You are on page 1of 26

1.

Nội dung ôn tập

1. So sánh cương lĩnh chính trị (2 – 1930); luận cương chính trị (10 – 1930).
2. Chủ trương của Đảng giai đoạn 1939 – 1945
3. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn 1945
– 1946.
4. Chủ trương giải phóng miền Namm 1973 – 1975
5. Quá trình tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới đất nước giai đoạn 1976 –
1986
6. Mục tiêu, quan điểm của Đảng về CNH, HĐH trong thời kì đổi mới (1986 –
2018)
7. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra trong Văn kiện Đại hội 6
(12 – 1986)
8. Đặc trưng (mô hình) XH XHCN trong Văn kiện ĐH 7 (6 – 1991) và ĐH 11
(1- 2011).
2.Cương lĩnh chính trị (2 – 1930) và luận cương chính trị (10 - 1930).

2.1.Hoàn cảnh lịch sử ra đời Cương lĩnh chính trị 2/1930

Từ ngày 6/1/1930 đến 7/2/1930 tại Hongkong – TQ bác chủ trì hội nghị hợp
nhất 3 tổ chức cộng sản và viết bản Cương lĩnh chính trị.
2.2.Nội dung của cương lĩnh chính trị

Về phương hướng chiến lược của Cách mạng Việt Nam: Chánh cương vắn tắt
của Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản - làm cách mạng giải phóng
dân tộc; thực hiện người cày có ruộng và các quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa … cho các tầng lớp nhân dân.
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức
quân đội công nông.
Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn như (công
nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý. Đã phản ánh đúng tình hình kinh tế giai cấp của xã hội
Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến và yêu cầu cần phải tập hợp lực lượng.
Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền…; phổ
thông giáo dục theo công nông hóa.
Song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc giành độc lập
dân tộc)
Về lực lượng cách mạng: Sách lược vắn tắt của Đảng xác định: Đảng phải thu
phục cho được đại bộ phân dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến.
Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông, Thanh niên,
Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dúng ít
lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải
đánh đổ. Cương lĩnh chỉ rõ giai cấp công nhân và nông dân là động lực chính.
Về phương pháp cách mạng: Tiến hành bằng bạo lực của quần chúng; dựng ra
Chính phủ do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Về quan hệ quốc tế: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo theo con đường các mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử.
2.3.Hoàn cảnh lịch sử của Hội nghị :

Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời với đường lối cách mạng
đúng đắn, đã lãnh  đạo quần chúng dấy lên phong trào cách mạng rộng
lớn chưa từng có trước đó.
Hội nghị đã quyết định các vấn đề quan trọng của cmvn trong đó có
thông qua luận cương chính trị
2.4.Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị

Về phương hướng chiến lược của cách mạng: lúc đầu là một cuộc “ cách mạng
tư sản dân quyền”,”có tính chất thổ địa và phản đế”. Tiếp tục phát triển, bỏ qua thời
kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực
hành cách mạng ruộng đất triêt để. Luận cương nhấn mạnh : “Vấn đề thổ địa là cái
cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân
cày.
Về lực lượng cách mạng: xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực
lượng chính của cách mạng tư sản dân quyền
Về phương pháp cách mạng: Phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con
đường “võ trang bạo động”
Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương nhấn mạnh: “Điều cốt yếu cho sự
thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần có một Đảng Cộng sản có một
đường lối chính trị đúng, có kỳ tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng. Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại
biểu quyền lợi nhánh và lâu dài.
Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, đồng chí Trần Phú
được giao giữ chức Tổng Bí thư.
Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản.

3.Chủ trương của Đảng giai đoạn 1939 – 1945.

3.1.1.Hoàn cảnh lịch sử:

Ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Sự kiện lịch sử đó đã
làm thay đổi chính sách của thực dân Pháp.
Ở Đông Dương, thực dân Pháp xóa bỏ những thành quả mà nhân dân ta giành
được trong thời kỳ 1936-1939; tấn công Đảng Cộng sản Đông Dương và các tổ
chức quần chúng do Đảng lãnh đạo.
3.2.Nội dung cơ bản của các Hội nghị:

3.2.1.Hội nghị lần thứ sáu:

Hội nghị diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia
Định. Hội nghị đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên trên hết; Hội
nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc;
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương thay thế cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.

3.2.2.Hội nghị lần thứ bảy:

Hội nghĩ diễn ra từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc
Ninh. Hội nghị khẳng định sự đúng đắn về chủ trương của Đảng đề ra tại Hội nghị
Trung ương lần thứ sáu và tiếp tục bổ sung, phát triển.
Hội nghị chỉ rõ tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản
dân quyền với hai tính chất phản đế và thổ địa. Song tập trung cho nhiệm vụ chống
đế quốc, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra thực hiện từng bước.
Hội nghị đã quyết định hai vấn đề quan trọng: duy trì lực lượng vũ trang Bắc
Sơn và hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
3.2.3.Hội nghị lần thứ tám:

Diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Hội nghị đã
hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng.
Hội nghị quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước Đông
Dương, sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập Chính quyền Việt Nam dân chủ
cộng hòa; quyết định xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng
Chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh ( gọi tắt là Mặt trận Việt
Minh )
Hội nghị dự kiến thời cơ thuận lợi để tổng khởi nghĩa và hình thức của khởi
nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
3.3.Nội dung Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của
Đảng ngày 12-3-1945.

3.3.1.Hoàn cảnh lịch sử.

Từ cuối năm 1944 đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào
giai đoạn kết thúc.
Ở mặt trận Thai Bình Dương, phát xít nhật lâm vào tình trạng nguy khốn.
Trước tình hình đó, đêm ngày 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
triệu tập Hội nghị mở rộng ở làng Đình Bảng, Từ Sơn ( Bắc Ninh).
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Pháp-Nhật bắn
nhau và hành động của chúng ta”.
3.3.2.Nội dung cơ bản của Chỉ thị:

Chỉ thị khẳng định, cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi
nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy nhiên, hiên đang có những cơ hội tốt làm cho
những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
Về xác định kẻ thù, Chỉ thị xác định sau đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù
chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Vì vậy phải
thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít
Nhật”
Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức
và đấu tranh phải thay đổi cho phù hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa nhằm động viên
mau chóng quần chúng lên trận địa cách mạng, tập dượt quần chúng tiến lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền.
Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du
kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Đóng vai trò chủ động.
Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lời để thực hiện tổng khởi nghĩa như
Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám chắc, tiến sâu trên đất ta và
quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở.
Chỉ thị Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng đã thể hiện sự nhạy bén, chủ động, sáng tạo trong nghệ thuật lãnh
đạo. Những quyết định trong chỉ thị là sự chỉ đường cho toàn Đảng, toàn dân tiến
hành khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa trên cả nước
giành thắng lợi.
3.4.Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm
1945 của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Vào năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ở
châu Á, tháng 8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão, đánh bại hơn một
triệu quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật tại Mãn Châu. Chính phủ Nhật đầu hàng
Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện ngày 15-8-1945. Chính phủ Trần
Trọng Kim hoang mang cực độ.
Trước sự diễn biến nhanh chóng của tình hình, từ ngày 13 đến ngày 15-8-
1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc
của Đảng tại Tân Trào, Tuyên Quang.
Hội nghị nhận định: “cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới” và
quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Hội nghị nêu ra ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là: tập trung, thống nhất và
kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông
thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ
chúng hàng trước khi đánh.
Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối
ngoại.
Hội nghị quyết định cử Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh phụ
trách và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương.
Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Đại hội nhiệt liệt tán
thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua mười chính sách lớn của
Mặt trận Việt Minh

4.Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn
1945 – 1946.

4.1.Thuận lợi và khó khăn

4.1.1.Thuận lợi cơ bản:

Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín của Liên Xô và ảnh
hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lan rộng trên thế giới (xã hội chủ nghĩa đã
trở thành hệ thống). Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có điều
kiện phát triển mạnh, trở thành một dòng thác cách mạng.
Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ
trung ương tới cơ sở, trực tiếp tổ chức và điều hành sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc. Đảng Cộng sản Đông Dương chuyển từ hoạt động bí mật ra hoạt động công
khai và trở thành đảng cầm quyền. Nhân dân lao động từ thân phận nô lệ dã trở
thành người làm chủ đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn
dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
do HCM là Chủ Tịch
4.1.2.Khó khăn:

Nạn thù trong, giặc ngoài: cuối tháng 8-1945, từ vĩ tuyến 16 trở ra ngoài Bắc,
với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội Tưởng Giới
Thạch đã kéo vào nước ta. Ngoài ra, theo chân quân đội Tưởng còn có các thế lực
phản động người Việt lưu vong ở Trung Quốc.
Đầu tháng 9-1945, từ vĩ tuyến 16 trở vào trong miền Nam, cũng với danh
nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật, hơn một vạn quân Anh đã kéo vào
nước ta và dọn đường cho thực dân Pháp xâm lược trở lại Đông Dương.
Sau Cách mạng Tháng Tám, các thế lực chính trị phản động trong nước nổi
lên chống phá cách mạng rất quyết liệt.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng
kiệt quệ do hậu quả của chính sách vơ vét, bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật,
bị chiến tranh, thiên tai tàn phá.
Hậu quả của chế độ thực dân là để lại về mặt xã hội cũng rất nặng nề: trình độ
văn hóa nhân dân thấp kém ( hơn 90% dân số không biết chữ), các tệ nạn xã hội cũ
như rượu, cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan… trầm trọng và phổ biến. Hoạt động
đối ngoại của ta có những khó khăn, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được quốc
gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Cùng một lúc cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều kẻ thù, thế lực đảng
phái chính trị phản động, đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
4.2.Nội dung cơ bản và ý nghiã của Chỉ Thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-
11-1945 của Trung Ương Đảng

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã kịp thời đề ra con đường cho cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới.
Nội dung cơ bản của Chỉ thị:
Về tính chất : Trung ương Đảng xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông
Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
Về xác định kẻ thù: Nêu rõ “kẻ thù chính của ta là lúc này là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Mặt trận dân tộc thống
nhất chống thực dân Pháp xâm lựợc;
Về nhiệm vụ chủ yếu: Chỉ thị nêu 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách là :” củng
cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống
nhân dân”. Để thực hiện các nhiệm vụ trên, trung ương đề ra các công tác cụ thể.
Về nội chính: xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập
Hiến Pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và
lãnh đạo các cuộc kháng chiến lâu dài.
Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, thực hiện khẩu hiệu
“Hoa-Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và chủ trương “độc lập
về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với thực dân Pháp.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Kẻ thù chính của
dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược; Giải quyết những vấn đề quan trọng
về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng, nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới
của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là xây dưng đất nước đi đôi
với bảo vệ đất nước; đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã góp phần làm nên những thắng lợi.
4.3.Phân tích kết quả, ý nghĩa và kinh nghiệm của quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng những năm 1945-1946.

Về bảo vệ chính quyền cách mạng: nhiệm vụ trung tâm là củng cố chính
quyền nhân dân. Đảng đã chú trọng lãnh đạo, xây dựng nền móng của chế độ dân
chủ mới, xóa bỏ toàn bộ tổ chức bộ máy chính quyền thuộc địa.
Đảng kiên quyết lãnh đạo, tổ chức cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 để nhân
dân tự mình chọn lựa bầu lại những đại biểu chân chính của mình vào Quốc hội, cơ
quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại kỳ họp thứ hai
(11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến Pháp của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Đảng và Chính phủ cũng coi trọng việc xây dựng và phát triển công cụ bảo vệ
chính quyền cách mạng như quân đội, công an.
Về xây dựng phát triển kinh tế - văn hóa : Đảng và Chính phủ phát động thi
đua sản xuất; động viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực hiện bãi
bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc.
Đảng và Chính phủ đã động viên nhân dân tự nguyện đóng góp cho công quỹ hành
chục triệu đồng và hàng trăm kiogam vàng.
Đảng và Chính phủ đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới. Một
năm sau Cách mạng Tháng Tám đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về tổ chức kháng chiến ở miền Nam: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn và mở rộng tiến công ra các tỉnh Nam Bộ, Thường vụ Trung ương
Đảng đã nhất trí với quyết tâm kháng chiến của Xứ úy Nam Bộ và kịp thời lãnh đạo
nhân dân đứng lên kháng chiến.
Đảng và Chính phủ đã phát động phong trào cả nước hướng về Nam Bộ. Hàng
vạn thanh niên nô nức lên đường Nam tiến.
Về ngoại giao: Đảng và Chính phủ đã thực hiện sách lược ngoại giao nhân
nhượng có nguyên tắc với từng kẻ thù và lợi dụng thời gian hòa hoãn để củng cố và
phát triển lực lượng. Mượn tay Pháp đẩy nhanh quân Tưởng về nước, kéo dài thời
gian hòa hoãn.
Lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân, vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), Đảng ta và Chính phủ đã đưa
đất nước vượt qua những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát huy thành quả
Cách mạng Tháng Tám.

5.Chủ trương giải phóng miền Nam 1973 – 1975

Sau khi kí hiệp định Pari 1973 thì Mỹ và VNCH đã ngang nhiên phá hoại hiệp
định, liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Trong
vùng chúng kiểm soát, cũng liên tiếp diễn ra các cuộc hành quân càn quét và bình
định nhằm khủng bố đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ.
Trước tình hình đó, tháng 7/1973 Hội nghị lần thứ 21 BCHTWĐ đã nêu rõ con
đường cách mạng của nhân dân miền Nam là con đường bạo lực cách mạng và
nhấm mạnh: "bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững
đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ giành dân, giành quyền làm chủ, phát
triển lực lượng là yêu cầu vừa cấp thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới. => thực
hiện chỉ thị ở miền Nam quân dân ta đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi to lớn
và đặc biệt là chiến thắng Phước Long.
Hội nghị BCH họp đợt 1 và đợt 2 đã bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn
miền Nam thì đã đưa ra nhận định rằng: chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về
quân sự, chính trị, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến tới hòa bình thống nhất.
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam
thay đổi có lợi cho cách mạng. Vì khi ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long thì
CQ VNCH không có phản ứng gì. Đồng thời, CQ Mỹ cũng từ chối viện trợ tiếp tục
cho CQSG. Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975 - 1976.
Nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”, để bớt thiệt hại về
người và của.
5.1.1.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã diễn ra trong gần hai tháng (từ
ngày 4-3 đến ngày 2-5) qua ba chiến dịch lớn: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và
Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn.
Ngày 2/5/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng (Châu Đốc là tỉnh cuối cùng
được giải phóng).

6.Quá trình tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới đất nước giai đoạn
1976 – 1986.

6.1.Đại hội đại biểu toàn quốc lần 6 của Đảng và quá trình xây dựng CNXH và
bảo vệ tổ quốc 1976 – 1981.

Đại hội đã thông qua báo cáo chinh trị, báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ
và mục tiêu kế hoạch 5 năm 1976-1980. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng,
đổi tên ĐLĐVN thành ĐCSVN và sửa đổi điều lệ Đảng,…
Đại hội tổng kết công cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Đã nêu ra 3 đặc điểm của CMVN: "một là, nước ta đang ở trong quá trình từ
một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, bỏ
qua TBCN. Hai là, tổ quốc ta độc lập, hòa bình, thống nhất, cả nước tiến lên CNXH
với nhiều thuận lợi song cũng có nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn
dư chủ nghĩa thực dân. Ba là, CMXHCN ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc
tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa thế lực cách mạng và thế lực
phản cách mạng trên thế giới còn gay go quyết liệt.
Xác định đường lối chung của CMXHCN trong giai đoạn mới là: nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng: CM về quan hệ sản xuất, cách mạng KH – KT,
cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách KH – KT là then chốt; đẩy mạnh
CNH HĐH là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,….
Xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là" đẩy mạnh
CNH XHCN bằng ưu tiên phát triển CÔNG NGHIỆP NẶNG một cách hợp lý trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công –
nông nghiệp; kết hợp kinh tế TW với KT địa phương, kết hợp phát triển LLSX; tăng
cường quan hệ hợp tác với các nước XHCN anh em và cũng phát triển quan hệ với
các quốc gia khác.
Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế văn hóa 76 – 80: 2
mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để
xây dựng CS VC – KT của CNXH; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng; nâng cao vai trò
của Đảng, đoàn thể; tăng sức mạnh quân đội, công an,…
 Đây là đại hội toàn thắng
6.1.1.Hạn chế

- Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng và làm hậu phương của miền
Bắc => trong điều kiện đó phải áp dụng mô hình bao cấp để đáp ứng yêu
cầu đánh giặt, chưa phát hiện được những khuyết tật của mô hình CNXH
sau chiến tranh.
- Dự kiến quá trình hoàn thành từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là 20 năm
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu
kinh tế NN và CN vượt quá khả năng thực tế.
6.1.2.Những đột phá đầu tiên về mặt kinh tế

Hội nghị trung ương 6 (8 – 1979): làm cho sản xuất được bung ra và xóa bỏ
những trạm kiểm soát để người SX có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi buôn
bán ngoài thị trường
Chỉ thị số 100 – CT/TW (1/1981) về khoán sản phẩm đến các thành viên
trong HTX nông nghiệp.
Quyết định số 25 – CP (1/1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh vầ
quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc dân.
Quyết định số 26 – CP (1/ 1981) về việc mở rộng hình thức trả lương khoán,
lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh
doanh của nhà nước.
6.2.Đại hội đại biểu lần thứ 5 của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới
kinh tế 1982 – 1986.

Đại hội V được họp vào những ngày cuối tháng 3 – 1982 trong bối cảnh có
nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều khó khăn, thách thức mới.
Nội dung của hội nghị:
Nhận định tình hình rằng nước ta đang ở thời kì đầu của thời kì quá độ lên
CNXH với nhiều khó khăn trên mọi mặt. Nhiệm vụ ban đầu trong những năm 80 là
ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây
dựng cơ sở VC – KT của CNXH, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và
xuất khẩu; đáp ứng nhu cầu của QG, giữ vững an ninh, trật tự xh.
Cách mạng VN có 2 nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công CNXH và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật
thiết với nhau. "Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
CNXH".
Đường lối trong công cuộc xây dựng CNXH là: tập trung sức phát triển mạnh
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến
lên sản xuất lớn; ra sức phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và cuối cùng
là phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, hạn chế nhằm phục vụ cho công
nghiệp nhẹ và nông nghiệp.
6.2.1.Ưu điểm

- Bước phát triển mới trong quá trình phát triển mà đặc biệt là phát triển kinh
tế.
- Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn
6.2.2.Khuyết điểm

- Khâu tổ chức thực hiện không có được những sửa chữa đúng mức và cần
thiết.
- Chưa thấy được sự cần thiết của duy trì nền kinh tế nhiều thành phần
- Chưa xác định được những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về
công tác quản lý lưu thông, phân phối
- Không dứt khoát dành thêm vốn và vật chất cho phát triển nông nghiệp và
công nghiệp hàng tiêu dùng.
6.3.Các bước đột phát tiếp tục đổi mới kinh tế

Hội nghị Trung ương 6 (7 – 1984) gồm nội dung đẩy mạnh thu mua nắm
nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do. Đồng thời, thực hiện điều chỉnh giá
cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
Hội nghị TW 7 (12 – 1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt
trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực,
thực phẩm.
HNTW 8 (6 – 1985) được coi là bước đột phá thức hai trong quá trình tìm tòi,
đổi mới kinh tế của Đảng. Tại đây, chủ trưởng là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu
hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hạch
toán, kinh doanh XHCN
Hội nghị Bộ Chính trị khóa 5 (8 – 1986) đưa ra kết luận về một số vấn đề
thuộc về quan điểm kinh tế. Đây là bước đột phá thứ 3 về đổi mới kinh tế, đồng thời
cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. nội dung
đổi mới có tinh đột phá là:
Về cơ cấu sản xuất, tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và
cơ cấu đầu tư theo hướng lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phát triển CN nhẹ.
Phát triển CN nặng chỉ thực hiện ở mức vừa và nhỏ. Tập trung nguồn lực phát triển
ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết
yếu và hàng xuất khẩu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước
ta là một nền kinh tế có cơ cấu kt nhiều thành phần. Phải biết xác định, lựa chọn
hình thức, bước đi sao cho phù hợp với thực tiễn.
Về cơ cấu quản lý kinh tế, theo nguyên tắc là phát huy vai trò chủ đạo của các
quy luật KT XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa
– tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ; phân biệt chức năng hành
chính và chức năng quản lý sản xuất của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp
bảo đảm các quyền tập trung thống nhất.
7.Đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra trong Văn kiện Đại
hội 6 (12 – 1986).

Đại hội 6 của Đảng diễn ra tại HN từ ngày 15 – 18/12/1986, trong bối cảnh cả
trong nước và ngoài nước đều có nhiều thứ gây khó khăn cho công cuộc xây dựng
đất nước của ta. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước. Bao
gồm:
Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, nghiêm túc kiểm
điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong giai đoạn 75 – 86.
Đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hành chính
chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
7.1.Bài học

- Phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc


- Hoạt động phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan
- Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời kì mới.
- Chăm lo cho Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
7.2.Phương hướng phát triển

- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, tập trung vào nông nghiệp và đặc biệt là chương trình
lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư
- Nhiều thành phần kinh tế
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
- Mở rộng kinh tế đối ngoại
7.2.1.Đổi mới kinh tế

- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987


- Nghị quyết 10 BCT 4/1988 về khoản phần cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã viên
- Công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế
- Xóa bỏ chế độ tem phiếu, bao cấp
7.2.2.Đổi mới chính trị

Lần đầu tiên Việt Nam sử dụng khái niệm hệ thống chính trị tại HNTW 6 3 – 1989
7.2.3.Đối ngoại và quốc phòng

- Rút quân khỏi Cam


- Chủ động bình thường hóa quan hệ với TQ để đi đến sự ổn định bình yên của cả
hai dân tộc
- Chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác đối với mọi quốc gia trên thế
giới trên nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi.

8.Đặc trưng (mô hình) XH XHCN trong Văn kiện ĐH 7 (6 – 1991) và ĐH


11 (1- 2011).

8.1.Hoàn cảnh lịch sử

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được
tiến hành trong bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến phức tạp:
8.1.1.Tình hình thế giới

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành
trong bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến phức tạp:
Sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
Sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng
Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ
chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những
người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
8.1.2.Tình hình trong nước

Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các thế lực thù
địch ở cả trong và ngoài nước.
Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, đất nước vẫn trong
tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
Công cuộc đổi mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã
đạt được những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục
phát triển.
8.2.Đặc trưng XH XHCN tại đại hội 7 năm 1991

Do nhân dân lao động làm chủ;


Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân;
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
8.3.Đặc trưng XH XHCN tại Đại hội năm 2011 (phần này đọc phân tích ý)
Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, điểm mới so với
Đại hội X là chuyển từ “dân chủ" lên trước từ “công bằng” trong đặc trưng bao
trùm, tổng quát. Bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều kiện, tiền
đề của công bằng, văn minh bởi nó thể hiện mục tiêu của CNXH ở Việt Nam. Ở
nước ta, tính ưu việt của CNXH phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế
thừa quan điểm Mác - Lênin về mục tiêu của CNXH, đồng thời vận dụng sáng tạo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu,
nước mạnh..., là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân
chủ được sống cuộc đời hạnh phúc...
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc
hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có CNXH mới bảo đảm cho dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết
của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất
Tổ quốc.
Nói đến tính ưu việt của đặc trưng này, không thể không so sánh về mặt bản
chất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng với các xã hội đã từng tồn tại
trước đây ở Việt Nam nói riêng và với chủ nghĩa tư bản nói chung. Trước năm
1945, ở Việt Nam chưa hề có và chưa thể có các giá trị dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đó là một thực tế hiển nhiên mà mỗi người đều nhận
biết. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển), Đảng ta đã có đánh giá
đúng đắn, khách quan về CNTB: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát
triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”.
Nhân dân ta đã từng chứng kiến bản chất áp bức, bóc lột, bất công, tàn bạo của
chủ nghĩa tư bản trong thời gian dài bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lăng, đô hộ.
CNXH phải xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, khuyến khích mọi người dân làm giàu chính
đáng để tất cả cùng giàu có. Đó cũng là tiền đề để đất nước giàu mạnh thật sự trên
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng. CNXH mà
nhân dân ta đang xây dựng là quá trình dân chủ hóa, phát huy mọi quyền dân chủ
của nhân dân, đồng thời hướng tới những giá trị công bằng cho mọi tầng lớp, mọi
người dân, xây dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội văn minh, hiện đại.
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu
việt của các giá trị, thể hiện trong mục tiêu cần đạt tới là dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng và văn minh thật sự.
Chúng ta đang xây dựng CNXH là đang từng bước hiện thực hoá tính ưu việt
của đặc trưng thứ nhất vừa nêu.
Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo đúng tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu
việt về chính trị của chế độ dân chủ XHCN trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin: sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá
trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân là gốc. Đặc biệt,
đã thể hiện quan điểm về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức dân là
chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của CNXH trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận
thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN gắn liền với việc
bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi
quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung vả phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ
XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển
đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế
cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do
nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp...”.
Nhân dân (bao gồm đông đảo các giai cấp, tầng lớp dân cư, các dân tộc, tôn
giáo...) làm chủ thông qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp,
thông qua việc thực hiện các Quy chế dân chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở... cũng
đã thể hiện tính ưu việt về chế độ chính trị của CNXH mà nhân dân ta đang xây
dựng.
Tính ưu việt của CNXH tự bản thân nó đã đòi hỏi phải phát huy dân chủ cao
độ, gắn với tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong tham gia xây dựng,
quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. V.I.Lênin từng nêu quan niệm: CNXH
không phải là sản phẩm được tạo ra từ những sắc lệnh từ trên ban xuống. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền lợi đều của dân...
Tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN thể hiện cụ thể, thiết thực ở Việt Nam
hiện nay là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Tính ưu việt này đã, đang, sẽ
biểu hiện thông qua quá trình đổi mới và dân chủ hóa ở Việt Nam.
Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của CNXH mà
nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Về lực lượng sản xuất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng không
thể là cái gì khác ngoài lực lượng sản xuất hiện đại với khoa học kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Về quan hệ sản xuất không thể
không tính đến yếu tố quan trọng hàng đầu là chế độ sở hữu. Trong thời kỳ quá độ
lên CNXH việc xác định chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện
tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng (đã khắc phục được tư duy cũ,
giáo điều về CNXH ở Việt Nam đồng nghĩa với chế độ công hữu là duy nhất ngay
trong thời kỳ quá độ).
Một luận điểm phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về sự phát
triển quá độ lên CNXH mà Đảng ta đã xác định từ Đại hội IX được tuyệt đại đa số
nhân dân đồng tình: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại” 1.
Trong xã hội tư bản, chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN giữ vai trò thống trị của
quan hệ sản xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh tế và áp bức về xã
hội. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất TBCN, từng bước xây
dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu thể hiện rõ tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng
so với chế độ TBCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu
thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày
càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu nhiều
thành phần kinh tế, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của
CNXH mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng XHCN
trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện
khái quát ở tính chất tiên tiến của nền văn hóa (bao hàm những giá trị mới, tiến bộ,
hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân loại); ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam,
truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia,
khu vực tham gia. Xu thế này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến
văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt khác làm nảy sinh nguy cơ mai một các giá
trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế mà các chế độ
chính trị - xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh; trong giao lưu,
hợp tác và phát triển văn hóa, tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng
phải được thể hiện không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của đặc trưng về văn
hóa vừa nêu, mà còn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa
phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát
triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những
giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta
đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển.
Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể
hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội XHCN. Về phương
diện con người, CNXH đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con
người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: Muốn xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Để có con người
XHCN phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của
con người trong xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người trong xã hội XHCN, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã
xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt
Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân. Tính ưu việt của CNXH thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm
nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người
(đức, trí thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những động lực để xây dựng thành công CNXH trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta xác định một động lực rất quan trọng là giải quyết hài hòa các lợi ích cá
nhân, tập thể và toàn xã hội. Lợi ích thiết thân mà mỗi con người Việt Nam hiện
nay mong đợi phản ảnh nhu cầu về đời sống vật chất, đời sống tinh thần và nhu cầu
phát triển con người toàn diện. Giải quyết hài hòa các lợi ích, bảo đảm nhu cầu, lợi
ích chính đáng của mỗi con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người là thể hiện
tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng
các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia ta
dân tộc Việt Nam).
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng nhất thiết phải bảo đảm quyền bình
đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ
phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột
người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, CNXH mà nhân dân ta đang
xây dựng gắn liền với việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các dân tộc hiện nay.
Thực tiễn 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của CNXH
trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy
truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc
anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu
việt của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền XHCN mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà
nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là biểu
hiện cụ thể tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhà nước ấy
phải kế thừa những giá trị trong kiểu tổ chức nhà nước pháp quyền và xã hội công
dân với tư cách là giá trị của văn minh nhân loại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
hiện nay. Thành quả của công cuộc đổi mới đã giúp Đảng và Nhà nước ta xác định
kiểu tổ chức và hoạt động mang tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
là: Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất của trung ương. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp. Trong quan hệ với Nhà nước, Đảng
lãnh đạo để Nhà nước phát huy vai trò quản lý chứ không bao biện làm thay Nhà
nước. Đảng luôn luôn chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.
Đảng ta đã khẳng định: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận
của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong đặc
trưng về Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là
thành quả của việc vận dụng, phát huy sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước XHCN trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam hiện nay.
Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối
ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới là
đặc trưng nhất quán trên lĩnh vực đối ngoại của Đảng ta từ Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đến nay.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, đặc trưng này còn thể hiện tính ưu việt của
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước
ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta
và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức,
diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Bổ sung thêm 2 đặc trưng: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và đặc trưng “có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Hai đặc trưng này Đại hội X đã bổ sung. Điểm mới so với Đại hội X là chuyển từ
“dân chủ" lên trước từ “công bằng” trong đặc trưng bao trùm, tổng quát. Bởi vì, cả
lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều kiện, tiền đề của công bằng, văn
minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo đúng
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bổ sung, phát triển một số đặc trưng cho chính xác với mục tiêu đã xây dựng
xong chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội X về đặc trưng “do nhân dân làm
chủ”.
Đặc trưng về kinh tế: kế thừa Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (so với Đại hội X có bổ sung thêm từ “tiến
bộ”).
Đặc trưng về con người. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện”.
Đặc trưng về dân tộc. Cương lĩnh 1991 xác định: các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã xác định: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển”.
Đặc trưng về hợp tác quốc tế. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác
định: “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

9.Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng thời kỳ
đổi mới

9.1.Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa :

Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng. Tạo nền tảng để đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
9.2.Quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa :

9.2.1.Nội dung cơ bản của các quan điểm như sau:

Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật. Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút
ngắn về thời gian và lộ trình. Gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường;
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới; thời kỳ đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nên kinh tế, mà còn
sử dụng chúng có chiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, nên tất yếu phải hội nhập
và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Ba là, phát huy nguồn lực con người làm yếu tô cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Con người là yếu tốt quyết định. Chú ý đến phát triển giáo dục và đào tạo. Đại
hội XI chỉ rõ : “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, là một đột phá chiến lược, là yếu tốt quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm
lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và
công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu
đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả bền vững.

You might also like