dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và chống phong kiến. (Hai nhiệm vụ này
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành khắng khít không tách rời nhau nhưng
trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.) Ba là, xác định
lực lượng cách mạng, bao gồm : giai cấp công - nông là gốc, những người yêu nước trong các
giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.( Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình để
lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng cách mạng
bao gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai là những
người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.) Bốn là, lãnh đạo cách
mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm là, về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo lực cách
8
mạng. Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên thế
giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo: vừa
vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng chính xác
những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp
và đoàn kết toàn dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào
hoàn cảnh Việt Nam, xác định rõ chủ trương "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản". Cuộc cách mạng này đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân được các quyền dân chủ, tự do, hạnh phúc.
Đó chính là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xuyên suốt các chủ trương
đường lối cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tư tưởng lớn đó, sáng tạo
của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ: xác định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước mắt, là
tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam
là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ quan niệm
lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn thể nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư tưởng cần xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo
của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp
nhân dân có thể đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ đế quốc và phong kiến. 
CÁCH TRẢ LỜI 2:
Hoàn cảnh lịch sử thế giới
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN
ngày càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản, phạm trù
cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách mạng XHCN.Đặc biệt là sự
thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân
ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ
ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười đã cổ vũ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân
dân các nước thuộc địa. Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt
các đảng cộng sản. Việc Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được nhiều thành tựu, trở thành
chổ dựa, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới phát triển
Hoàn cảnh trong nước

9
Ở Việt Nam, từ cuối năm 1929, thực dân Pháp quân sự hóa nền kinh tế, xóa bỏ những
quyền tự do, dân chủ, tăng cường đàn áp cách mạng, vây ráp, khủng bố, bắt hàng nghìn chiến sĩ
cách mạng, phá vỡ nhiều tổ chức yêu nước, dìm các cuộc khởi nghĩa và các phong trong yêu
nước trong biển máu. Từ đây đòi hỏi phải có một gia cấp, một tổ chức thống nhất lãnh đạo phong
trào cách mạng cả nước.
Phong trào “vô sản hóa” từ tháng 9/1928 làm cho CNMLN được truyền bá rộng rãi vào
phong trào yêu nước và công nhân Việt Nam. Từ tháng 4/1929 đến đầu năm 1930 cả nước diễn
ra nhiều cuộc bãi công lớn. Các cuộc bãi công đã thu hút sự tham gia đông đảo của nông dân và
cách tầng lớp thị dân và có xu hướng cộng sản hóa rõ hơn. Qua đây có thể thấy giai cấp công
nhân đã trưởng thành và phát triển hơn, chuyển từ tự phát sang tự giác.
Hội VNCMTN phát triển mạnh, cơ sở lan rộng cả nước, số hội viên tăng lên đáng kể,
mặc khác nội bộ bị chia rẽ, đứng trước khả năng không đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Tiếp theo đó là sự ra đời của 3 tổ chức đảng trong vòng 4 tháng là An Nam CSĐ,Đông Dương
CSĐ, Đông Dương CS Liên Đoàn. Ba tổ chức này cùng theo CNMLN và đường lối quốc tế cộng
sản nhưng khi tuyên truyền , tranh thủ quần chúng và xây dựng tổ chức lại đều phê phán, công
kích lẫn nhau. Tình trang phân tán về tư tưởng và tổ chức lan rộng dẫn đến nguy cơ chia rẽ lớn
các lực lượng cách mạng ở Việt Nam. Đòi hỏi phải có tổ chức thống nhất các tổ chức đảng lại và
đủ khả năng lãnh đạo cách mạng của nước, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam
Sáng tạo của ĐCSVN trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên:
Một là, sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa
phản đế và phản phong.
Nếu C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những người đặt nền móng cho việc hình thành lý
luận về giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong thời đại mới, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam là những người đầu tiên đã thành công trong việc vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận đó vào điều kiện cụ thể ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Ngay từ khi mới ra đời, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo,
được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) đã nhận thấy yêu cầu khách quan, bức thiết
nhất của xã hội thuộc địa như Việt Nam là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp lên cao như ở các nước tư bản phương Tây. Đối tượng trực
tiếp của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ chưa phải là chủ nghĩa tư bản và giai
cấp tư sản nói chung. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định phương hướng chiến lược của cách
mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Chủ trương đó đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử Việt Nam.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ Hai bùng nổ, liên tiếp trong ba hội nghị: lần thứ Sáu (11-
1939), lần thứ Bảy (11-1940), và đặc biệt là Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, trên cơ sở phân tích chuẩn xác những biến chuyển
của tình hình thế giới và Đông Dương, đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược với chủ
trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc và Việt gian tay sai để giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm
gác khẩu hiệu “Cách mạng ruộng đất”. Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khẳng

10
định: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của
Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”(1). Vấn đề ruộng đất mà hội nghị bàn đến chỉ là chia
lại công điền, và chia ruộng đất “tịch thu của Việt gian phản quốc”, tức là ruộng đất đang nằm
trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ không phải của địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của
dân tộc cả về chính trị và kinh tế. Vì thế, “Trong khi tuyên truyền, không được dùng những khẩu
hiệu quá thời... Không nên nói đánh đổ Nam triều phong kiến và tịch thu ruộng đất của địa chủ
mà nói diệt trừ bọn Việt gian phản quốc”(2).
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Đảng tiếp tục được khẳng định
trong Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943): “Lúc này, nhiệm vụ dân tộc giải
phóng cần kíp và quan trọng hơn. Nên Đảng phải thống nhất mọi lực lượng cách mạng đặng mau
hoàn thành nhiệm vụ ấy trước... Do đó khẩu hiệu thổ địa cách mạng không thể đề ra lúc này”(3).
Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
Đảng (2-1943) đều xác định nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền ở
Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Đó là
chủ trương đúng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như yêu cầu tập hợp lực lượng cách
mạng cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, chủ trương đó đã có thời kỳ vấp phải sự phản
ứng và phê phán gay gắt từ phía Quốc tế Cộng sản và những người cùng chung chí hướng. Song
bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, vượt
qua các rào cản của những tư tưởng và khuôn mẫu giáo điều, kiên định với mục tiêu đã định.
Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và tập hợp được sức mạnh và lực lượng của toàn thể quốc gia dân tộc,
làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó chính là biểu hiện rõ nhất của
sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, cũng
như góp phần làm phong phú lý luận đó từ điều kiện cụ thể ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến.
Hai là, sáng tạo trong tập hợp lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc.
Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và đi sâu
bàn về liên minh công nông, coi đó là nguyên tắc của cách mạng vô sản, thì Nguyễn Ái Quốc và
Đảng Cộng sản Việt Nam lại cho rằng lực lượng cách mạng là toàn dân, tuy nhiên vị trí vai trò
của từng giai cấp, bộ phận lại không giống nhau. Theo đó, bộ phận trung tâm trong lực lượng
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh
đạo. Trung thành với lý luận Mác - Lênin về liên minh công nông và vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân, song việc đánh giá vai trò của giai cấp nông dân trong khối liên minh ấy của
Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam có những nét mới rất sáng tạo. Nếu chủ nghĩa
Mác- Lênin nhấn mạnh hạn chế của giai cấp nông dân ở tính chất tư hữu, thì Nguyễn Ái Quốc và
Đảng ta chỉ nêu hạn chế của họ là không có khả năng tự giải phóng, không có khả năng lãnh đạo
cách mạng; đồng thời, nhấn mạnh mặt tích cực của nông dân, nhất là khả năng đấu tranh chống
áp bức giai cấp và áp bức dân tộc của họ. Nguyễn Ái Quốc cho rằng: nền tảng của vấn đề dân tộc
là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Vì thế, cùng với giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân là lực lượng chủ công của cách mạng.

11
Nếu chủ nghĩa Mác - Lê nin coi tiểu tư sản, trí thức là tầng lớp trung gian trong cách
mạng vô sản, thì Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam lại coi tầng lớp này là đồng minh
gần gũi của công nhân và nông dân. Cương lĩnh năm 1930 khẳng định: “Đảng phải hết sức liên
lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông (...) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”, đồng thời
khẳng định tiểu tư sản là một trong những động lực của cách mạng...”.
Trọng trí thức là một chính sách được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sớm quan tâm và
được Đảng nhận thức ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn trong quá trình vận động cách mạng giải
phóng dân tộc ở nước ta. Sự có mặt của tiểu tư sản, trí thức; vai trò ngày càng tích cực của tiểu tư
sản trí thức, sinh viên, học sinh thông qua các cuộc đấu tranh rất sôi nổi ở các đô thị trước và
trong Cách mạng Tháng Tám 1945 đã chứng minh cho sự nhận định đúng đắn của Hồ Chí Minh
và Đảng ta về năng lực hoạt động cách mạng của những đội ngũ này.
Trong khi lý luận của C.Mác coi toàn bộ giai cấp tư sản là đối tượng của cách mạng vô
sản thì V.I.Lênin là người đầu tiên nhận thấy và đánh giá cao vai trò của giai cấp tư sản dân tộc.
Cả V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đều nhận rõ hạn chế lớn nhất của giai cấp này là tính không triệt
để trong cách mạng. Cùng với ưu điểm là tính dân chủ, thì Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh nhiều
hơn đến yếu tố dân tộc trong tầng lớp này. Thời kỳ 1936-1939, Đảng đã chủ trương tổ chức Mặt
trận dân tộc dân chủ rộng rãi, “không những chỉ có nhân dân lao động mà gồm cả giai cấp tư sản
dân tộc”. Đặc biệt, tới Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), đã xác định tư sản dân tộc đứng trong
lực lượng “hậu bị quân của cách mạng”.
Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã phân biệt rõ đặc điểm và thái độ của từng bộ phận trong giai cấp địa chủ phong
kiến, thấy rõ những yếu tố tích cực để lôi kéo họ về hàng ngũ cách mạng. Vì thế, chủ trương của
Đảng ngay từ đầu đã xác định: bộ phận đại địa chủ phong kiến mà quyền lợi hoàn toàn gắn bó
với đế quốc, đứng hẳn về phía phản cách mạng thì phải kiên quyết đánh đổ. Còn lại, bộ phận
tiểu, trung địa chủ, và số ít đại địa chủ mà thái độ còn đang “lừng chừng”, do dự thì phải tranh
thủ họ, lôi kéo họ về phía cách mạng để chống kẻ thù dân tộc hoặc “ít lâu làm cho họ đứng trung
lập”.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng trong
cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa nửa phong kiến, mà cụ thể là ở Việt Nam không
hề bó hẹp trong khuôn mẫu của lý luận, mà là toàn thể dân tộc, đoàn kết thành một khối thống
nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng (bao gồm các giai cấp, tầng lớp có lòng yêu nước, có tinh thần
dân tộc). Đó là một đóng góp vừa sáng tạo, vừa thực tế.

12
5. PHÂN TÍCH SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Pháp tham chiến. Ở Đông Dương, Pháp thi hành chính
sách cai trị thời chiến
.- Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm đảo lộn mọi mặt đờisống của nhân dân ta.
- Chính sách cai trị của Pháp đã làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm
lược phát triển ngày càng gay gắt, quyếtliệt. Sự chuyển biến của tình hình đòi hỏi Trung ương
Đảng phải kịp thời điều chỉnh chiến lược cách mạng, định ra chủ trương, chính sách mới phù
hợp.

2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Đảng kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm tập trung giải quyết nhiệm vụ hàng đầu
là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành lại độc lập dân tộc. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
cách mạng của Đảng thể hiện trong Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 6 (11/1939), 7
(11/1940), 8 (5/1941)

2.1. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)


- Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản
bội quyền lợi dân tộc
- Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ.
Lực lượng chính của Mặt trận là: công nhân, nông dân, đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản
thành thị vànông thôn, đồng minh trong chốc lát hoặc cô lập giai cấp tư sản bản xứ, trung,
tiểu địa chủ. Mặt trận do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Chủ trương chuyển hướng về tổ chức: vừa xây dựng tổ chức hợp pháp, đơn giản rộng rãi,
vừa xây dựng các đoàn thể quần chúng cách mạng bí mật. Xoay tất cả các cuộc đấu tranh vào
hướng trung tâm là chống đế quốc và tay sai.
- Về xây dựng Đảng: Đảng phải liên lạc mật thiết với quần chúng. Phải khôi phục hệ thống tổ
chức Đảng. Phải vũ trang lý luận cách mạng. Phải thực hiện phê và tự phê bình. Phải đấu
tranh chống khuynh hướng hữu và "tả" khuynh.

2.2. Hội nghị lần thứ 7 (11-1940)


Tiếp tục khẳng định quan điểm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc.

2.3. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (05/1941)


- Đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu:
+ Tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất.
+ Thống nhất lực lượng cách mạng trên toàn cõi Đông Dương.
- Giành quyền độc lập tự do cho các dân tộc Đông Dương theo quan điểm thực hiện quyền
dân tộc tự quyết. Ở Việt Nam, sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ lập nên nước Việt Nam mới
theo chế độ Dân chủ Cộng hoà.
- Hội nghị xác định tính chất của cuộc cách mạng: Lúc này, cách mạng Đông Dương mang
tính chất là “cách mạng dân tộc giải phóng”.
- Về Mặt trận: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 chủ trương lấy tên là Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Các giới quần chúng được tổ

13
chức và tập hợp trong các Hội cứu quốc: Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc,
Hội Phụ nữ cứu quốc,…
- Hội nghị xác định vị trí, điều kiện, hình thức khởi nghĩa:
+ Nhận định điều kiện để cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi: giai cấpthống trị lâm vào khủng
hoảng đến cực điểm, nhân dân không thểsống dưới ách thống trị của Nhật - Pháp, sẵn sàng
vùng dậy khởi nghĩa, phe dân chủ đại thắng ở mặt trận Thái Bình Dương, Mặt trận cứu quốc
đã thống nhất trên toàn quốc.
+ Ra sức chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở địa
phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Về xây dựng Đảng: Yêu cầu của công tác xây dựng Đảng lúc này là nhằm làm cho Đảng có
đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng.
+ Tổ chức Đảng ở miền Nam giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở Campuchia.
+ Tổ chức Đảng ở miền Trung giúp việc xây dựng Đảng ở Lào.

3. Ý nghĩa
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc của Hội nghị
Trung ương lần 6, 7, 8 chính là sự kế tục và hoàn chỉnh tư tưởng cách mạng giải phóng dân
tộc của Hồ Chí Minh đã vạch ra trong Cương lĩnh tháng 02/1930. Đây là bước trưởng thành
vượt bậc của Đảng ta về lãnh đạo chính trị, về xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc.
- Sự điều chỉnh chiến lược trên rất đúng đắn, sáng tạo, phát huy được tiềm năng, sức mạnh
của toàn dân tộc, trực tiếp dẫn đến thành công của cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm
1945.
6. VÌ SAO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM PHẢI THỰC HIỆN ĐỔI MỚI TƯ DUY
ĐỐI NGOẠI THEO PHƯƠNG CHÂM ĐA PHƯƠNG HÓA, ĐA DẠNG HÓA?
ANH/CHỊ HÃY ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA PHƯƠNG CHÂM NÀY ĐẾN HOẠT
ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại theo phương châm đa
phương hóa, đa dạng hóa vì:
CÁCH TRẢ LỜI 1:
Phương châm đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu. Đảng và Nhà
nước luôn xác định Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến
trình phát triển của thế giới. Hiểu biết sâu sắc tình hình thế giới là điều kiện không thể thiếu
để xác định những mục tiêu, nhiệm vụ cho đất nước. Xa rời với sự vận động chung, tự cô lập
mình với thế giới bên ngoài là những sai lầm nguy hại, có thể ảnh hưởng đến sự sinh tồn của
cả dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại
giao, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của chủ trương đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ đối ngoại. 
Đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu vì những lý do sau:
Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát triển
của thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi mới đã bộc lộ nhiều
hạn chế. Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập lại bị các thế lực thù địch chống phá,
cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước ta lâm
vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.

14
Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy của
Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Từ đây, Đảng ta nhận thức và rút
kinh nghiệm, cần phải thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là đổi mới chủ
trương và chính sách ngoại giao sao cho hợp lí, hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển của nước ta, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có
những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt
coi trọng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ ngoại giao.
Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác đa phương
trên nhiều lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội,
lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du lịch...được mở rộng, từ đó thúc đẩy tiến bộ
xã hội, phát triển thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo… Hội
nhập khu vực và quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan
trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người dân, tiến tới thu hẹp khoảng
cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước mở cửa,
gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những nguyên tắc
và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội 
CÁCH TRẢ LỜI 2:
 Hoàn cảnh ra đời

1. Tình hình thế giới


Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động.cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắcđến nền kinh tế thế
giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòahoãn giữa các nước lớn. Các
nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện chủ trương đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế đểtranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ.
Hai xu hướng toàn cầu hóa vàkhu vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính
sách ngoại giao củacác nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.
Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâusắc.
Đến đầu những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổhoàn toàn.
Trật tự thế giới hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc hình thành trật tự thế
giới đa cực.
Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốc gia
không chỉ bó hẹp ở mặt quốc phòng, quân sự, chính trị mà phải là tổng thể của sự phát triển
tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trongđó, kinh tế phải được
đặt lên vị trí hàng đầu.
Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trongnhững
năm cuối thế kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất,đưaloài người từ xã
hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp và đang bướcvàongưỡng cửa của xã hội thông
tin, nền kinh tế tri thức. chính sự phát triểnmạnh mẽnày, về khách quan đã dặt ra yêu cầu mở
rộng thị trường lên một tầmmức mới,bằng những phương cách mới. Quan hệ kinh tế vượt qua

15
rào cản về địa lí lan ra toàn cầu. Hàng hóa, tiền tệ, thông tin,… lưu thông khắp các nước.
Hình thànhmạng lưới kinh tế đa chiều.
2. Tình hình trong nước và những tác động của tình hình thế giới đến việc hình
thành chính sách đổi mới
Trước đổi mới do không nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hội nhậpquốc tế
và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, chưa bắt kịp với xu hướng quốc tế
mà Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, cô lập. Lấy cớ “Sự kiện Campuchia”1 các nước
ASEAN và một số nước khác thực hiện cấm vận chúng ta; Mỹ ba lần phủ quyết chúng ta gia
nhập Liên hợp quốc… bị cô lập lại bị các thếlực thù địch chống phá, cộng với các chính sách
phát triển sai lầm, không phù hợpvới hoàn cảnh khiến nước ta lâm vảo cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội nghiêmtrọng.
Những biến động của tình hình thế giới cũng tác động sâu sắc đến nhận thức vàtư duy
của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệthống xã hội chủ
nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Đảngnhận định rằng sự sụp đổ đó
không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nóichung mà là sự sụp đổ của một mô hình xã
hội chủ nghĩa đã bị biến dạng, mang nhiều khuyết tật. Từ đó Đảng đã rút ra nhiều kinh
nghiệm cho công cuộc xây dựngchủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đối với xu hướng toàn cầu hóa, Đảng khảng định: toàn cầu hóa là một xu thếkhách
quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tham gia quá toàn cầu hóa, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhưng vẫn đảm bảođộc lập, tự chủ.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước và nhu cầu phát triển củanước ta,
những đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, tại Đại hội đạibiểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đãcó những đổi mới sâu sắc và
mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đốingoại, đó là đường lối đổi mới xã hội về
mọi mặt. Đại hội VIII của đảngchủ trương“đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”.
 Qúa trình phát triển tư duy lí luận

Trong đường lối ngoại giao thời kì đổi mới của Đảng không thể không nhắc đếnchủ
trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Đây là một trongnhững chủ
trương quan trọng, thể hiện rõ nét sự đổi mới của Đảng trong quan điểm và tư duy về công
tác đối ngoại. Có thể nói việc đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại là cơ sở tiền
đề để chúng ta thực hiện được các chủ trương khácnhư hội nhập kinh tế quốc tế hay nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trước thời kì đổi mới, chúng ta đánh giá các quốc gia, các dân tộc khác chỉ đơnthuần
theo tiêu chí chính trị; cách mạng và phản cách mạng, xã hội chủ nghĩa vàphi xã hội chủ
nghĩa, tốt và xấu, bạn và thù; có khuynh hướng đánh giá một cáchchủ quan về sức mạnh tuyệt
đối của chủ nghĩa xã hội mà không nhận thấy chủnghĩa tư bản với khoa học công nghệ đã và
đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là nền kinh tế. Do đó, Đảng chủ trương tập trung phát triển
quan hệ ngoại giao với cácnước trong khu vực Đông Nam Á và các xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
là Liên Xô – coiquan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách ngoại giao. Điều này
khiếncho quan hệ đối ngoại của Việt Nam bị bó hẹp trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vàtrong
khu vực.

16
Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng đặt cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế rangoài
các nước xã hội chủ nghĩa bằng chủ trương: “Chúng ta cần tranh thủ nhữngđiều kiên thuận
lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật, tham gia ngày càngrộng rãi việc phân công và
hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thờitranh thủ mở rộng quan hệ với các nước
khác”. Triển khai chính sách này, tháng12/1987, ta đã ban hành Luật đầu tư nhằm thu hút vốn
từ các nước trên thế giới,không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đại hội VI cũng đưa ra
nhiều điều chỉnhquan trọng khác trong đó có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc.Đây là những chủ trương mở đầu cho quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa cácquan hệ
đối ngoại.
Nối tiếp tinh thần của Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VIItháng
6/1992 về chính sách đối ngoại là một Nghị quyết hết sức quan trọng, đã cơbản hoàn chỉnh
đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của nước ta. Mục tiêu đốingoại của ta là giữ vững
hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điềukiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc,đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực
hiện được mục tiêu đómột trong những việc chúng ta cần làm đó là đẩy mạnh đa phương hóa,
đa dạnghóa các quan hệ quốc tế song song với giữ vững nền độc lập tự chủ. Độc lập tự
chủ,phát huy cao độ nội lực là nền tảng để phát triển các quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế.
độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, trái lại, phải mở rộng, đa dạng hóa và đa phương
hóa các quan hệ quốc tế, xây dựng được thế đứng vững chắc trêntrường quốc tế. Chúng ta mở
rộng quan hệ đối ngoại theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủquyền, toàn vẹn lãnh thổ
của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;giải quyết các mâu thuẫn bằng biện
pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Chúng ta mở rộng quan hệ với mọi quốcgia và mọi vùng lãnh thổ trên thế giới không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội và ýthức hệ; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học –
công nghệ, văn hóa, giáodục, y tế, quốc phòng, an ninh,…; cả quan hệ song phương và đa
phương; cả quanhệ ngoại giao của Quốc hội, Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối
ngoạinhân dân. Chúng ta coi trọng phát triển quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với
cácnước lánh giềng, khu vực, mở rộng quan hệ ngày càng sâu, ổn định, bền vững vớicác
nước lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính quốc tế lớn là những lực lượng ảnhhưởng đáng kể
đến an ninh và phát triển của nước ta. Đồng thời ta không xem nhẹphát triển quan hệ với các
nước khác, các nước bè bạn truyền thống, các lực lượngcách mạng và tiến bộ, những người
yêu chuộng hòa bình và công lí trên thế giới. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996
quyết định đẩy nhanh tiến trìnhhội nhập kinh tế quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại sang
phục vụ phát triển kinh tếlà chủ yếu và Nghị quyết Đại hội IX tháng 4/2001 nâng lên một
mức cao hơn, chủtrương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồngquốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.Từ chính sách đối ngoại chủ
yếu dựa vào Liên Xô và các nước Xã hội chủnghĩa, ta đã chuyển sang chính sách đối ngoại
mở rộng, đa phương hóa, đa dạnghóa các quan hệ quốc tế, với phương thức tập hợp lực lượng
rất linh hoạt, theo từng vấn đề và từng thời điểm cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta
không đơn giảnphân định địch – ta, thù – bạn mà nhận định một cách biện chứng hơn: những
aichủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ bình đẳng,cùng có
lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âmmưu và hoạt động
chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng vàbảo vệ tổ quốc đều là đối tượng
đấu tranh. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cầntranh thủ hợp tác; trong một số đối tác quan

17
trọng nhưng vẫn có thể có sự khác biệt,mâu thuẫn với lợi ích của ta thì vẫn phải đấu tranh;
xác định đối tương, đối tác tùytheo tình huống, hoàn cảnh, tránh mơ hồ, cứng nhắc. Với chủ
trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ ngoại giao củaĐảng, chúng ta đã đạt
được một số thành tựu nhất định cũng như gặp phải một sốhạn chế.
 Kết quả thực hiện

1. Khó khăn
- Những thực tế trên đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng là đúngđắn,
thể hiện sự trưởng thành về nhận thức, quan điểm. Tuy nhiên không phải làkhông có những
khó khăn, thử thách mà chúng ta phải đối mặt.
+ Thứ nhất, cùng với quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao những lo ngại về anninh
trong nước cũng gia tăng với nhiều mầm mống nguy hại như sự can thiệp từbên ngoài, các
lực lượng khủng bố, cực đoan…
+ Thứ hai, trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn, chúng ta cònlúng
túng, bị động, dễ bị chi phối, áp đặt. Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế cũngđem lại nhiều
thách thức cho nền kinh tế trong nước như sự cạnh tranh của hàngngoại, hàng giả, hàng
nhái…+ Thứ ba, việc mở rộng giao lưu văn hóa khiến du nhập vào Việt Nam nhiềuyếu tố văn
hóa không lành mạnh, không phù hợp với văn hóa truyền thống người Việt, thậm chí còn
mang tính chất phản động
Và còn rất nhiều khó khăn, thách thức nữa chờ chúng ta khi tiến hành mở rộngquan
hệ ngoại giao, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đòi hỏi Đảngphải thật tỉnh
táo, đúng đắn khi đề ra các chính sách, đường lối tiếp theo.
2. Thành tựu
Ta đã phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, cô lập; thiết lập quan hệ ngoạigiao
với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, trên mọiphương diện từ
chính trị, kinh tế đến an ninh, quốc phòng.
Đến nay, VIệt Nam đã có quan hệ ngoại giao khoảng 189/193 thành viên LHQ quốc
gia, có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của
hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và
vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới.. Thế và lực của đất nước ngày càng vững mạnh,
vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tếđược nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả đều
là minh chứng cho chủ trương đa dạnghóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.
Ta đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâudài
với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu. Nhìn chung, quanhệ giữa ta với
các nước lớn đã có những tiến bộ rõ rệt. Việt Nam hiện nay dướichính thể Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn180 nước thuộc tất cả các châu lục và
có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn.
Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệm thành
công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-
2009). Sau đó, Việt Nam liên tục và đồng thời được các nước tín nhiệm bầu vào các cơ quan
quan trọng như: thành viên Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016), Hội đồng Kinh tế-

18
Xã hội (ECOSOC) (nhiệm kỳ 2016-2018), thành viên Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng
lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) (nhiệm kỳ 2013-2015) và là Chủ tịch Hội đồng Thống đốc
IAEA trong 2 năm 2013-2014. Việt Nam đã đảm nhiệm vai trò thành viên của ECOSOC
nhiệm kỳ 2016-2018 và trong cuộc vận động ứng cử vào HĐBA nhiệm kỳ 2020-2021 thì
Việt Nam đã đắc cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ
2020-2021 với kết quả 192/193 phiếu, từ ngày 1/1/2020 Việt Nam sẽ thay Kuwait tại HĐBA.
Đặc biệt khi dịch Covid19 bùng phát toàn cầu Việt Nam đã đề nghị tổ chức cuộc họp giữa
Việt Nam và tám nước thành viên không thường trực khác của HĐBA LHQ(9/4/2020). Nhằm
thống nhất và phát huy vai trò trong việc huy động phối hợp quốc tế nhằm ứng phó đại dịch
Covid-19 của HĐBA LHQ. Trong suốt gần 43 năm là thành viên có trách nhiệm của Liên
hợp quốc trên cả ba trụ cột hòa bình-an ninh, phát triển và quyền con người.
Bên cạnh ngoại giao chính trị, hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam cũng có
những bước phát triển mới, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Trong
diễn đàn văn hóa đa phương rộng lớn như Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hợp quốc (UNESCO), ngoại giao văn hóa Việt Nam đã phát huy vai trò tích cực, trong đó có
những thành tựu đáng ghi nhận như: ký kết Bản ghi nhớ hợp tác giữa Việt Nam và UNESCO
giai đoạn 2016-2020; đảm nhiệm một số vị trí quan trọng như thành viên Ủy ban Di sản thế
giới nhiệm kỳ 2013-2017, Phó Chủ tịch Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái
Bình Dương (MOWCAP) nhiệm kỳ 2014-2018, và đặc biệt trở thành thành viên Hội đồng
Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2015-2019 với số phiếu cao nhất từ trước đến nay. Hình ảnh
đất nước cũng được đẩy mạnh quảng bá thông qua việc đã có 24 di sản của Việt Nam được
UNESCO công nhận là di sản thế thế giới . Điều này chứng tỏ những bước tiến của ngoại
giao văn hóa tại các diễn đàn đa phương, và cho thấy tình cảm của bạn bè quốc tế đối với một
đất nước Việt Nam cởi mở, giàu lòng mến khách, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là một trong sốcác chủ
trương được đề ra và thực hiện trong suốt thời gian qua. Tuy còn bộc lộnhững hạn chế, nhưng
nó vẫn đóng góp một phần to lớn vào quá trình thực hiệnđường lối đối ngoại, hội nhập kinh
tế quốc tế từ năm 1986 đến nay. Có ý nghĩa rấtquan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinhtế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của
Việt Nam được nâng cao trênthương trường cũng như chính trường quốc tế. Các thành tựu
đối ngoại trong suốt quá trình qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc
tế nóichúng, chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại nói riêng
củaĐảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo
8. TRONG NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 9 KHÓA 11 (2011), ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM ĐÃ ĐỀ RA QUAN ĐIỂM “”VĂN HÓA LÀ NỀN TẢNG TINH THẦN
CỦA XÃ HỘI, LÀ MỤC TIÊU, ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT
NƯỚC”. ANH/CHỊ HÃY NÊU Ý KIẾN VỀ QUAN ĐIỂM TRÊN.
Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt
của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một hệ thống các
giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế
hệ , được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc; dồng

19
thời, nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội
bằng môi trường xã hội – văn hóa. Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ
lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt qua mọi khó
khăn để phát triển.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động
lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập
của tư tưởng văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa,...
9. VÌ SAO VIỆC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LỰA CHỌN MÔ HÌNH KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ MỘT TẤT YẾU?
CÁCH TRẢ LỜI 1:
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển kinh
tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và
tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc
trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực
tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ
đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư
duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống
động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng
ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh
thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" 
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa
chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay
Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

20
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù
hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là
một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng
vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế
không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển,
mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ
thể. 
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển
kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế
hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản
xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng
như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm
tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt
Nam.
CÁCH TRẢ LỜI 2:
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản
và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi
lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật
không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô
hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp.
Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ
đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công
tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là
bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn
trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-

21
1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng
hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển
hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội.
Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là
kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết
tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra
quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ
nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ
trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của
Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối
lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách
quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được
xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng
khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức
đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là
kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư
duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự
gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng
xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ
kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ
biến”, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù
hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.

22
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế
thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo
kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì
như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa
có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn
lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong
việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân
hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn
tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lê-nin, nắm bắt
đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
11. ĐÁNH GIÁ VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
    Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách
thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã
lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi
trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo
điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên,
chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã
từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại
và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành
công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế,
chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy
của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."*
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác
nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho
việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với các nước và trung tâm chính
trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã
chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan
hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Các mối quan hệ song phương và đa phương
đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng cố môi trường hoà bình, ổn định và
tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng
trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh thế
giới toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến
trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở
rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ
tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

23
Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực như
ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn á - Âu
(ASEM) … Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc
tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự
tham gia và hoạt động tích cực của Việt Nam ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá
tích cực và hiệu quả.
Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để
cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo, tội
phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ...  Việt Nam đã tích cực tham
gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song
phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và ổn định
của các quốc gia.
Việc khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác
thể hiện tư duy đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo cần thiết của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền ở các nước nhằm trao đổi kinh nghiệm lãnh
đạo và quản lý đất nước, góp phần thúc đẩy quan hệ mọi mặt  đã góp phần nâng cao vị thế uy
tín của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương. Đương nhiên, trong quan hệ với các đảng cầm
quyền trên thế giới chúng ta cũng xác định rõ các nguyên tắc: độc lập tự chủ; bình đẳng; tôn
trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; cùng nhau thúc đẩy quan hệ
hữu nghị và hợp tác, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ; và Đảng ta
không quan hệ với các đảng, các tổ chức cực đoan.
Đối với nước ta, xác định đường lối đối ngoại mà đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là mục
tiêu hàng đầu là vừa phù hợp với xu thế chung, vừa là ý Đảng lòng Dân và tạo sự đồng thuận
cao trong xã hội. Sự đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo của Đảng thể hiện ở việc xác định
mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là một trong những vấn đề
quan trọng nhất “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt
động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”
Đây là kết quả của quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có tư duy đối ngoại là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với các đảng chính trị trên thế giới
trong tình hình hiện nay là đúng đắn, là cần thiết, nhằm tạo nên sự đồng thuận và cổ vũ cho
đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi.

Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới do những thành tựu và kinh nghiệm
30 năm đổi mới mang lại, với vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, cơ hội rất lớn và
thách thức cũng không nhỏ. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng qua các kỳ Đại hội đã thể
hiện sự nhất quán, sáng tạo và hệ thống với tầm cao mới. Chúng ta tin tưởng rằng, với kinh
nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng và đặc biệt trong 30 năm đổi mới toàn diện đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp cách
mạng nước ta sang một bước ngoặt mới. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng,
trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta sẽ đạt được nhiều
thành tựu to lớn, giữ vững môi trường hòa bình và phát huy ngoại lực sớm đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

24
25

You might also like