You are on page 1of 20

LỊCH SỬ ĐẢNG

Đề 2017-2018
Câu 1: Chứng minh rằng, Nghị quyết Trung ương 15 (1959) của Đảng đã chỉ ra một cách toàn diện con đường
tiến lên của cách mạng miền Nam, phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn?
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang, đất nước độc lập, non sông
thu về một mối. Ðể làm nên thắng lợi cuối cùng, sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 15 là một minh chứng điển hình thành công trong lãnh
đạo, chỉ đạo của Ðảng đối với cuộc đấu tranh cách mạng ở Miền Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung.
Sự cần thiết của Nghị quyết 15
Sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Ðông Dương (20-7-1954), quân và dân ta nghiêm chỉnh thi hành
các điều khoản của Hiệp định. Trái lại, cả Mỹ và chính quyền Ngô Ðình Diệm tìm mọi cách phá bỏ Hiệp định, cự tuyệt hiệp
thương tổng tuyển cử, đàn áp đẫm máu những người cộng sản, cán bộ kháng chiến và người dân yêu nước sử dụng đấu tranh
chính trị, đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình. Tình hình này diễn ra trong một thời gian dài làm cho phong trào đấu tranh cách
mạng bị tổn thất nặng nề.
Trong hai năm 1957-1958, Ðảng đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp
đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.
Thực tế là từ tháng 6-1956, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết khẳng định "đấu tranh chính trị không có nghĩa là tuyệt đối
không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định"; và sau đó, tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy
Nam Bộ, đã viết "Ðề cương cách mạng Miền Nam", cũng đề cập đến vấn đề bạo lực cách mạng và đấu tranh vũ trang, song
chúng ta chưa sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang một cách mạnh mẽ, thích hợp để đối phó với sự đàn áp, khủng bố tàn bạo
của kẻ thù, nên cách mạng Miền Nam vẫn tiếp tục bị tổn thất.
Mặc dù bị chính quyền Ngô Ðình Diệm thẳng tay khủng bố, song cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước ở Miền
Nam cơ bản vẫn nghiêm túc chấp hành chủ trương đấu tranh và sự chỉ đạo của Ðảng, không manh động. Ðiều đó chứng tỏ
đảng viên và quần chúng vẫn tin tưởng và chờ đợi một sự thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ về chủ trương, phương pháp đấu
tranh của Ðảng đối với kẻ thù.
Nhận được những kiến nghị khẩn thiết của các tổ chức Ðảng và của cán bộ, đồng bào, chiến sĩ Miền Nam yêu cầu phải
nhanh chóng thay đổi hình thức đấu tranh, trên cơ sở xem xét thực tế tình hình, Bộ Chính trị đã cử ra một tổ tập trung nghiên
cứu, đề xuất chủ trương, hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng Miền Nam để đưa phong trào cách mạng
thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, phát triển đi lên.
Nghị quyết 15 soi sáng con đường phát triển của cách mạng Việt Nam
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, đã xác định con đường phát triển
của cách mạng Miền Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng ở Miền Nam; xác định mối quan hệ giữa hai chiến
lược cách mạng ở Miền Nam và Miền Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nhằm giải phóng Miền Nam,
bảo vệ Miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Nghị quyết 15 được thông qua và phổ biến sau cuộc họp đợt 2 (7-1959) khẳng định: nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
Miền Nam là giải phóng Miền Nam; nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Ðình Diệm, tay sai của đế quốc
Mỹ; phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; dự kiến xu hướng phát triển từ khởi nghĩa của nhân dân tiến lên cuộc đấu tranh vũ
trang trường kỳ.
Nghị quyết 15 ra đời đã đáp ứng đúng đòi hỏi của tình hình và nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân
dân, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển đi lên của cách mạng Miền Nam là phải dùng bạo lực cách mạng, phải chuyển
hướng sang đấu tranh vũ trang, để đưa phong trào vượt thoát khỏi tình thế hiểm nghèo. Ðây là một văn kiện có ý nghĩa lịch
sử, đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chỉ đạo đấu tranh cách mạng ở cấp lãnh đạo cao nhất, sự chuyển hướng mạnh mẽ về
hình thức và phương pháp đấu tranh.
Nghị quyết 15 của Trung ương Ðảng chính là ngọn lửa châm ngòi cho cao trào Ðồng khởi trên quy mô lớn tại các địa
phương ở Nam Bộ và Khu 5. Trước năm 1959, trước khi có Nghị quyết 15, các cuộc đấu tranh có tính chất vũ trang tự vệ của
quần chúng cách mạng, yêu nước chỉ diễn ra lẻ tẻ, tự phát ở một vài địa phương. Sau khi Ban Chấp hành Trung ương họp
Hội nghị lần thứ 15 (đợt 1, từ ngày 12 đến 22-1-1959; đợt 2, từ ngày 10 đến 15-7-1959) và ra Nghị quyết, thì dù chưa có
Nghị quyết chính thức (trong nửa đầu năm 1959) nhưng tinh thần cơ bản của Nghị quyết đã được các đồng chí lãnh đạo Xứ
ủy Nam Bộ, ra Hà Nội dự Hội nghị, đem về truyền đạt ngay sau khi kết thúc đợt 1. Vì thế, thực tế diễn biến cho thấy, từ giữa
năm 1959 trở đi đã có hàng loạt cuộc đấu tranh mang tính bạo lực của quần chúng nổ ra ở các địa phương, như Minh Thạnh
(Tây Ninh); Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một); Gò Quản Cung, Gò Măng Ða (Ðồng Tháp); Tà Lốc, Tà Léc (Bình Ðịnh); Tam Ngân
(Bình Thuận); Nóc Ông Tía, Trà Bồng (Quảng Ngãi) ...Ðiều đó báo hiệu một giai đoạn đấu tranh mới đang hình thành. Quá
trình khởi nghĩa từng phần ở Miền Nam đã bắt đầu. Như thế, ý nghĩa, tác động của Nghị quyết 15 là trực tiếp, nhanh chóng
và rõ rệt, mở ra hướng đi mới cho phong trào đấu tranh ở Miền Nam.
Ngay sau khi có văn bản Nghị quyết 15, Xứ ủy Nam Bộ họp (11-1959), nhận định: tuy địch có gây cho ta nhiều khó
khăn nhưng xét về căn bản và toàn cục thì ta đã giành được thế chủ động; cơ sở Ðảng vẫn được giữ vững, phong trào quần
chúng phát triển cao hơn so với năm 1958; hoạt động vũ trang tuyên truyền phát huy tác động hỗ trợ cho đấu tranh chính trị.
Tháng 12-1959, Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ họp, có sự tham dự của đại biểu các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Gò
Công, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, Kiến Phong, trên cơ sở đánh giá tình hình, khả năng của các lực lượng cách mạng,
đã quyết định phát động nhân dân khởi nghĩa ở xã, ấp. Phương châm đấu tranh là: nổi dậy đều khắp không để nổi cộm từng
điểm khiến địch có thể tập trung lực lượng đàn áp; phải vận động cho được quần chúng nhân dân vùng lên đấu tranh với địch
nhưng phải giữ cho được thế hợp pháp. Hoạt động vũ trang phải khôn khéo, tránh nặng về đấu tranh vũ trang đơn thuần.
Ban quân sự Liên tỉnh miền Ðông Nam Bộ cũng tổ chức họp bàn việc thực hiện chủ trương của Xứ ủy. Căn cứ địch ở
Tua Hai (Tây Ninh) được chọn làm trận tiến công mở đầu cho các tỉnh miền Ðông Nam Bộ.
Ðến đầu tháng 1-1960, thời cơ cho một cuộc tiến công, nổi dậy rộng khắp các địa phương Miền Nam đã tới. Mở đầu
cho phong trào Ðồng khởi là cuộc đấu tranh chính trị, vũ trang của quần chúng nhân dân huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, ngày
17-1-1960, giành được thắng lợi. Phối hợp với Bến Tre, dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Ðảng, nhân dân các địa phương ở
Trung Nam Bộ, Ðông Nam Bộ đã đồng loạt đứng lên phá rã hệ thống kìm kẹp và chính quyền cơ sở của chế độ Sài Gòn,
giành quyền làm chủ, đẩy chính quyền Ngô Ðình Diệm vào tình thế bị động đối phó.
Ngày 26-1-1960, trận tiến công địch ở căn cứ Tua Hai (Tây Ninh) của lực lượng vũ trang giành thắng lợi, trở thành
phát súng mở đầu cho cuộc nổi dậy của quần chúng cách mạng ở địa bàn trọng yếu miền Ðông Nam Bộ.
Trong quá trình diễn ra cao trào Ðồng khởi, bên cạnh quyền làm chủ một số thôn, xã của nhân dân được xác lập, lực
lượng vũ trang và bán vũ trang cũng từng bước được xây dựng và trưởng thành... dẫn đến sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải
phóng Miền Nam. Mặt trận đã trở thành ngọn cờ tập hợp các lực lượng yêu nước tán thành độc lập, dân chủ và hòa bình, đấu
tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai.
Như vậy, có thể thấy rằng Nghị quyết 15 ra đời là vô cùng cần thiết, đáp ứng đúng đòi hỏi của tình thế cách mạng, giải
quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam, khi tình thế đã đầy đủ và chín muồi, giải tỏa nỗi bức
xúc bị kìm nén và nguyện vọng tha thiết của cán bộ, chiến sĩ, đồng bào Miền Nam. Nghị quyết 15 như ngọn đuốc soi sáng
con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam, là cơ sở trực tiếp cho phong trào Ðồng khởi nổ ra và giành
thắng lợi. Kết quả to lớn và dễ nhận thấy của phong trào Ðồng khởi là sự khôi phục hoạt động của Ðảng bộ Miền Nam. Ðội
quân đấu tranh chính trị, đặc biệt là "đội quân tóc dài", một lực lượng đấu tranh độc đáo và hiệu quả của phụ nữ Nam Bộ ra
đời. Cũng từ phong trào Ðồng khởi, lực lượng vũ trang ba thứ quân từng bước củng cố, phát triển về số lượng và chất lượng.
Phong trào Ðồng khởi thực sự là một mốc son lịch sử đánh dấu bước chuyển giai đoạn cách mạng quan trọng, đẩy Mỹ và
chính quyền, quân đội Sài Gòn vào thế bị động chống đỡ và thất bại.
Nghị quyết 15 và tiếp đó là Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng toàn quốc lần thứ 3 (9-1960), đã hoàn chỉnh đường lối
cách mạng Việt Nam ở Miền Nam. Với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Ðảng ta đã chỉ đạo nhân dân Miền
Nam đứng lên tiến hành cuộc Ðồng khởi vĩ đại, đánh một đòn chí tử vào hình thức thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ,
tạo ra một bước ngoặt đi lên cho cách mạng Miền Nam, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh, chuyển sang tiến hành
"chiến tranh đặc biệt" với sự dính líu và sa lầy ngày càng tăng ở Việt Nam.
Nghị quyết 15 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ đấu tranh cách mạng giải phóng Miền Nam, đánh đổ
sự thống trị của Mỹ-Diệm, với nhiệm vụ xây dựng, củng cố bảo vệ Miền Bắc, hậu phương lớn và trực tiếp của cách mạng
Miền Nam. Ðồng thời, Nghị quyết 15 cũng góp phần xác định và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và
phong trào cách mạng, đấu tranh bảo vệ hòa bình, giải phóng dân tộc trên thế giới.
Câu 2: (chọn và làm câu 2a hoặc 2b)
2a. Chứng minh rằng, quá trình cụ thể hóa, bổ sung, điều chỉnh đường lối đấu tranh giành chính quyền của
Đảng từ năm 1941 đến năm 1945 là một trong những đảm bảo vững chắc cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945?
Sự lãnh đạo của Ðảng trước hết ở sự bổ sung, phát triển hoàn chỉnh hệ thống các quan điểm về cách mạng giải phóng
dân tộc; ở sự lựa chọn hình thức và phương pháp cách mạng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể; ở sự tổ chức xây dựng lực
lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; ở sự nhận thức tình thế và thời cơ cách mạng để đưa
quần chúng vào hành động cách mạng; ở sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung, thống nhất trong giờ phút có ý nghĩa quyết định
đến thắng lợi.
Ðể đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) đến thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, có ba thời điểm
lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của Ðảng ta: đó là các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939
đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc; những quyết sách quan trọng cuối năm 1944
đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước; quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Ðảng toàn quốc tháng
8-1945.
1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a. Tình hình thế giới và trong nước
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành một
loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.
Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941, quân phát xít Đức tấn công Liên
Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng
dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
Tình hình trong nước:
Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng
của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng
cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh
chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào
cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày
càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Thể hiện qua:
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) - quan trọng nhất
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong
nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu ruộng đất của đế quốc
và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương
Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thu hút mọi
người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai
đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ
địa cách mạng.
Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác
vận động quần chúng.
c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
`Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc
lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.
Đường lối đúng đắn gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi
trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị
thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.
Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điều cụ thể để
thực hiện 2 điều cơ bản là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân Việt Nam được sung sướng, tự do. Thông qua Mặt
trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng và lãnh đạo phong trào đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội. Phong trào Việt Minh phát triển mạnh nhất ở Bắc Kỳ sau đó lan rộng tới Trung kỳ và Nam kỳ.
Chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), đội du kích Bắc Sơn
được duy trì và đổi tên thành Cứu Quốc quân. Ngày 22-12-1944 Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành
lập ở Nguyên Bình (Cao Bằng) do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân phát triển
mau chóng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vũ trang, xây dựng cơ sở cách mạng, thúc đẩy và cổ vũ phong trào đấu tranh
cách mạng trong cả nước.
Đảng và Hồ Chí Minh chỉ đạo việc thành lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn-Vũ
Nhai và căn cứ Cao Bằng
Năm 1943, Đảng công bố Đề cương Văn hóa Việt Nam - khẳng định Văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng do
Đảng lãnh đạo, tiến tới xây dựng nền văn hóa mang 3 tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Song song với việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Pháp - Nhật. Đảng đã dày công chuẩn bị lực lượng trên cả ba
phương diện lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, văn hóa tư tưởng để tiến tới giải phóng dân tộc
khi thời cơ đến.
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a) Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần
Phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước:
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới II đã đi vào giai đoạn kết thúc. Quân đồng minh chuẩn bị tiến vào Đông Nam Á.
Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương, Pháp
chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Nội dung:
- Chỉ thị đã nhận định: Nhật đảo chính Pháp sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi
nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy nhiên nó sẽ làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi.
- Xác định kẻ thù là Nhật, khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động cao trào kháng Nhật
cứu nước làm tiền đề cho khởi nghĩa.
- Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa
- Dự báo thời cơ:
+ Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ
hở.
+ Cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập hoặc Nhật bị mất nước như
Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.
Cao trào kháng Nhật cứu nước đã thu được những kết quả quan trọng, là tiền đề trực tiếp đưa tới thắng lợi của tổng
khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôI nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội
dung, hình thức.
- Tháng 3/1945 tù chính trị nhà giam Ba Tơ khởi nghĩa, đội du kích Ba Tơ ra đời. Đây là lực lượng vũ trang cách
mạng đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.
- Để chỉ đạo phong trào, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập (5/1945) đã quy định thống nhất các lực
lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang. Đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng 7 chiến khu trong cả
nước: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung ở Bắc Kỳ; Trưng Trắc, Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ;
Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ.
- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Tuyên Quang. Ngày 4/6/1945 theo chỉ thị của Người “Khu giải phóng”
được thành lập gồm Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà và một số vùng phụ cận. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của
cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
- Ở Đồng Bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phong trào “phá kho thóc giải quyết nạn đói” đã lôi cuốn hàng triệu quần
chúng tham gia biến thành cuộc khởi nghĩa từng phần diễn ra ở nhiều địa phương. Trong thời gian ngắn, Đảng đã động viên
được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.
b) Đảng phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước
- Điều kiện phát động tổng khởi nghĩa (thời cơ tổng khởi nghĩa):
Chiến tranh thế giới II kết thúc, thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh không điều kiện
(9-5-1945), phát xít Nhật đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn, chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Tình
thế cách mạng trực tiếp xuất hiện.
Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật.
Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh.
- Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành chính quyền.
- Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông
Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội Quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu
gọi đồng bào cả nước: “giờ quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14-8:
Giải phóng quân tiến công các đồn Nhật ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 14 đến ngày 18:
Giành chính quyền ở Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Phúc Yên, Thanh Hoá, Thái Bình.
Ngày 19-8: Giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội. Ngày 23-8: Khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế. Ngày 25-8: Quân
Nhật ở Sài Gòn thất thủ. Ngày 28-8: Ta giành chính quyền trong cả nước. Uỷ ban dân tộc giải phóng tuyên bố tự cải tổ thành
Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 đến 28-8) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành
công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 30-8: vua Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm, áo bào cho đại diện Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà.
Ngày 2-9: Tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố
với quốc dân đồng bào: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám
Kết quả và ý nghĩa:
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiền xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong hơn 80 năm, chấm dứt
sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế suốt 1000 năm và ách thống trị của phát xít Nhật.
- Ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người tự do, người
làm chủ vận mệnh của mình.
- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt
động công khai.
- Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý cho phong trào đấu tranh giành độc lập và chủ
quyền.
- Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc,
mở đầu thời kỳ sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
- Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa.
2b. Phân tích nội dung đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam? Ý nghĩa của đường lối đó với
phát triễn kinh tế - xã hội của đất nước?
Qua 25 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những kết quả: Một là,
phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
a) Thành tựu và ý nghĩa

Qua 25 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những kết quả:

Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

Việc tham gia ký Hiệp định Pari (ngày 23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Campuchia đã mở ra tiền đề để
Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế.

Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (ngày 10-11-1991); tháng 11-1992, Chính phủ Nhật Bản quyết định
nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (ngày 11-7-1995).

Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nuớc ta với khu vực Đông Nam Á.

Hai là, giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan.

Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp "gác tranh chấp, cùng khai thác" ở vùng biển chồng lấn giữa hai nước.
Thu hẹp diện tích tranh chấp vùng biển giữa ta và các nước ASEAN. Đã ký với Trung Quốc: Hiệp ước về phân định biên
giới trên bộ, Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ và Hiệp định họp tác về nghề cá.

Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước ủy viên Thường trực Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung
về hợp tác với EU (năm 1995); năm 1999 ký thỏa thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ "Láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai"; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt
Nam - Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam — Hoa Kỳ; tuyên bố về quan hệ
đối tác chiến lược với Nga (năm 2001); khung khổ quan hệ đối tác tin cậy và ồn định lâu dài với Nhật Bàn (năm 2002).
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 nước trên thế giới.

Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ
2008 — 2009.

Năm 2010 Việt Nam đã đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN; tích cực tham gia và có những đóng góp cho
nhiều hoạt động đa phương khu vực và trên thế giới, như tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu về an ninh hạt nhân và giải
trừ vũ khí hạt nhân, phòng chống tội phạm, biến đổi khí hậu....

Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.

Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng
Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN (tháng 7-1995) Việt Nam đã tham gia khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3-1996, tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên
sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-2007, Việt
Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Năm là, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quàn lý.
Về mở rộng thị trường: Đến năm 2010, Việt Nam có quan hệ thương mại, đầu tư với khoảng 230 nước và vùng lãnh thổ, đưa
tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu so với GDP lên trên 170%. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đã gắn kết chặt chẽ vào nền
kinh tế thế giới. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 789 triệu USD, đến nắm 2007 đạt 48 tỷ USD;
năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD; năm 2010 ước đạt 71,6 tỷ USD.

Hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới.
Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản
xuất. Đồng thời, thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được
nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.

Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh.

Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng,
không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển.

Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng
tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đánh giá: "hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng,
vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao".

Những kết quà trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực
trong nước hình thành sức mạnh tổng họp, góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố
độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc; Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) nhận định: nước ta "có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới".

b) Hạn chế và nguyên nhân


Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế:

Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan
xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.

Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ
thống luật pháp chưa, hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức quốc
tế.Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các
cam kết.Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém
phát triển và có chi phí cao bơn các nước khác trong khu vực.

Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nói chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp
ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.

Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, như: "Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn
chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh
tế và văn hóa đối ngoại chưa thật đồng bộ".

Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế từ năm 1986 đén năm 2011 mặc dù còn những hạn chế, nhưng
thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế Việt
Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại, hội nhập
quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.

Đề 2016-2017
Câu 1. Phân tích nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930
thông qua.
Cương lĩnh của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930)
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước có ý nghĩa như Đại
hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập và
chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam
Cộng sản Đảng (10-1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác
nhau trên bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt
của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội dung Cương lĩnh
chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ
chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu,
văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một lôgic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Trong Chánh cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản" (1). Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã hội làm
cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công, nông,
binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính
phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông
nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của
nhân dân ta.
Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông
dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ
và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.
Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của Đảng, hệ thống tổ
chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới
cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường
cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần
nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách
mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã quy tụ được lực lượng và
sức mạnh của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng,
làm cho Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa nhận là đội tiền
phong của mình, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm và trí tuệ của dân tộc.
Câu 2. Phân tích nội dung cơ bản của định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức của Đại hội X (4/2006).
Thứ nhất, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, với những vấn đề cơ bản sau đây.
- Hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới đa dạng sản phẩm hàng hóa, tỷ suất hàng hóa, chất
lượng, năng suất và khả năng cạnh tranh cao, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo
hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
- Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển các khu nông nghiệp
công nghệ cao, các vùng chuyên hóa tập trung. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn. Thúc
đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn phù hợp với điều kiện của từng vùng.
- Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và đổi mới các hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh. Xây dựng nông thôn mới theo hướng dân chủ, công bằng, nông dân có cuộc sống no đủ, có đời sống
văn hóa lành mạnh, có môi trường sạch.
Thứ hai, phát triển kinh tế vùng
- Đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tập trung phát triển trước hết một số vùng có khả năng tăng trưởng mạnh nhất, tạo
động lực lan tỏa đến các vùng khác trong nước.
- Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể của cả nước và tạo các mối
liên kết kinh tế cơ bản giữa các vùng và trong nội bộ từng vùng trên cơ sở phân công lao động, đưa vào lợi thế phát triển của
mỗi vùng.
- Cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm, tăng thu
nhập... Đồng thời, có cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho các vùng còn nhiều khó khăn phát huy được tiềm năng của mình
để phát triển nhanh, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo, các vùng Tây Nguyên Tây Nam và Tây Bắc.
Thứ ba, phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng và dịch vụ
- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác, công nghiệp phần mềm, công nghiệp bổ trợ
có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các
tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
- Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng các kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Hoàn chỉnh một bước
cơ bản mạng lưới giao thông, thủy lợi, cấp thoát nước... Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thông.
- Phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ.
Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng
phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa
tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng
các ngành dịch vụ truyền thống, mở mang các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao,
các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường tài
chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển
- Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá trình CNH, HĐH rút ngắn. Điều này thể hiện như
sau:
+ Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập
kinh tế quốc tế thành công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
+ Đây là cách thức đúng đắn để đạt mục tiêu phát triển con người.
+ Phát triển nguồn nhân lực chính là tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.
Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là một nội dung trung tâm của phát triển bền vững
và của quá trình hiện đại hóa.
Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát triển con người và hiện đại hóa khâu giáo dục, đào
tạo. Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung tâm. Ở nước ta hiện nay, giáo dục, đào
tạo còn lạc hậu và chưa thích ứng với việc hình thành nguồn nhân lực của quá trình hiện đại hóa. Do đó, hiện đại hóa giáo
dục, đào tạo chứ không chỉ dừng ở cải cách là một vấn đề trọng tâm, mang tính tiên quyết của quá trình hiện đại hóa. Gắn với
quá trình hiện đại hóa giáo dục, đào tạo, việc đầu tư cho giáo dục đào tạo trong mối quan hệ với hiện đại hóa nguồn nhân lực,
được xem là đầu tư cho sản xuất, thuộc “ngành công nghiệp nặng” và là đầu tư mang tính hiệu quả nhất.
- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ. Chú ý đi
ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời,
chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
Trong vấn đề này, có ba điểm nhấn quan trọng.
a. Phát triển khoa học tự nhiên và công nghệ. Phát huy những năng lực nội sinh đi đôi với tiếp thu, làm chủ, ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Phát triển các công nghệ cao, công nghệ thông tin, viễn thông, sinh học, vật liệu
mới, tự động hóa và sản xuất các dạng năng lượng mới. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công nghệ.
b. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc
gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm; xóa bỏ cơ chế
hành chính bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Huy
động các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy
mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp.
c. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ
sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút, trọng dụng các nhà khoa
học, công nghệ tài giỏi ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Đề 2016-2017
Câu1. Phân tích nội dung cơ bản chủ trương xây dựng hệ thống chính trị của Đảng trong thời kì đổi mới?
- Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị:
Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung
thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại hội X và XI đà bổ sung một số nội dung quan trọng:
"Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc".
Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định: "Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương
lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng
viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác toàn bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực
và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng
đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị". Đảng không làm thay công việc của các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị.

Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: "Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật"

Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ
thống. Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt nhất và cũng là khó khăn nhất là đổi
mới phương thức hoạt động của Đảng, khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện,
làm thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.

Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn luôn coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đổi với hệ thống
chính trị. Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền
làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền
vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm
vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải
chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút
kinh nghiệm; vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp,
từng ngành.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là
một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội
loài người, của nền văn minh nhân loại, Việt Nam cần tiếp thu.
Chúng ta hiểu chế định Nhà nước pháp quyền không phài là một kiểu nhà nước, một chế độ nhà nước. Trong lịch sử
loài người chỉ có bốn kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức phân công quyền lực nhà nước. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng theo năm đặc điểm sau đây:

 Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

 Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

 Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ
vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

 Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và
công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự
phản biện của xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận. Để việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền đạt kết quả cao cần thực hiện tốt một số biện pháp lớn sau đây:

 Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.

 Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hòan thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu
Quốc hội. Đổi mới quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban chấp hành pháp luật. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.

 Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành
pháp thống nhất, thong suốt, hiện đại.

 Xây dựng hệ thống cơ quant tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con
người. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

 Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
- Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động,
đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương chính
sách về kinh tế, văn hóa, xã hội; an ninh, quốc phòng.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản
biện xã hội. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn…, quy chế dân chủ ở mọi cấp
để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính
trị.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội, khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước
hóa, phô trương, hình thức; nâng cao chất lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Câu 2. Phân tích nội dung cơ bản của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Sau Hội nghị thành lập Đảng, Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng được bí mật đưa vào phong trào cách mạng của quần
chúng, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và tiến dần lên cao trào. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng
vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc thử thách toàn diện trên cương vị đội tiền phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của
dân tộc.
Sau Hội nghị thành lập Đảng, Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng được bí mật đưa vào phong trào cách mạng của quần
chúng, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và tiến dần lên cao trào. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng
vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc thử thách toàn diện trên cương vị đội tiền phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của
dân tộc. Tháng 4-1930, đồng chí Trần Phú từ Mátxcơva về nước, đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời và được phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị soạn thảo bản Luận cương chính trị trình Hội nghị lần thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tiến hành từ ngày 14 đến
ngày 30- 10-1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Đông Dương, thông qua Luận cương chính trị của Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm 7 ủy viên,
đồng chí Trần Phú là Tổng Bí thư. Nội dung cơ bản của Luận cương chinh trị:
Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị:
Luận cương xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
+ Về mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương: một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ,
phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa.
+ Tính chất của cách mạng Đông Dương: lúc đầu “là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền... có tính chất thổ địa và
phản đế” sau đó phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
+ Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ các di tích phong kiến để thực hành thổ địa cách nạng triệt để
và đánh đổ đế quốc làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền".
+ Về lực lượng cách mạng: trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính,
nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.
Các giai cấp và tầng lớp khác: tư sản thương nghiệp và công nghiệp đứng về phía đế quốc; bộ phận thủ công nghiệp
trong giai cấp tiểu tư sản có thái độ do dự, tiểu tư sản thương gia không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức có xu hưỏng
cải lương.
+ Về phương pháp cách mạng: Luận cương nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: "võ trang bạo
động".
+ Về vai trò lãnh đạo của Đảng: "Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng Đông Dương là cần phải có một Đảng
Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải đấu tranh mà
trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc".
+ Về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Luận cương chính trị nhấn mạnh: vô sản Đông
Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp, với quần chúng cách mạng ở các nước thuộc địa, bán
thuộc địa, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Tính thống nhất và sự khác nhau giữa Luận cương chính trị (10-1930) với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930)
* Tính thống nhất:
Những nội dung của Luận cương chính trị thống nhất về cơ bản với Cương lĩnh chính trị đầu liên của Hội nghị thành
lập Đảng:
- Cùng xác định phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng là làm cách mạng tư sản dân quyển và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản.
- Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng là: chông đế quốc và phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập.
- Tính chất của cách mạng lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền sau đó liếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư
bản tiến thắng lên con đường xã hội chủ nghĩa (độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội).
- Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách nạng của quần chúng. Tuyệt đối không đi vào con đường thoả hiệp.
- Về lực lượng lãnh dạo cách mạng là giai cấp vô sản thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản.
- Về mối quan hệ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách mạng Việt Nam với cách mạng Đông Dương là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Những điểm chưa thống nhất và là hạn chế của Luận cương:
Luận cương chính trị và Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt có những điểm chưa thống nhất, đó cũng chính là
những hạn chế của Luận cương tháng 10-1930:
Một là, Luận cương chưa phân tích sâu sắc đặc điểm của xã hội Việt Nam nên không nêu được mâu thuẫn chủ yếu cần
giải quyết của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp và tay sai của chúng, do đó không đặt
nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu.
Hai là, Luận cương đánh giá chưa đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản dân tộc,
chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Luận
cương chính trị nhận rõ vai trò của liên minh công nông, nhưng lại chưa đề cập vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất.

Đề 2017-2018
Câu 1. Phân tích nội dung cơ bản chủ trương xây dựng hệ thống chính trị của Đảng trong thời kỳ mới.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng thật sự trong
sạch, vững mạnh. Từ khi giành được chính quyền, Đảng ta vừa là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, vừa là hạt
nhân lãnh đạo hệ thống ấy. Bởi vì, “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, …là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (1). Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh chi phối tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị. Đến lượt nó, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị chính là thước đo năng lực lãnh đạo, uy tín, vị thế, địa
vị cầm quyền của Đảng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết
định bảo đảm sự thành công của công cuộc đổi mới. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và cầm quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Trên cơ sở kiên trì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản, công tác xây dựng Đảng được tiến hành
trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Xây dựng Đảng về chính trị đã
giúp giữ vững, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định các nguyên tắc nền tảng; tăng cường bản lĩnh chính trị;
nâng cao chất lượng đường lối, chính sách. Công tác tư tưởng, lý luận được tăng cường đã tạo sự thống nhất trong Đảng và
đồng thuận xã hội trước những vấn đề lớn của đất nước, của công cuộc đổi mới; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tìm tòi, bổ sung và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để xây dựng Đảng thực sự đạo đức, văn minh, cần nắm rõ ba nguyên tắc: Một là, những chuẩn mực đạo đức cần có
của tổ chức Đảng: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, chống giáo điều và xa rời nguyên tắc. Trung thành
với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân, dân tộc Việt Nam và của loài người. Đảng gắn bó với dân, là người lãnh đạo
đồng thời là người đày tớ trung thành của nhân dân.
Hai là, những phẩm chất đạo đức cách mạng cần có của cán bộ, đảng viên: Trung với nước hiếu với dân; Cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư; Yêu thương, quý trọng con người; Có tinh thần quốc tế trong sáng.
Ba là, những nguyên tắc, biện pháp xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng: Nói đi đôi với làm, nêu gương đạo đức;
Tu dưỡng đạo đức suốt đời; Xây dựng đạo đức đi đôi với chống lại những hiện tượng phi đạo đức.
Tổ chức đảng và hệ thống chính trị có bước đổi mới quan trọng, từ thể chế, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành, đến nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược; chỉnh đốn lề lối, tác phong
công tác; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường quan hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng được đặc biệt coi trọng, có tác dụng
quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò
tiền phong gương mẫu của đảng viên. Qua thực tiễn xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày
càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt hơn; tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị từng bước được đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý
nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng
Cộng sản Việt Nam trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền, tăng
cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm: năng lực dự báo, định
hướng chính sách, thể chế hóa, cụ thể hóa để tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, còn khoảng cách với đòi hỏi của thực tiễn.
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể
chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được
sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công
tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Quản lý, giáo dục đảng viên
chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa
tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất
đạo đức; sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao. Chất lượng sinh hoạt Đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình
và phê bình còn yếu, thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên nhiều nơi thiếu nền nếp, chưa trở thành ý thức tự giác.
Chưa đạt hiệu quả cao trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; chưa phân định rõ vai trò lãnh đạo tập thể
và trách nhiệm cá nhân; thực hiện kiểm soát quyền lực chưa tốt. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ” chậm được thể chế hóa một cách đồng bộ. Còn nhiều yếu kém trong quản lý kinh tế - xã hội, để nhiều vụ việc tồn đọng
kéo dài, chậm được xử lý, gây bức xúc trong nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là Nhà nước của dân, do dân và vì dân thể hiện ở những nội dung như
sau: Nhà nước của dân là tất cả mọi quyền lực nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do dân là nhà
nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý. Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu. Tất cả đều vì lợi ích của nhân dân; ngoài ra, không có bất cứ một lợi ích nào khác.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện
và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa
không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận
trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi
mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính
sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá. Có thể khẳng định, trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị
là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.
Câu 2. Phân tích nội dung cơ bản của định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức của Đại học X (4/2016)
Thứ nhất, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, với những vấn đề cơ bản sau đây.
- Hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới đa dạng sản phẩm hàng hóa, tỷ suất hàng hóa, chất
lượng, năng suất và khả năng cạnh tranh cao, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo
hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
- Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển các khu nông nghiệp
công nghệ cao, các vùng chuyên hóa tập trung. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn. Thúc
đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn phù hợp với điều kiện của từng vùng.
- Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và đổi mới các hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh. Xây dựng nông thôn mới theo hướng dân chủ, công bằng, nông dân có cuộc sống no đủ, có đời sống
văn hóa lành mạnh, có môi trường sạch.
Thứ hai, phát triển kinh tế vùng
- Đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tập trung phát triển trước hết một số vùng có khả năng tăng trưởng mạnh nhất, tạo
động lực lan tỏa đến các vùng khác trong nước.
- Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể của cả nước và tạo các mối
liên kết kinh tế cơ bản giữa các vùng và trong nội bộ từng vùng trên cơ sở phân công lao động, đưa vào lợi thế phát triển của
mỗi vùng.
- Cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm, tăng thu
nhập... Đồng thời, có cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho các vùng còn nhiều khó khăn phát huy được tiềm năng của mình
để phát triển nhanh, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo, các vùng Tây Nguyên Tây Nam và Tây Bắc.
Thứ ba, phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng và dịch vụ
- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác, công nghiệp phần mềm, công nghiệp bổ trợ
có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các
tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
- Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng các kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Hoàn chỉnh một bước
cơ bản mạng lưới giao thông, thủy lợi, cấp thoát nước... Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thông.
- Phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ.
Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng
phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa
tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng
các ngành dịch vụ truyền thống, mở mang các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao,
các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường tài
chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển
- Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá trình CNH, HĐH rút ngắn. Điều này thể hiện như
sau:
+ Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập
kinh tế quốc tế thành công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
+ Đây là cách thức đúng đắn để đạt mục tiêu phát triển con người.
+ Phát triển nguồn nhân lực chính là tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.
Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là một nội dung trung tâm của phát triển bền vững
và của quá trình hiện đại hóa.
Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát triển con người và hiện đại hóa khâu giáo dục, đào
tạo. Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung tâm. Ở nước ta hiện nay, giáo dục, đào
tạo còn lạc hậu và chưa thích ứng với việc hình thành nguồn nhân lực của quá trình hiện đại hóa. Do đó, hiện đại hóa giáo
dục, đào tạo chứ không chỉ dừng ở cải cách là một vấn đề trọng tâm, mang tính tiên quyết của quá trình hiện đại hóa. Gắn với
quá trình hiện đại hóa giáo dục, đào tạo, việc đầu tư cho giáo dục đào tạo trong mối quan hệ với hiện đại hóa nguồn nhân lực,
được xem là đầu tư cho sản xuất, thuộc “ngành công nghiệp nặng” và là đầu tư mang tính hiệu quả nhất.
- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ. Chú ý đi
ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời,
chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
Trong vấn đề này, có ba điểm nhấn quan trọng.
a. Phát triển khoa học tự nhiên và công nghệ. Phát huy những năng lực nội sinh đi đôi với tiếp thu, làm chủ, ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Phát triển các công nghệ cao, công nghệ thông tin, viễn thông, sinh học, vật liệu
mới, tự động hóa và sản xuất các dạng năng lượng mới. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công nghệ.
b. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc
gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm; xóa bỏ cơ chế
hành chính bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Huy
động các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy
mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp.
c. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ
sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút, trọng dụng các nhà khoa
học, công nghệ tài giỏi ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Đề 2019-2020
Câu 1. Phân tích những đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam được Đại hội IV (12-1976) của Đảng đưa ra.
Theo anh chị, việc xác định đúng những đặc điểm như vậy có ý nghĩa thực tiễn gì?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976
nhất trí và hoàn toàn tán thành Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Duẩn trình bày.
Đại hội nhất trí nhận định rằng, trong 16 năm qua, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã lãnh đạo toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi cùng một lúc hai nhiệm vụ chiến lược do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra là "tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành
độc lập và dân chủ trong cả nước". Giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kết hợp sức mạnh
chiến đấu của tiền tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã phát huy đến cao độ những truyền thống cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta.
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch
sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc.
Đại hội nêu ra 3 đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam, mà đặc điểm lớn nhất là: "Nước ta vẫn đang trong quá trình từ
một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản
chủ nghĩa." Đặc điểm này quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình biến đổi cách mạng toàn
diện, sâu sắc và triệt để, đồng thời cũng quy định tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp trong quá trình đó.
Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc
Miền Bắc do đã có 21 năm đi lên Chủ nghĩa xã hội từ 1954 nên trong giai đoạn này phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng miền Nam
Do mới giải phóng, và trong suốt thời kì Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nền kinh tế
miền Nam trong chừng mực phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, nhưng về cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nông
nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc vào viện trợ bên ngoài. Đại hội quyết định miền Nam
phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.[3]
Kế hoạch 5 năm 1976-1980
Nhằm thực hiện mục tiêu đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế
hoạch 5 năm 1976-1980 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Kế hoạch là xây dựng Chủ nghĩa xã hội và cải
tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhằm hai mục tiêu cơ bản:
 Xây dựng một bước cơ sở vật chất – kĩ thuật của Chủ nghĩa xã hội
 Bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp và
cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
Hoạt động khác
 Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 101 Ủy viên chính thức và 32 Ủy viên
dự khuyết. Ban Chấp hành mới bầu Bộ Chính trị gồm có 14 Ủy viên chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết. Lê
Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.
 Đại hội cũng quyết định khôi phục lại tên cũ của Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc. Đó là kỷ nguyên một nước Việt Nam độc lập, thống
nhất hoàn toàn và vĩnh viễn, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang tiến tới giàu mạnh, văn minh, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Nam châu á và trên thế giới.
Nhân dân ta bắt đầu một cuộc tiến quân vĩ đại trong thời kỳ hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta quyết "xây
dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như Hồ Chủ tịch hằng mong ước. Chúng ta sẽ biến đất nước ta thành một
nước có nền kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, có quốc phòng vững mạnh, có văn hoá, khoa học kỹ thuật tiên tiến, có cuộc
sống văn minh và hạnh phúc, có vị trí xứng đáng trên thế giới.
Chúng ta biết rõ con đường đi tới không chỉ có thuận lợi mà còn nhiều khó khăn, trong đó có cả những thiếu sót và sự
non kém của chúng ta nữa. Nhưng nhìn về tương lai với lòng tin mãnh liệt và nghị lực tràn đầy, nhất định chúng ta vượt qua
được mọi khó khăn và giành được thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Những nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ IV này mở ra chân trời rộng lớn cho sự phát triển toàn diện của đất
nước ta, cho sự nảy nở của trí tuệ và tài năng của mọi người Việt Nam ta.
Thực hiện những nghị quyết của Đại hội là nghĩa vụ, danh dự và lợi ích của những người cộng sản Việt Nam và của
tất cả nhân dân Việt Nam.
Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, mỗi cấp đảng bộ, mỗi đơn vị tổ chức của Đảng phải nhận rõ trách nhiệm và vinh dự
của mình trong giai đoạn mới, ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội, tăng cường liên hệ với quần chúng và xây dựng
Đảng ngày càng vững mạnh.
Toàn thể nhân dân ta: công nhân, nông dân, quân đội, thanh niên, phụ nữ, trí thức, tất cả các tầng lớp và các dân tộc
anh em trong đại gia đình Việt Nam hãy chuyển chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu cứu nước thành chủ nghĩa
anh hùng cách mạng trong lao động sáng tạo xây dựng Tổ quốc! Cách mạng xã hội chủ nghĩa là ngày hội của chúng ta. Hãy
biến cả nước ta và mỗi địa phương, mỗi đơn vị thành những công trường xây dựng vĩ đại, tràn ngập khí thế cách mạng tiến
công, tràn ngập chủ nghĩa anh hùng cách mạng!

Câu 2. Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng tại Hội nghị Trung ương lần
thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965.
Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào, chiến sĩ ở miền Nam phát triển nhanh
chóng, thu được những thắng lợi ngày càng to lớn, khiến cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị thất bại
nghiêm trọng.
Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào, chiến sĩ ở miền Nam phát triển nhanh
chóng, thu được những thắng lợi ngày càng to lớn, khiến cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị thất bại
nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", tìm mọi cách để giữ vững
những vị trí chiến lược và lực lượng. Chúng từng bước tăng cường lực lượng chiến đấu của quân Mỹ và chư hầu vào miền
Nam để quyết giữ một số vùng chiến lược quan trọng, đồng thời, mở rộng hoạt động không quân và hải quân, ném bom bắn
phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm giảm sức tiến công của ta ở miền Nam.
Trước yêu cầu mới của cách mạng, trong năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11
(tháng 3-1965), ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt và Hội nghị lần thứ 12 (tháng 12-1965) với Nghị
quyết về tình hình và nhiệm vụ mới.
Chủ trương của Đảng thể hiện ở nội dung cơ bản của hai Nghị quyết:
+ Trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường khi Mỹ đưa quân đội viễn chinh và quân đội của các nước phụ thuộc Mỹ
trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam, Đảng ta nhận định: tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền
Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân mới. Mỹ tuy có tăng về lực lượng quân sự nhưng lại có nhiều chỗ yếu cơ bản,
nhất là về chính trị.
+ Về phía ta, từ một nửa nước có chiến tranh thành cả nước có chiến tranh với mức độ và hình thức khác nhau. Cuộc
chiến đấu gay go, quyết liệt hơn nhưng ta đã vững mạnh hơn hẳn trước, đã có sự chuẩn bị về tư tưởng và tổ chửc. Từ đó,
Đảng đưa ra kết luận:
Một là, so sánh lực lượng giữa ta và địch căn bản không thay đổi. Vì thế, ta vẫn giữ vững và phát huy chiến lược tiến
công.
Hai là, ta tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp đấu tranh quân sự và chính trị nhưng đấu tranh quân sự ngày càng
có tác dụng quyết định trực tiếp.
Ba là, ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao, tăng cưòng tiếp xúc cả công khai
và bí mật với nhiều nước trên thế giới, làm rõ chính nghĩa và thiện chí của ta, góp phần hình thành trên thực tế một mặt trận
nhân dân chống Mỹ.
+ Hai Hội nghị Trung ương đã khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và kiên quyết đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.
+ Nêu rõ nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc lúc này là phải: "Kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng
xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới". Đồng thời, Ban Chấp hành Trung
ương cũng nêu ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Bắc là: Kịp thời chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường lực
lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển của tình hình; ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị an, bảo vệ miền Bắc,
kiên quyết đánh bại kế hoạch địch ném bom, bắn phá, phong tỏa miền Bắc bằng không quân và hải quân; ra sức chi viện cho
miền Nam để hạn chế dịch chuyển "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam thành "chiến tranh cục bộ" và ngăn chặn địch mở rộng
"chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc, kip thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình mới; đẩy mạnh công
tác đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn quốc tế, vạch rõ âm mưu mới của đế quốc Mỹ đối với cách
mạng miền Nam và miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
+ Phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là
chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng cách mạng của cả hai miền để mở những
cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
+ Phương châm đấu tranh là: kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện
ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận), trong đó đấu tranh quân sự có tácdụng quyết định trực tiếp và giữ một vị
trí ngày càng quan trọng.
+ Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công.
+ Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí cách mạng của hai miền Nam - Bắc vì mối quan hệ giữa hai miền: miền Nam là
tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Hai nhiệm vụ đó không tách rời nhau, mà gắn bó mật thiết với nhau thực hiện
khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước là "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương là những văn kiện lịch sử quan trọng đối với
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn phát triển cao của cuộc chiến
tranh.
+ Hội nghị lần thứ 11 đã chủ trương tiếp tục xây dựng miền Bắc thành một hậu phương lớn với định hướng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện có chiến tranh. Đó là một chủ trương thích hợp, bảo đảm miền Bắc tiếp tục làm tròn nghĩa vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, cách mạng miền Bắc đã
có bước chuyển hướng kịp thời về kinh tế, quốc phòng, tư tưởng và tổ chức để tiến lên giành thắng lợi mới trong những giai
đoạn tiếp theo của cách mạng.
+ Hội nghị lần thứ 12 đã phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch, khẳng định thất bại tất yếu
của đế quốc Mỹ, vạch rõ nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng hai miền, động viên quân đội và nhân dân cả nưóc giữ vững chiến
lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bè bạn quốc tế, tiến lên đánh thắng
hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.

You might also like