Professional Documents
Culture Documents
1. So sánh cương lĩnh chính trị (2 – 1930); luận cương chính trị (10 – 1930).
2. Chủ trương của Đảng giai đoạn 1939 – 1945
3. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn 1945
– 1946.
4. Chủ trương giải phóng miền Namm 1973 – 1975
5. Quá trình tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới đất nước giai đoạn 1976 –
1986
6. Mục tiêu, quan điểm của Đảng về CNH, HĐH trong thời kì đổi mới (1986 –
2018)
7. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra trong Văn kiện Đại hội 6
(12 – 1986)
8. Đặc trưng (mô hình) XH XHCN trong Văn kiện ĐH 7 (6 – 1991) và ĐH 11
(1- 2011).
2.Cương lĩnh chính trị (2 – 1930) và luận cương chính trị (10 - 1930).
Từ ngày 6/1/1930 đến 7/2/1930 tại Hongkong – TQ bác chủ trì hội nghị hợp
nhất 3 tổ chức cộng sản và viết bản Cương lĩnh chính trị.
2.2.Nội dung của cương lĩnh chính trị
Về phương hướng chiến lược của Cách mạng Việt Nam: Chánh cương vắn tắt
của Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản - làm cách mạng giải phóng
dân tộc; thực hiện người cày có ruộng và các quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa … cho các tầng lớp nhân dân.
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức
quân đội công nông.
Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn như (công
nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý. Đã phản ánh đúng tình hình kinh tế giai cấp của xã hội
Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến và yêu cầu cần phải tập hợp lực lượng.
Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền…; phổ
thông giáo dục theo công nông hóa.
Song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc giành độc lập
dân tộc)
Về lực lượng cách mạng: Sách lược vắn tắt của Đảng xác định: Đảng phải thu
phục cho được đại bộ phân dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến.
Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông, Thanh niên,
Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dúng ít
lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải
đánh đổ. Cương lĩnh chỉ rõ giai cấp công nhân và nông dân là động lực chính.
Về phương pháp cách mạng: Tiến hành bằng bạo lực của quần chúng; dựng ra
Chính phủ do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Về quan hệ quốc tế: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo theo con đường các mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử.
2.3.Hoàn cảnh lịch sử của Hội nghị :
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời với đường lối cách mạng
đúng đắn, đã lãnh đạo quần chúng dấy lên phong trào cách mạng rộng
lớn chưa từng có trước đó.
Hội nghị đã quyết định các vấn đề quan trọng của cmvn trong đó có
thông qua luận cương chính trị
2.4.Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị
Về phương hướng chiến lược của cách mạng: lúc đầu là một cuộc “ cách mạng
tư sản dân quyền”,”có tính chất thổ địa và phản đế”. Tiếp tục phát triển, bỏ qua thời
kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực
hành cách mạng ruộng đất triêt để. Luận cương nhấn mạnh : “Vấn đề thổ địa là cái
cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân
cày.
Về lực lượng cách mạng: xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực
lượng chính của cách mạng tư sản dân quyền
Về phương pháp cách mạng: Phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con
đường “võ trang bạo động”
Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương nhấn mạnh: “Điều cốt yếu cho sự
thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần có một Đảng Cộng sản có một
đường lối chính trị đúng, có kỳ tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng. Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại
biểu quyền lợi nhánh và lâu dài.
Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, đồng chí Trần Phú
được giao giữ chức Tổng Bí thư.
Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản.
Ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Sự kiện lịch sử đó đã
làm thay đổi chính sách của thực dân Pháp.
Ở Đông Dương, thực dân Pháp xóa bỏ những thành quả mà nhân dân ta giành
được trong thời kỳ 1936-1939; tấn công Đảng Cộng sản Đông Dương và các tổ
chức quần chúng do Đảng lãnh đạo.
3.2.Nội dung cơ bản của các Hội nghị:
Hội nghị diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia
Định. Hội nghị đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên trên hết; Hội
nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc;
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương thay thế cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Hội nghĩ diễn ra từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc
Ninh. Hội nghị khẳng định sự đúng đắn về chủ trương của Đảng đề ra tại Hội nghị
Trung ương lần thứ sáu và tiếp tục bổ sung, phát triển.
Hội nghị chỉ rõ tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản
dân quyền với hai tính chất phản đế và thổ địa. Song tập trung cho nhiệm vụ chống
đế quốc, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra thực hiện từng bước.
Hội nghị đã quyết định hai vấn đề quan trọng: duy trì lực lượng vũ trang Bắc
Sơn và hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
3.2.3.Hội nghị lần thứ tám:
Diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Hội nghị đã
hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng.
Hội nghị quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước Đông
Dương, sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập Chính quyền Việt Nam dân chủ
cộng hòa; quyết định xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng
Chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh ( gọi tắt là Mặt trận Việt
Minh )
Hội nghị dự kiến thời cơ thuận lợi để tổng khởi nghĩa và hình thức của khởi
nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
3.3.Nội dung Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của
Đảng ngày 12-3-1945.
Từ cuối năm 1944 đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào
giai đoạn kết thúc.
Ở mặt trận Thai Bình Dương, phát xít nhật lâm vào tình trạng nguy khốn.
Trước tình hình đó, đêm ngày 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
triệu tập Hội nghị mở rộng ở làng Đình Bảng, Từ Sơn ( Bắc Ninh).
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Pháp-Nhật bắn
nhau và hành động của chúng ta”.
3.3.2.Nội dung cơ bản của Chỉ thị:
Chỉ thị khẳng định, cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi
nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy nhiên, hiên đang có những cơ hội tốt làm cho
những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
Về xác định kẻ thù, Chỉ thị xác định sau đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù
chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Vì vậy phải
thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít
Nhật”
Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức
và đấu tranh phải thay đổi cho phù hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa nhằm động viên
mau chóng quần chúng lên trận địa cách mạng, tập dượt quần chúng tiến lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền.
Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du
kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Đóng vai trò chủ động.
Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lời để thực hiện tổng khởi nghĩa như
Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám chắc, tiến sâu trên đất ta và
quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở.
Chỉ thị Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng đã thể hiện sự nhạy bén, chủ động, sáng tạo trong nghệ thuật lãnh
đạo. Những quyết định trong chỉ thị là sự chỉ đường cho toàn Đảng, toàn dân tiến
hành khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa trên cả nước
giành thắng lợi.
3.4.Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm
1945 của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Vào năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ở
châu Á, tháng 8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão, đánh bại hơn một
triệu quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật tại Mãn Châu. Chính phủ Nhật đầu hàng
Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện ngày 15-8-1945. Chính phủ Trần
Trọng Kim hoang mang cực độ.
Trước sự diễn biến nhanh chóng của tình hình, từ ngày 13 đến ngày 15-8-
1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc
của Đảng tại Tân Trào, Tuyên Quang.
Hội nghị nhận định: “cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới” và
quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Hội nghị nêu ra ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là: tập trung, thống nhất và
kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông
thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ
chúng hàng trước khi đánh.
Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối
ngoại.
Hội nghị quyết định cử Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh phụ
trách và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương.
Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Đại hội nhiệt liệt tán
thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua mười chính sách lớn của
Mặt trận Việt Minh
4.Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn
1945 – 1946.
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín của Liên Xô và ảnh
hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lan rộng trên thế giới (xã hội chủ nghĩa đã
trở thành hệ thống). Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có điều
kiện phát triển mạnh, trở thành một dòng thác cách mạng.
Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ
trung ương tới cơ sở, trực tiếp tổ chức và điều hành sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc. Đảng Cộng sản Đông Dương chuyển từ hoạt động bí mật ra hoạt động công
khai và trở thành đảng cầm quyền. Nhân dân lao động từ thân phận nô lệ dã trở
thành người làm chủ đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn
dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
do HCM là Chủ Tịch
4.1.2.Khó khăn:
Nạn thù trong, giặc ngoài: cuối tháng 8-1945, từ vĩ tuyến 16 trở ra ngoài Bắc,
với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội Tưởng Giới
Thạch đã kéo vào nước ta. Ngoài ra, theo chân quân đội Tưởng còn có các thế lực
phản động người Việt lưu vong ở Trung Quốc.
Đầu tháng 9-1945, từ vĩ tuyến 16 trở vào trong miền Nam, cũng với danh
nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật, hơn một vạn quân Anh đã kéo vào
nước ta và dọn đường cho thực dân Pháp xâm lược trở lại Đông Dương.
Sau Cách mạng Tháng Tám, các thế lực chính trị phản động trong nước nổi
lên chống phá cách mạng rất quyết liệt.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng
kiệt quệ do hậu quả của chính sách vơ vét, bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật,
bị chiến tranh, thiên tai tàn phá.
Hậu quả của chế độ thực dân là để lại về mặt xã hội cũng rất nặng nề: trình độ
văn hóa nhân dân thấp kém ( hơn 90% dân số không biết chữ), các tệ nạn xã hội cũ
như rượu, cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan… trầm trọng và phổ biến. Hoạt động
đối ngoại của ta có những khó khăn, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được quốc
gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Cùng một lúc cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều kẻ thù, thế lực đảng
phái chính trị phản động, đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
4.2.Nội dung cơ bản và ý nghiã của Chỉ Thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-
11-1945 của Trung Ương Đảng
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã kịp thời đề ra con đường cho cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới.
Nội dung cơ bản của Chỉ thị:
Về tính chất : Trung ương Đảng xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông
Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
Về xác định kẻ thù: Nêu rõ “kẻ thù chính của ta là lúc này là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Mặt trận dân tộc thống
nhất chống thực dân Pháp xâm lựợc;
Về nhiệm vụ chủ yếu: Chỉ thị nêu 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách là :” củng
cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống
nhân dân”. Để thực hiện các nhiệm vụ trên, trung ương đề ra các công tác cụ thể.
Về nội chính: xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập
Hiến Pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và
lãnh đạo các cuộc kháng chiến lâu dài.
Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, thực hiện khẩu hiệu
“Hoa-Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và chủ trương “độc lập
về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với thực dân Pháp.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Kẻ thù chính của
dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược; Giải quyết những vấn đề quan trọng
về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng, nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới
của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là xây dưng đất nước đi đôi
với bảo vệ đất nước; đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã góp phần làm nên những thắng lợi.
4.3.Phân tích kết quả, ý nghĩa và kinh nghiệm của quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng những năm 1945-1946.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: nhiệm vụ trung tâm là củng cố chính
quyền nhân dân. Đảng đã chú trọng lãnh đạo, xây dựng nền móng của chế độ dân
chủ mới, xóa bỏ toàn bộ tổ chức bộ máy chính quyền thuộc địa.
Đảng kiên quyết lãnh đạo, tổ chức cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 để nhân
dân tự mình chọn lựa bầu lại những đại biểu chân chính của mình vào Quốc hội, cơ
quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại kỳ họp thứ hai
(11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến Pháp của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Đảng và Chính phủ cũng coi trọng việc xây dựng và phát triển công cụ bảo vệ
chính quyền cách mạng như quân đội, công an.
Về xây dựng phát triển kinh tế - văn hóa : Đảng và Chính phủ phát động thi
đua sản xuất; động viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực hiện bãi
bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc.
Đảng và Chính phủ đã động viên nhân dân tự nguyện đóng góp cho công quỹ hành
chục triệu đồng và hàng trăm kiogam vàng.
Đảng và Chính phủ đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới. Một
năm sau Cách mạng Tháng Tám đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về tổ chức kháng chiến ở miền Nam: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn và mở rộng tiến công ra các tỉnh Nam Bộ, Thường vụ Trung ương
Đảng đã nhất trí với quyết tâm kháng chiến của Xứ úy Nam Bộ và kịp thời lãnh đạo
nhân dân đứng lên kháng chiến.
Đảng và Chính phủ đã phát động phong trào cả nước hướng về Nam Bộ. Hàng
vạn thanh niên nô nức lên đường Nam tiến.
Về ngoại giao: Đảng và Chính phủ đã thực hiện sách lược ngoại giao nhân
nhượng có nguyên tắc với từng kẻ thù và lợi dụng thời gian hòa hoãn để củng cố và
phát triển lực lượng. Mượn tay Pháp đẩy nhanh quân Tưởng về nước, kéo dài thời
gian hòa hoãn.
Lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân, vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), Đảng ta và Chính phủ đã đưa
đất nước vượt qua những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát huy thành quả
Cách mạng Tháng Tám.
Sau khi kí hiệp định Pari 1973 thì Mỹ và VNCH đã ngang nhiên phá hoại hiệp
định, liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Trong
vùng chúng kiểm soát, cũng liên tiếp diễn ra các cuộc hành quân càn quét và bình
định nhằm khủng bố đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ.
Trước tình hình đó, tháng 7/1973 Hội nghị lần thứ 21 BCHTWĐ đã nêu rõ con
đường cách mạng của nhân dân miền Nam là con đường bạo lực cách mạng và
nhấm mạnh: "bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững
đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ giành dân, giành quyền làm chủ, phát
triển lực lượng là yêu cầu vừa cấp thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới. => thực
hiện chỉ thị ở miền Nam quân dân ta đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi to lớn
và đặc biệt là chiến thắng Phước Long.
Hội nghị BCH họp đợt 1 và đợt 2 đã bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn
miền Nam thì đã đưa ra nhận định rằng: chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về
quân sự, chính trị, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến tới hòa bình thống nhất.
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam
thay đổi có lợi cho cách mạng. Vì khi ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long thì
CQ VNCH không có phản ứng gì. Đồng thời, CQ Mỹ cũng từ chối viện trợ tiếp tục
cho CQSG. Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975 - 1976.
Nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”, để bớt thiệt hại về
người và của.
5.1.1.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã diễn ra trong gần hai tháng (từ
ngày 4-3 đến ngày 2-5) qua ba chiến dịch lớn: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và
Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn.
Ngày 2/5/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng (Châu Đốc là tỉnh cuối cùng
được giải phóng).
6.Quá trình tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới đất nước giai đoạn
1976 – 1986.
6.1.Đại hội đại biểu toàn quốc lần 6 của Đảng và quá trình xây dựng CNXH và
bảo vệ tổ quốc 1976 – 1981.
Đại hội đã thông qua báo cáo chinh trị, báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ
và mục tiêu kế hoạch 5 năm 1976-1980. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng,
đổi tên ĐLĐVN thành ĐCSVN và sửa đổi điều lệ Đảng,…
Đại hội tổng kết công cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Đã nêu ra 3 đặc điểm của CMVN: "một là, nước ta đang ở trong quá trình từ
một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, bỏ
qua TBCN. Hai là, tổ quốc ta độc lập, hòa bình, thống nhất, cả nước tiến lên CNXH
với nhiều thuận lợi song cũng có nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn
dư chủ nghĩa thực dân. Ba là, CMXHCN ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc
tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa thế lực cách mạng và thế lực
phản cách mạng trên thế giới còn gay go quyết liệt.
Xác định đường lối chung của CMXHCN trong giai đoạn mới là: nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng: CM về quan hệ sản xuất, cách mạng KH – KT,
cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách KH – KT là then chốt; đẩy mạnh
CNH HĐH là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,….
Xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là" đẩy mạnh
CNH XHCN bằng ưu tiên phát triển CÔNG NGHIỆP NẶNG một cách hợp lý trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công –
nông nghiệp; kết hợp kinh tế TW với KT địa phương, kết hợp phát triển LLSX; tăng
cường quan hệ hợp tác với các nước XHCN anh em và cũng phát triển quan hệ với
các quốc gia khác.
Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế văn hóa 76 – 80: 2
mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để
xây dựng CS VC – KT của CNXH; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng; nâng cao vai trò
của Đảng, đoàn thể; tăng sức mạnh quân đội, công an,…
Đây là đại hội toàn thắng
6.1.1.Hạn chế
- Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng và làm hậu phương của miền
Bắc => trong điều kiện đó phải áp dụng mô hình bao cấp để đáp ứng yêu
cầu đánh giặt, chưa phát hiện được những khuyết tật của mô hình CNXH
sau chiến tranh.
- Dự kiến quá trình hoàn thành từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là 20 năm
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu
kinh tế NN và CN vượt quá khả năng thực tế.
6.1.2.Những đột phá đầu tiên về mặt kinh tế
Hội nghị trung ương 6 (8 – 1979): làm cho sản xuất được bung ra và xóa bỏ
những trạm kiểm soát để người SX có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi buôn
bán ngoài thị trường
Chỉ thị số 100 – CT/TW (1/1981) về khoán sản phẩm đến các thành viên
trong HTX nông nghiệp.
Quyết định số 25 – CP (1/1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh vầ
quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc dân.
Quyết định số 26 – CP (1/ 1981) về việc mở rộng hình thức trả lương khoán,
lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh
doanh của nhà nước.
6.2.Đại hội đại biểu lần thứ 5 của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới
kinh tế 1982 – 1986.
Đại hội V được họp vào những ngày cuối tháng 3 – 1982 trong bối cảnh có
nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều khó khăn, thách thức mới.
Nội dung của hội nghị:
Nhận định tình hình rằng nước ta đang ở thời kì đầu của thời kì quá độ lên
CNXH với nhiều khó khăn trên mọi mặt. Nhiệm vụ ban đầu trong những năm 80 là
ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây
dựng cơ sở VC – KT của CNXH, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và
xuất khẩu; đáp ứng nhu cầu của QG, giữ vững an ninh, trật tự xh.
Cách mạng VN có 2 nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công CNXH và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật
thiết với nhau. "Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
CNXH".
Đường lối trong công cuộc xây dựng CNXH là: tập trung sức phát triển mạnh
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến
lên sản xuất lớn; ra sức phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và cuối cùng
là phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, hạn chế nhằm phục vụ cho công
nghiệp nhẹ và nông nghiệp.
6.2.1.Ưu điểm
- Bước phát triển mới trong quá trình phát triển mà đặc biệt là phát triển kinh
tế.
- Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn
6.2.2.Khuyết điểm
- Khâu tổ chức thực hiện không có được những sửa chữa đúng mức và cần
thiết.
- Chưa thấy được sự cần thiết của duy trì nền kinh tế nhiều thành phần
- Chưa xác định được những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về
công tác quản lý lưu thông, phân phối
- Không dứt khoát dành thêm vốn và vật chất cho phát triển nông nghiệp và
công nghiệp hàng tiêu dùng.
6.3.Các bước đột phát tiếp tục đổi mới kinh tế
Hội nghị Trung ương 6 (7 – 1984) gồm nội dung đẩy mạnh thu mua nắm
nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do. Đồng thời, thực hiện điều chỉnh giá
cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
Hội nghị TW 7 (12 – 1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt
trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực,
thực phẩm.
HNTW 8 (6 – 1985) được coi là bước đột phá thức hai trong quá trình tìm tòi,
đổi mới kinh tế của Đảng. Tại đây, chủ trưởng là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu
hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hạch
toán, kinh doanh XHCN
Hội nghị Bộ Chính trị khóa 5 (8 – 1986) đưa ra kết luận về một số vấn đề
thuộc về quan điểm kinh tế. Đây là bước đột phá thứ 3 về đổi mới kinh tế, đồng thời
cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. nội dung
đổi mới có tinh đột phá là:
Về cơ cấu sản xuất, tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và
cơ cấu đầu tư theo hướng lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phát triển CN nhẹ.
Phát triển CN nặng chỉ thực hiện ở mức vừa và nhỏ. Tập trung nguồn lực phát triển
ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết
yếu và hàng xuất khẩu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước
ta là một nền kinh tế có cơ cấu kt nhiều thành phần. Phải biết xác định, lựa chọn
hình thức, bước đi sao cho phù hợp với thực tiễn.
Về cơ cấu quản lý kinh tế, theo nguyên tắc là phát huy vai trò chủ đạo của các
quy luật KT XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa
– tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ; phân biệt chức năng hành
chính và chức năng quản lý sản xuất của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp
bảo đảm các quyền tập trung thống nhất.
7.Đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra trong Văn kiện Đại
hội 6 (12 – 1986).
Đại hội 6 của Đảng diễn ra tại HN từ ngày 15 – 18/12/1986, trong bối cảnh cả
trong nước và ngoài nước đều có nhiều thứ gây khó khăn cho công cuộc xây dựng
đất nước của ta. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước. Bao
gồm:
Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, nghiêm túc kiểm
điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong giai đoạn 75 – 86.
Đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hành chính
chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
7.1.Bài học
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, tập trung vào nông nghiệp và đặc biệt là chương trình
lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư
- Nhiều thành phần kinh tế
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
- Mở rộng kinh tế đối ngoại
7.2.1.Đổi mới kinh tế
Lần đầu tiên Việt Nam sử dụng khái niệm hệ thống chính trị tại HNTW 6 3 – 1989
7.2.3.Đối ngoại và quốc phòng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được
tiến hành trong bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến phức tạp:
8.1.1.Tình hình thế giới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành
trong bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến phức tạp:
Sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
Sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng
Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ
chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những
người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
8.1.2.Tình hình trong nước
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các thế lực thù
địch ở cả trong và ngoài nước.
Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, đất nước vẫn trong
tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
Công cuộc đổi mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã
đạt được những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục
phát triển.
8.2.Đặc trưng XH XHCN tại đại hội 7 năm 1991
9.Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng thời kỳ
đổi mới
Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng. Tạo nền tảng để đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
9.2.Quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật. Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút
ngắn về thời gian và lộ trình. Gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường;
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới; thời kỳ đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nên kinh tế, mà còn
sử dụng chúng có chiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, nên tất yếu phải hội nhập
và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Ba là, phát huy nguồn lực con người làm yếu tô cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Con người là yếu tốt quyết định. Chú ý đến phát triển giáo dục và đào tạo. Đại
hội XI chỉ rõ : “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, là một đột phá chiến lược, là yếu tốt quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm
lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và
công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu
đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả bền vững.