You are on page 1of 5

Phần III

CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1939-1945)


1. Nghị quyết Ban chấp hành trung ương lần thứ 6 (11-1939)

Tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia
Định), do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Nội dung chủ yếu của chủ trương điều
chỉnh chiến lược cách mạng như sau :

Hội nghị nhận định : trong điều kiện lịch sử mới,  giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương và xác định kẻ thù cụ thể, nguy hiểm
nhất của cách mạng Đông Dương là chủ nghĩa đế quốc và tay sai phản bội dân tộc.

Đây là sự chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược. Hội nghị chủ trương
tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và đề ra khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của
đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, chống lãi nặng”.

Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “lập chính quyền Xô viết công-nông-binh”,
thay bằng khẩu hiệu “lập chính quyền cộng hoà dân chủ”, hình thức nhà nước chung
cho tất cả các tầng lớp dân chúng và phong trào giải phóng dân tộc.

Hội nghị chủ trương tập hợp mọi lực lượng chống đế quốc và tay sai, thu hút tất cả các
dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm chống
chiến tranh đế quốc, chống bọn phátxít, giành lại độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Hội
nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, thay cho
Mặt trận dân chủ.

Lực lượng chính của Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương là công nhân,
nông dân đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn do giai cấp công
nhân lãnh đạo

Về phương pháp cách mạng, Hội nghị bứơc đầu nêu ra 1 số chuyển hướng về tổ chức,
vừa xây dựng những tổ chức hợp pháp, đơn giản, rộng rãi, vừa xây dựng các đoàn thể
quần chúng cách mạng… Hội nghị đã quyết định các chủ trương và biện pháp cụ thể
nhằm củng cố Đảng về mọi mặt, phải mật thiết liên hệ quần chúng nhân dân… Hội
nghị đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.

Kết luận: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã đáp ứng yêu
đúng cẩu khách quan của lịch sử, đưa nhân dân bước vào thời kỳ trực tiếp vận động
giải phóng dân tộc.

2. Nghị quyết Ban chấp hành trung ương lần thứ 7 (11-1940)
Tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng đã họp tại làng Đình Bảng
(Bắc Ninh). Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu,
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh.

Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc “võ trang
bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”.

Hội nghị nhận định cuộc chiến tranh thế giới càng lan rộng và ác liệt, đế quốc Pháp đã
bị bại trận, phát xít Nhật sẽ nhân cơ hội này mở rộng chiến tranh cướp lấy các thụôc
địa của Pháp, Mỹ, Anh ở Viễn Đông. Cuộc chiến tranh đế quốc rất có thể chuyển
thành chiến tranh giữa phát xít và Liên Xô. Bọn đế quốc hiếu chiến sẽ mau chóng bị
Hồng quân Liên Xô và cách mạng thế giới tiêu diệt.

Hội nghị nhận định, từ khi Pháp-Nhật cấu kết với nhau áp bức, bóc lột nhân dân ta,
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp-Nhật ngày càng
trở nên sâu sắc. Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để
giành lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ
trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập.

Hội nghị khẳng định : chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Trung
ương Đảng năm 1939 là đúng.

Hội nghị nhận định, kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc bấy giờ là phát xít
Pháp-Nhật. Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương là Mặt trận dân t5ôc
thống nhất chống phát xít Pháp-Nhật ở Đông Dương.

Hội nghị đã cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời, đồng chí Trường Chinh đựơc
phân công làm quyền Bí thư Trung ương Đảng. Hội nghị cũng quyết định chắp mối
liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận Đảng ở nước ngoài.

Hội nghị đã thảo luận và quyết định hai vấn đề cấp thiết trước mắt :

+Duy trì, phát triển lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích,
dùng hình thức vũ trang công tác, khi cần thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ sinh
mạng tài sản của nhân dân…

+Hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì ở miền Nam chưa có đủ điều kiện bảo đảm
cho khởi nghĩa thắng lợi. Đặt vấn đề khởi nghĩa nam Kỳ vào chương trình nghị sự.

Hội nghị đã có chủ trương đúng về hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ.

Kết luận : Hội nghị đã đề ra chủ trương đúng đắn trong tình hình mới: xác định kẻ thù
chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc Pháp - Nhật; có nhận định đúng về khởi
nghĩa Bắc Sơn và khởi nghĩa Nam Kỳ. Tuy nghiên, Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở,
chưa thật dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được
đề ra tại Hội nghị tháng 11- 1939.

3. Hội nghị : Ban chấp hành Trung ương 8 (5/1941)

Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng tại
Pắc Bó (Cao Bằng).

Về tình hình quốc tế : Hội nghị nhất trí với những đánh giá của các Hội nghị Trung
ương Đảng tháng 11/1939 và tháng 11/1940. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc
điểm, tính chất cụôc Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến tranh thế giới đã gây ra nhiều
tai họa cho nền văn minh của xã hội loài người, nhưng kết quả lớn nhất là, nếu tranh
đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô-một nước XHCN, thì cuộc chiến tranh lần này sẽ
đẻ ra nhiều nước XHCN, do đó mà cách mạng nhiều nứơc thành công.

Về tình hình Đông Dương : Hội nghị nhận định từ khi bùng nổ chiến tranh, các tầng
lớp nhân dân Đông Dương đều bị điêu đứng, quyền lợi tất cả các giai cấp đều bị cướp
giật.

Căn cứ sự phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ
chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Về tình hình của cuộc cách mạng : Hội nghị chỉ ra : cụôc cách mạng Đông Dương hiện
tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cụôc cách mạng phải giải quyết 2
vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cụôc cách mạng chỉ phải giải quyết 1 vấn đề cần
kíp “dân tộc giải phóng”, vì vậy cụôc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại
là một cụôc cách mạng dân tộc giải phóng.

Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu rụông đất của bọn đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo”

Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp-Nhật, “sẽ thành lập 1 Chính phủ nhân dân của Việt
Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”.

Vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất : Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam, Lào, Campuchia, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị chủ
trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Ở Việt Nam, Hội nghị chủ trương thành lập mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
Về khởi nghĩa vũ trang : Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.

Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.

Hội nghị cử ra Ban chấp hành Trung ương Đảng, bầu đồng chí Trường Chinh làm
Tổng bí thư.

=> Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương
chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để những hạn chế
của Luận cương chính trị tháng 10-1930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

3. Tiểu kết

Phản ánh sự nhạy bén của Đảng trước tình hình mới có nhiều thay đổi

Kế thừa và phát huy cương lĩnh của Hồ Chí Minh

Hội nghị phát triển hoàn chỉnh chủ trương của hội nghị trung ương 6 và 7 đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

Chuyển hướng mới đề ra quyền tự giải quyết dân tộc

Như vậy từ hội nghị 6 đến 8 Đảng ta dần hoàn thiện quá trình chuyển hướng chiến
lược nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, đây là chủ trương đúng đắn trong tình hình mới.

Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và tập hợp quần chúng, phương pháp cách mạng từ khởi
nghĩa vũ trang và đã đề ra được quyền dân tộc tự quyết.

Sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng trong giai đoạn mới là hoàn toàn
đúng đắn và đã dẫn đến thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945.

So sánh giai đoạn từ 1936-1939 với giai đoạn 1939-1945

Mục tiêu nhiện vụ:

-Giai đoạn 1936-1939 đánh bọn phản động thuộc địa, chống phát xít chống chiến
tranh, đòi tự do dân sinh dân chủ cơm áo hòa bình.
-Giai đoạn 1939-1945 đánh đế quốc, phát xít, tay sai, giành độc lập dân tộc.
*Về lực lượng:

Giai đoạn 1936-1939 tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân có tinh thần chống phát
xít chống chiến tranh (trong mặt trận dân chủ Đông Dương)
-Giai đoạn 1939-1945 tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân không phân biệt giàu
nghèo Đảng phái, tôn giáo.

Hình thức đấu tranh:

giai đoạn 1936-1939 đấu tranh công khai hợp pháp kết hợp vs bí mật.
-Giai đoạn 1939-1945 là khởi nghĩa vũ trang.
Nguyên nhân có sự khác nhau.
do hoàn cảnh TG và trong nước ở mỗi thời kỳ khác nhau nên Đảng ta có chủ trương
đúng đắn phù hợp, sáng tạo để lãnh đạo CM thành công.

You might also like