1. Giá trị lịch sử: Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự kiện lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển và xây dựng nền văn minh chính trị của nước ta. Sau đây là những giá trị lịch sử quan trọng mà Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại. Thứ nhất, giữ gìn và phát triển truyền thống cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập dựa trên nền tảng của truyền thống cách mạng và những nỗ lực đấu tranh của người Việt Nam trong cuộc chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ quyền. Đảng đã và đang giữ gìn và phát triển những giá trị cách mạng, đồng thời định hướng và lãnh đạo cho các hoạt động xã hội, kinh tế và chính trị của đất nước. Thứ hai, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với mục tiêu xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng đã định hình và thực hiện các chính sách và biện pháp nhằm đảm bảo sự công bằng, chính trực và phát triển bền vững của xã hội, bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các tầng lớp lao động. Thứ ba, lãnh đạo trong cuộc kháng chiến chống thực dân và giành độc lập tự do. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng vai trò lãnh đạo quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sau đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng đã tổ chức và lãnh đạo quần chúng tham gia vào cuộc chiến, đánh bại các thế lực xâm lược và giành được độc lập cho dân tộc Việt Nam. Thứ tư, xây dựng và phát triển nền kinh tế nước nhà. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các chính sách kinh tế nhằm phát triển quốc gia. Định hướng từ kháng chiến chống Mỹ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã triển khai chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và nâng cao đời sống của người dân. Thứ năm, bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia. Đảng đã đứng đầu trong việc bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam. Qua các cuộc đàm phán và đối thoại quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được những thành công quan trọng trong việc tôn vinh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, góp phần đưa Việt Nam trở thành một thành viên quan trọng trong cộng đồng quốc tế. Tóm lại, ý nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là mang lại sự lãnh đạo, định hướng và phấn đấu cho sự phát triển của nước ta. Đảng đã đóng góp quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển truyền thống cách mạng, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo trong cuộc kháng chiến giành độc lập, xây dựng và phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Nhờ vào những giá trị lịch sử này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam. 2. Giá trị thực tiễn: Tối ngày 05/01/1960, tại Thủ đô Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao, Bao nhiêu năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình. Đảng ta là đạo đức, là văn minh, Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no. Công ơn Đảng thật là to, Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng” Thật vậy, đã hơn 60 năm trôi qua, Đảng Cộng sản Việt Nam ta vẫn cứ như một pho lịch sử chiếu sáng rạng ngời, đưa đến những bước ngoặt mang tính cách mạng, làm thay đổi vận mệnh cả dân tộc, thay đổi thân phận của người dân và khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đó là những giá trị lịch sử không thể phai mờ, được thể hiện qua các nội dung sau: Thứ nhất, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bước ngoặt vĩ đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối của phong trào yêu nước Việt Nam. Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất với hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Song các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ. Ngày 05/06/1911 tại Bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ). Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Tất Thành. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18/06/1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tuy không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa. Cuối tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đi theo con đường của Lênin vĩ đại. Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam như: Truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vào khoảng giữa năm 1929 đến năm đầu năm 1930, nước Việt Nam ta có tới ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức dẫn đến không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Với tinh thần đó, trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản tại Việt Nam. Từ ngày 06/01 đến ngày 07/ 02/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã nhất trí, thống nhất các tổ chức Cộng sản Việt Nam thành lập một đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam: Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: Cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Từ lúc ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành người lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, từng bước đi lên, làm nên những điều kỳ tích, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Thứ hai, tổ chức vận động cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Kể từ khi được thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sát cánh cùng dân tộc, lãnh đạo thắng lợi Cao trào cách mạng 1930 - 1931 ở Nam Kỳ, lan rộng sang Trung Kỳ, Bắc Kỳ mà đỉnh cao là phong trào công nông ở Xô Viết Nghệ tĩnh; Cao trào dân chủ 1936 - 1939 (Phong trào Dân chủ Đông Dương) và Cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945, đỉnh cao là Cách mạng tháng 08/1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Thắng lợi Cách mạng tháng 08/1945 đã đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật đổ chế độ quân chủ hàng nghìn năm, lập nên Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. Thứ ba, tổ chức và lãnh đạo thắng lợi các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 02/09/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng ít lâu sau đó, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, nền độc lập của dân tộc chưa thực sự được bảo vệ vững chắc, cụ thể là: “3 giờ sáng chủ nhật 23/09/1945, trong khi thành phố Sài Gòn vắng ngắt vì lệnh thiết quân luật của quân đội Anh, một đội quân Pháp, trước là tù binh nay mới được quân đội Anh thả ra, ăn mặc cải trang, chia nhau đi lén lút hành động trong các phố. Trong lúc đó, quân đội Anh cố tình làm lơ. Nhưng quân dân ta đã sẵn sàng chuẩn bị nên nhận ngay được mưu mô đánh úp của chúng và lập tức đối phó. Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ, dân chúng Sài Gòn vùng dậy". Trước bối cảnh chính quyền còn non trẻ, Đảng Cộng sản Việt Nam phải đối phó với muôn vàn khó khăn, nước ta trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", vừa chống thù trong, giặc ngoài vừa phải chống giặc đói, giặc dốt: Sản xuất đình đốn, nạn đói hoành hành, gần 2 triệu người chết đói, hơn 90% dân số mù chữ, tài chính quốc gia trống rỗng, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa quân đội đồng minh đến miền Bắc nước ta, mang theo bọn Việt Nam Quốc dân Đảng tay sai, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Nhưng Đảng ta dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” và phát động cuộc vận động thi đua ái quốc. Lời kêu gọi của Người có tác dụng hiệu triệu, lôi cuốn, đã động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống anh hùng, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; là động lực thúc đẩy, nguồn cổ vũ động viên các thế hệ cán bộ, chiến sĩ công nhân viên Công an ra sức thi đua, không ngừng rèn luyện, học tập theo Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối “Vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam, với phương châm “Toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính” Đảng đã lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến từng bước thắng lợi, từ chiến dịch Thu Đông 1947, chiến dịch Biên giới 1950, đến chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Theo Hồ Chí Minh, với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”. Thắng lợi Điện biên Phủ giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi Điện Biên Phủ đã báo hiệu sự sụp đổ chế độ thực dân kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới. Sau chiến thắng Điện biên Phủ 1954, Mỹ thay thế Pháp ở lập nên chế độ thuộc địa kiểu mới Đông Dương. Nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chiến lược cách mạng khác nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ở miền Bắc Đảng đề ra và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc làm hậu phương cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Ở miền Nam, Đảng đề ra đường lối kháng chiến và lãnh đạo lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ: chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - giữa 1965), chiến lược “chiến tranh cục bộ” (giữa 1965 - 1968), chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) và kết thúc bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 lịch sử. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Đại thắng mùa xuân 1975 đã thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh dấu một bước ngoặt quyết định mở đường cho dân tộc Việt Nam tiến hẳn vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Thứ tư, tổ chức công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trên tinh thần độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế trong sáng. Sau năm 1975, đất nước có nhiều thuận lợi song cũng gặp muôn vàn khó khăn thách thức. Đảng đã lãnh đạo tìm tòi khảo nghiệm con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”. Sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ. Nhưng tình hình diễn biến phức tạp, có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua, những diễn biến quốc tế phức tạp tác động xấu đến tình hình nước ta. Trong hoàn cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nội dung chính gồm có: Về kinh tế, đổi mới nền kinh tế đất nước từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường, định hướng lên xã hội chủ nghĩa và chịu sự quản lý của Nhà nước; Về chính trị – xã hội, đẩy mạnh vai trò của cả 03 nhánh quyền lực: lập pháp, tư pháp và hành pháp; trong đó, vai trò của cơ quan lập pháp được chú trọng; hoạt động hành chính nhà nước được đơn giản hóa, cụ thể hóa, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, lấy nhân dân làm gốc, xây dựng nhà nước “của dân, do dân, vì dân”; Về văn hóa – giáo dục, gìn giữ, kế thừa văn hóa truyền thống dân tộc, hội nhập và tiếp cận nền văn hóa đa sắc màu của thế giới; cải cách giáo dục theo hướng chú trọng thực hành, tăng tính tự do, tự chủ và chú trọng vào người học. Có thể nói công cuộc đổi mới 1986 mang ý nghĩa to lớn, đưa dân tộc ta vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để đất nước ngày càng phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Tóm lại, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại giá trị to lớn cho quốc gia và nhân dân Việt Nam. Đảng đảm bảo sự lãnh đạo và tổ chức mạnh mẽ, đại diện cho quyền lợi của nhân dân và xây dựng xã hội công bằng và phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 27, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.