You are on page 1of 6

a, Hoàn cảnh lịch sử

-Thế giới: Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ


+01/09/1939 Đức tấn công Balan, 2 ngày sau Anh, Pháp tuyên chiến với Đức
+06/1940 Đức tấn công Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng Đức
+22/06/1941 Đức tấn công Liên Xô, lúc này cuộc chiến chuyển thành phe phát xít do Đức cầm
đầu đối đầu với lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột
-Trong nước: Chiến tranh thế giới thứ 2 đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và
VN
+Pháp đã thi hành các chính sách thời chiến rất trắng trợn, chúng thủ tiêu quyền tự do, dân chủ
mà ta giành được trong thời kỳ 1936-1939
+28/09/1939 Toàn quyền Pháp ra nghị định cấm tuyên truyền Cộng Sản, đóng của các tờ báo và
nhà sản xuất, cấm hội họp và tụ tập đông người
+Lợi dụng Pháp đầu hang Đức, 22/09/1940 Nhật tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng
+23/09/1940 Pháp kí hiệp định đầu hang Nhật
+Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp-Nhật trở lên gay gắt , đặt nhân dân ta dưới
1 cổ 2 tròng áp bức
-Tình hình kinh tế - xã hội trong nước:
+Thực dân Pháp thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm huy động tối đa sức người sức của
phục vụ chiến tranh
+Khi Nhật vào Đông Dương, P-N cấu kết để bóc lột nhân dân ta cướp đoạt ruộng đất , bắt nhân
dân ta nhổ lúa trồng đay…
Đẩy nhân dân vào cảnh cùng cực, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước. Đảng CS Đông Dương đã thực hiện
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

b, Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng:
-Được hoàn chỉnh qua 3 hội nghị:
+ Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 6(11/1939): mở đầu sự chuyển hướng
+ Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 7(11/1940): tiếp tục bổ sung nội dung chuyển hướng
+ Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 8(05/1941): hoàn chỉnh nội dung chuyển hướng
-Nội dung chuyển hướng chỉ đạo:
+ Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hang đầu
+Thành lập VN độc lập đồng minh( Việt Minh) đổi tên các hội phản đế thành hội cứu quốc.
Ở Lào thành lập Ailao độc lập đồng minh, ở Campuchia thành lập Cao Miên độc lập đồng minh
+Xác định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩ vũ trang là nhiệm vụ trung tâm.
+Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: Lãnh đạo khởi nghĩa từng phần trong
từng địa phương giành thắng lợi mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn
+Chú trọng công tác xây dựng Đảng và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc , nhận thức nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
cao hơn hết tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong mặt trận Việt Minh, xây dựng
lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng
và lực lượng vũ trang. Nâng cao hơn nữa năng lực tổ chức và lãnh đạo là tinh thần chung của quá
trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
C, Ý nghĩa:
-Góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu của CMVN là độc lập dân tộc, đưa đến những chủ
trương, sự chỉ đạo đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó.
-Giúp cho nhân dân ta có đường hướng đúng đắn để tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp
đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân
-Giúp cho công tác chuẩn bị giành độc lập ở khắp các địa phương, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ
phong trào CM quần chúng
-Từng bước xây dựng lực lượng vũ trang trong nhân dân là cơ sở cho sự ra đời của VN tuyên
truyền giải phóng quân sau này.
-Xác lập các chiến khu và căn cứ địa CM như căn cứ địa Bắc- Sơn- Võ Nhai và căn cứ Cao Bằng

Chương 2. Những chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng CSVN từ năm 1939 đến
năm1941
1.Chủ trương chiến lược mới của đảng
1.1 Ba hội nghị của Ban Chấp hành trung ương Đảng
1.1.1. Hội nghị lần thứ 6
Tại Hội nghị Trung ương sáu, tháng 11/1939, đánh dấu sự trưởng thành củaĐảng về tư duy
chính trị và sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong công cuộc lãnhđạo sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Trước sự phát triển gay gắt của những mâuthuẫn giữa đế quốc Pháp và các dân tộc Đông
Dương sau chiến tranh thế giớithứ hai bùng nổ, Hội nghị kịp thời đưa ra những quyết định
chiến lược rất quantrọng về con đường cách mạng của các dân tộc ở Đông Dương: “Bước
đườngsinh tồn của dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là conđường đánh
đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hayda vàng để giải phóng dân
tộc”. Hội nghị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên vịtrí hàng đầu, cách mạng ruộng đất và
mọi vấn đề khác cũng phải phục vụ chomục tiêu cao nhất đó. Cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc được thực hiện bằngsức mạnh đại đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong Mặt trận thống
nhất dântộc phản đế Đông Dương và Mặt trận phản đế của từng quốc gia dân tộc Việt,Miên,
Lào. Mặt trận đó là sự liên hiệp các dân tộc, các giai cấp và tầng lớp xãhội, các đảng phái
chính trị chống đế quốc Pháp và bọn tay sai của chúng, thựchiện nền độc lập hoàn toàn cho
các dân tộc Đông Dương
1.1.2. Hội nghị trung ương lần thứ 7
Tại Hội nghị Trung ương sáu, tháng 11/1939, đánh dấu sự trưởng thành củaĐảng về tư duy
chính trị và sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong công cuộc lãnhđạo sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Trước sự phát triển gay gắt của những mâuthuẫn giữa đế quốc Pháp và các dân tộc Đông
Dương sau chiến tranh thế giớithứ hai bùng nổ, Hội nghị kịp thời đưa ra những quyết định
chiến lược rất quantrọng về con đường cách mạng của các dân tộc ở Đông Dương: “Bước
đườngsinh tồn của dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là conđường đánh
đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hayda vàng để giải phóng dân
tộc”. Hội nghị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên vịtrí hàng đầu, cách mạng ruộng đất và
mọi vấn đề khác cũng phải phục vụ chomục tiêu cao nhất đó. Cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc được thực hiện bằngsức mạnh đại đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong Mặt trận thống
nhất dântộc phản đế Đông Dương và Mặt trận phản đế của từng quốc gia dân tộc Việt,Miên,
Lào. Mặt trận đó là sự liên hiệp các dân tộc, các giai cấp và tầng lớp xãhội, các đảng phái
chính trị chống đế quốc Pháp và bọn tay sai của chúng, thựchiện nền độc lập hoàn toàn cho
các dân tộc Đông Dương
1.1.3. Hội nghị lần thứ 8
Tiến theo xu hướng đó, Hội nghị Trung ương tám, tháng 5/1941 đã bổ sung,kế thừa và hoàn
chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Hộinghị Trung ương sáu. Hội nghị
Trung ương tám đã nhấn mạnh tầm quan trọngcủa vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc. Sau khi quân Nhật vàochiếm đóng Đông Dương. Thực dân Pháp và Phát xít Nhật cấu kết
nhau áp bức,bóc lột nhân dân làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ở Đông Dương và đế
quốc Pháp – Nhật ngày càng gay gắt. Trước tình hình đó, Hội nghị quyết định:“Khẩu hiệu của
Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được cácdân tộc Đông Dương ra khỏi ách
của giặc Pháp - Nhật”. Nhiệm vụ chủ yếucủa Đảng là phải tập hợp tối đa các giai cấp, đảng
phái, các nhóm cách mạngcứu nước, các tôn giáo, các dân tộc chống đế quốc Pháp-Nhật. Tất
cả quyền lợicủa giai cấp đều phải được đặt dưới quyền lợi dân tộc. Trên cơ sở đó, Hội
nghịnhất trí với chủ trương của Hội nghị Trung ương sáu là tạm gác khẩu hiệu cáchmạng
ruộng đất và chỉ mới thực hiện giảm tô, chia ruộng đất công cho nôngdân.Xuất phát từ chủ
trương khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh vìđộc lập, tự do của từng dân tộc Việt,
Miên, Lào, Hội nghị quyết định thành lậpViệt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thay cho
Mặt trận Dân tộc thống nhấtphản đế Đông Dương và giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào thành lập
Mặt trận CaoMiên độc lập đồng minh và Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh; các hội
quầnchúng đều lấy tên hội cứu quốc để thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước thamgia; khi
giành độc lập, sẽ xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới và thànhlập chính quyền cách
mạng của chung toàn thể dân tộc không phải thuộc quyềnriêng của một giai cấp nào
1.2.Nội dung quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Kể từ khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ươngĐảng đã họp Hội
nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng11-1940) và Hội nghị lần thứ
tám (tháng 5-1941). Trên cơ sở nhận định khảnăng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai
và căn cứ vào tình hình cụ thểtrong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển
hướng chỉ đạochiến lược như sau:Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu.Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phảiđược giải
quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xítPháp - Nhật. Bởi “Trong
lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giảiphóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng nhữngtoàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộphận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.Để tập trung cho
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hànhTrung ương quyết định tạm gác lại
khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đấtcho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng
đất của bọn đế quốc và ViệtNan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng
và giảm tô,giảm tức"Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp
lựclượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.Để tập hợp lực lượng cách mạng đông
đảo trong cả nước, Ban Chấp hành Trungương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh, gọi tắt là ViệtMinh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương; đổi tên cácHội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu
quốc,Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để
vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thànhphần, lứa tuổi, đoàn kết bên
nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
lả nhiệm vụ trungtâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.Để đưa ra cuộc khởi
nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lựclượng cách mạng, bao gồm lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiếnxây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành
Trung ương chỉ rõ: Việc"chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta
trong giaiđoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và
chủtrương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũtrang vừa chiến
đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cáchmạng, tiến tới thành lập khu căn
cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.Ban Chấp hành Trung ương xác định phương
châm và hình thái khởi nghĩa ởnước ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng,
nhằm vào cơ hộithuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù... với lực lượng sằn có, ta có thể
lãnhđạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể dànhthắng lợi mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú
trọng công tác xây dựng Đảngnhằm nâng cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng
thời chủ trươnggấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh
vận,quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng
2.Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với chủ trương chuyển hướng chỉđạo chiến
lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII củaTrung ương Đảng (5/1941)
Ngày 8-2-1941 Nguyễn ái Quốc-Hồ Chí Minh về nước ở vùng Pắc Bó (HàQuảng-Cao
Bằng).Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 họp ở Pắc Bó từ ngày10 đến
19/5/1941, do Nguyễn ái Quốc chủ trì.Với cương vị là người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt
Nam đại biểu Quốc tế cộng sản, Người đã cùng các đại biểu tham dự Hội nghị phân tích tình
hìnhthế giới và tình hình Đông Dương trong hoàn cảnh chiến tranh, đề ra chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng , bao gồm những nội dung sau:Dự đoán sự phát triển của
tình hình thế giới: “ Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đẻ ra Liên Xô một nước xã hội
chủ nghĩa thì cuộc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách
mạng nhiều nước thành công”.Nhận định về phong trào cách mạng ở Đông Dương: “Mặc dù
sự đàn áp liên miên và sức tàn bạo của giặc Pháp, phong trào cách mạng vẫn sôi nổi mộtcách
mạnh mẽ....”. Đặc biệt hơn là cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân tỉnhBắc Sơn và Nam Kỳ
cùng anh em binh lính Đô Lương.Những chủ trương của Đảng: Hội nghị khẳng định nhiệm vụ
chủ yếu trướcmắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. “ Các dân tộc Đông Dương hiện nay
bị dưới hai tầng áp bức bóc lột của giặc Pháp-Nhật....” “ Pháp....Nhật ngày càngkhông phải
chỉ là kẻ thù của công nông nữa mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”. “ Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,không đòi được độc lập tự do cho toàn
thể dân tộc thì chẳng những toàn thểquốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận giaicấp đến Việt Nam cũng không đòi được”.Muốn đánh đuổi Pháp đuổi Nhật
phải có lực lượng thống nhất của tất thẩycác dân tộc Đông Dương.Theo đề nghị của Người,
Hội nghị quyết định thành lập mặt trận Việt Namđộc lập Đồng Minh gọi tắt là Việt Minh thay
cho mặt trận dân tộc thống nhấtphản đế Đông Dương. ở Lào tổ chức Ai Lào độc lập đồng
minh, ở Miên tổ chứcra Cao Miên độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông Dương độc lập
đồngminh.Hội nghị dự kiến những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chínhquyền .
Hội nghị chỉ ra phương hướng tiến hành khởi nghĩa: khởi nghĩa từngphần, từng địa phương,
mở đường cho tổng khởi nghĩa, lập ra nước Việt NamDân chủ Cộng hoà, lấy cờ đỏ sao vàng
năm cánh làm lá cờ của toàn quốc.Hội nghị coi trọng công tác xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ
để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Đông Dương đi đến thắng lợi hoàn toàn. Hội
nghị Trung ương lần thứ VIII (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì có ý nghĩa lịch sử : hoàn chỉnh
việc chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945.
3. Ý ngĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đãhoàn chỉnh sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu sốmột của cách mạng là độc lập
dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đứng đắn đểthực hiện mục tiêu ấy.Đường lối giương cao
ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóngdân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi
người Việt Nam yêu nước trong Mặttrận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần
chúng ở cả nông thôn vàthành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là
ngọn cờ dẫnđường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp,
đuổiNhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.Sau Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương (tháng 5-1941),Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước
đoàn kết thống nhất đánhđuổi Pháp — Nhật. Người nhấn mạnh: " Trong lúc này quyền lợi dân
tộc giảiphóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọnViệt
gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng".Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời
kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, cáccấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các
tổ chức cứu quốccủa quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào
đấutranh của quần chúng. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bổ ra đời.Mặt trận Việt
Minh đã tuyên bố ra 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân nênđược nhân dân nhiệt liệt
hưởng ứng. Từ đầu nguồn cách mạng Pác Bó, ViệtMinh đã lan tỏa khắp nông thôn, thành thị
có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Một tổ chức chính trị yêu nước ra đời và đã tham gialàm
thảnh viên của Mặt trận Việt Minh như Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6-1944). Lực lượng
chính trị quần chúng ngày càng đông đảo và được rèn luyệntrong đấu tranh chống Pháp - Nhật
theo khẩu hiệu của Mặt trận Việt Minh.Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã
chỉ đạo việc vũtrang cho quần chúng cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng vũtrang
nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc quân, Việt Namtuyên truyền giải phóng
quân đã thành lập Việt Nam giải phóng quân. Đảng chỉđạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa
cách mạng, tiêu biểu là căn cứ BắcSơn - Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng. Công việc chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trangdiễn ra sôi nổi ở các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả nước đã cổ vũvà
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quân chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền

You might also like