You are on page 1of 20

MỤC LỤC

CÂU 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG..............................................................................................2
CÂU 2: NỘI DUNG SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC
CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN 1939 -1945...............................................3
CÂU 3: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP........4
CÂU 4: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ NHÂN DÂN.......6
CÂU 5: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC GIAI
ĐOẠN 1954 – 1964..............................................................................................7
CÂU 6: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP
HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI..................................8
CÂU 7: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CNH - HĐH TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI...........................................................................................................10
CÂU 8: NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TỪ ĐẠI
HỘI VI ĐẾN ĐẠI HỘI VIII............................................................................12
CÂU 10: LÀM RÕ SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ.......................................................................................................16
CÂU 11: QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG NỀN
VĂN HÓA CỦA ĐẢNG THỜI KÌ ĐỔI MỚI................................................17

1
CÂU 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG.
1. Hoàn cảnh ra đời: Đến cuối năm 1929, những người làm cách mạng VN
trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải
thành lập một ĐCS thống nhất, chấm dứt chia rẽ trong phong trào cách mạng
VN. Do vậy, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, NAQ chủ trì hội nghị hợp nhất
Đảng tại Hương Cảng (TQ). Hội nghị đã thông qua rất nhiều văn kiện như
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt hợp thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN.
2. Nội dung: bản Cương lĩnh chính trị đã xác định những vấn đề cơ bản của
cách mạng VN, bao gồm:
a. Phương hướng chiến lược: Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai
đoạn: Trước hết làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, sau đó

2
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng kế tiếp nhau không
tách rời nhau.
b. Nhiệm vụ của cách mạng
Về chính trị: đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, đưa nước ta hoàn
toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn
của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản
lí; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo; bỏ sưu thuế chi dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông
nghiệp, thi hành luật ngày 8h làm.
Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền;
phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
c. Lực lượng cách mạng: Công nông là gốc của cách mạng đồng thời phải liên
kết với tiểu tư sản, tư sản dân tộc còn phú nông, trung tiểu địa chủ thì cô lập
hoặc lợi dụng họ .
d. Lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo của cách mạng
do ĐCSVN tiên phong, là Đảng lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất.
e. Quan hệ của cách mạng VN với phong trào cách mạng thế giới: cách
mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, phải đoàn
kết với vô sản thế giới, đặc biệt là vô sản Pháp. Cùng với đó là liên lạc với các
dân tộc bị áp bức trên thế giới.

3. Ý nghĩa
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã vạch ra được những vấn đề cơ bản nhất
cho cách mạng VN; xác định được mâu thuẫn cơ bản của 1 xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; thấy được khả năng
tham gia cách mạng trong 1 mức độ nhất định của tầng lớp phú nông, trung tiểu
địa chủ và tư bản An Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo tuy
còn vắn tắt nhưng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo nhuần nhuyễn về
quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc và tinh thần nhân văn. Độc lập
dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh.

3
CÂU 2: NỘI DUNG SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC
CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN 1939 -1945.
1. Hoàn cảnh lịch sử
Kể từ khi CTTG thứ 2 bùng nổ, BCHTW Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6
(11/1939), Hội nghị lần thứ 7 (11/1940) và Hội nghị lần thứ 8 (5/1941). Trên cơ
sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ 2 và tình hình cụ
thể trong nước, BCHTW Đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
2. Nội dung
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đảng chỉ rõ mâu
thuẫn chủ yếu, cấp bách ở nước ta là mâu thuẫn của toàn thế dân tộc VN với
bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và
Việt gian chia cho dân cày nghèo”, “chia lại ruộng đất cho công bằng và giảm
tô, giảm tức”.
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết và tập hợp
lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Thành lập Mặt trận VN
độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) thay cho Mặt trận thống nhất
dân tộc phản để Đông Dương. Đổi tên các hội phản đế thành hội cứu quốc để
vận động, thu hút mọi người dân yêu nước, không phân biệt thành phần, lứa
tuổi, đoàn kết bên nhau cứu quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa
vũ trang đến thắng lợi, cần ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương để mở đường cho một cuộc Tổng khởi
nghĩa to lớn.
Bốn là, chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ
chức và lãnh đạo của Đảng, gấp rút đào tạo cán bộ.
3. Ý nghĩa
Thứ nhất, góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu của cách mạng VN là
độc lập dân tộc, đưa đến những chủ trương chỉ đạo đúng đắn giúp cho nhân dân
ta có đường hướng đúng để thực hiện mục tiêu ấy.
Thứ hai, tập hợp được một lực lượng quần chúng rộng rãi trong Mặt trận
Việt Minh ở cả thành thị và nông thôn; xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực

4
lượng vũ trang; là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi
trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho
nhân dân.
Thứ ba, giúp cho công tác chuẩn bị giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi
trên khắp địa phương trong cả nước, cổ vũ thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách
mạng của quẩn chúng, vùng lên đấu tranh giành chính quyền.
Như vậy, sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng đã thể hiện tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và vô cùng đúng đắn.

CÂU 3: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP.


1. Hoàn cảnh lịch sử
Trong tháng 11/1946,quân Pháp có một loạt hoạt động khiêu khích và bội
ước hiệp ước Sơ bộ (6/3) và Tạm ước (14/9). Ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối
hậu thư cho chính quyền cách mạng. Tại Hội nghị mở rộng (19/12/1946) của
Trung ương Đảng đã phát kệnh kháng chiến, 20h ngày 19/12/1946, các chiến
trường đồng loạt nổ súng. Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến được phát đi.
2. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chồng thực dân Pháp xâm
lược
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vạch ra đường lối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến của
quân và dân ta. Đường lối đó được xuất phát từ những 3 văn kiện chính: Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946), Bản chỉ
thị Toàn dân kháng chiến của Ban thường vụ trung ương Đảng (22/12/1946) và
tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh 1947.

a) Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng tháng
Tám, đánh thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc
lập và thống nhất cho tổ quốc.
b) Tính chất của cuộc kháng chiến: cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh
nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất
dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
c) Chính sách kháng chiến: liên minh với dân tộc Pháp, chống phản động thực
dân Pháp; đoàn kết với Miên Lào và các dân tộc ưa chuộng hòa bình tự do;
đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến.
d) Nhiệm vụ kháng chiến: đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập
dân tộc và thống nhất thật sự cho dân tộc; trong quá trình kháng chiến, không
thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến hành từng bước chính sách
ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh công

5
nông, phân hóa cô lập kẻ thù; không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hòa
bình thế giới.
e) Phương châm chiến lược: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, và tự
lực cánh sinh.
Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người VN thì phải đứng
lên chống thực dân Pháp.” Tức là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc
không phân biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là
một pháo đài. Sở dĩ như vậy là vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì lợi
ích toàn dân nên phải do toàn dân tiến hành.
Kháng chiến toàn diện: Là kháng chiến trên tất cả các mặt: Quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao…..Vì thực tiễn giặc Pháp không những
đánh ta về quân sự mà còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa…Cho nên ta
không những kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng
chiến toàn diện trên tất cả các mặt. Đồng thời kháng chiến toàn diện còn để phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài): Đây là một chủ trương
vô cùng sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê
Nin vào hoàn cảnh nước ta. Vì so sánh lực lượng lúc đầu chưa có lợi cho cuộc
kháng chiến, cần có thời gian dẻ vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống lại
chiến lược đánh nhanh thắng nhan của địch, từng bước làm thay đổi so sánh lực
lượng, tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Tự lực cánh sinh: Chủ yếu là dựa vào sức mình là chính (sức mạnh của
nhân dân) không trông chờ ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thủ sự viện
trợ của quốc tế. Muốn đánh lâu dài thì phải dựa vào sức mình là chính.
f) Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định
thắng lợi.
3. Đánh giá đường lối: đường lối này đã thể hiện tính chất của cuộc kháng
chiến của nhân dân ta.
Cuộc kháng của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa,
chống lại một cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích: Giành độc lập và
thống nhất Tổ Quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến này, dân tộc việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu
mình, vừa đấu tranh cho hòa bình thế giới. Cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam do đó còn là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập,
vì dân chủ hòa bình.
4. Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Pháp
Đường lối kháng chiến của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, vừa kế thừa được
kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lí về chiến tranh cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lenin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.

6
Đường lối kháng chiến có tác dụng động viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến
hành cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù
phải trải qua nhiều hi sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.

CÂU 4: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ NHÂN DÂN.
1. Hoàn cảnh lịch sử.
Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có
nhiều biến chuyển mới. Sự thay đổi đó đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng để đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. Tại Đại hội II
(1951), Đảng đã thông qua đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở nước
ta với những nội dung cơ bản sau.
2. Nội dung
a) Tính chất xã hội
Xã hội VN hiện nay gồm 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc
địa và nửa phong kiến. 3 tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau nhưng mâu thuẫn
chủ yếu này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc
địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của nhân
dân VN chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.
b) Đối tượng cách mạng
Cách mạng VN có 2 đối tượng: đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược, cụ thể là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mĩ; đối tượng phụ hiện
nay là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động.
c) Nhiệm vụ cách mạng
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng VN là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược,
giành độc lập dân tộc và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những di tích
phong kiến, nửa phong kiến; làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH. Ba nhiệm vụ khăng khít với nhau, song
nhiệm vụ chính, trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Vì vậy lúc này phải
tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để giải quyết quân xâm lược.
d) Động lực cách mạng
Bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và
tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những
giai cấp, tầng lớp, phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là
công, nông và lao động trí thức.
e) Đặc điểm cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng đó
không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ, cũng không phải là cách mạng
XHCN mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách
mạng XHCN.
f) Triển vọng cách mạng
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa VN tiến
tới CNXH.
g) Con đường đi lên CNXH

7
Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn 1
nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn 2 nhiệm vụ chủ
yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để
người cày có ruộng, phát triển kĩ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân;
giai đoạn 3 nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho CNXH, tiến lên thực hiện
CNXH. 3 giai đoạn không tách rời mà mật thiết, liên hệ, xen kẽ nhau.
h) Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng
Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng Lao động VN là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động VN. Mục đích của Đảng là
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ XHCNVN, để thực hiện tự
do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc
đa số, thiểu số của VN.
i) Chính sách của Đảng
Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm
mống cho CNXH và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
k) Quan hệ quốc tế
VN đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước XHCN và nhân dân thế giới, của TQ, LX; thực hiện đoàn kết Việt – Trung
– Xô và đoàn kết Việt – Miên – Lào.
3. Ý nghĩa
Việc thực hiện thành công đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
đã giúp chúng ta bảo vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại được cuộc
chiến tranh xâm luộc của thực dân Pháp có sự giúp sức của đế quốc Mĩ; giải
phóng được hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước.

CÂU 5: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC GIAI


ĐOẠN 1954 – 1964.
1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau Hội nghị Gionevo, cách mạng VN vừa có những thuận lợi mới, vừa
đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp. Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau
tháng 7/1954 là phải đề ra đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi
miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đại hội lần
thứ III của Đảng họp tại Hà Nội (5 -10/9/1960) đã hoàn chỉnh đường lối chiến
lược chống Mĩ cứu nước trong giai đoạn 1954 -1964.
2. Nội dung
a) Nhiệm vụ chiến lược
Có 2 nhiệm vụ cơ bản: một là tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc;
hai là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mĩ và bọn tay sai,
thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Từ đó cho thấy sự sáng tạo của Đảng ta.
b) Mối quan hệ giữa cách mạng 2 miền
Có mối quan hệ mật thiết và tác động thúc đẩy lẫn nhau

8
c) Vai trò, nhiệm vụ cách mạng mỗi miền
Cách mạng XHCN ở miền Bắc: xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa
của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên
CNXH. Cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với cách mạng
miền Nam, thống nhất đất nước.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam: giữ vai trò quyết định
trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
Mĩ và bọn phản động, hoàn thành mục tiêu thống nhất nước nhà, cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
d) Con đường thống nhất đất nước
Kiên trì con đường hòa bình thống nhất, luôn cảnh giác và chuẩn bị đối
phó khi kẻ thù mở rộng chiến tranh.
e) Phương pháp cách mạng
Bạo lực cách mạng, nhấn mạnh bạo lực chính trị.
f) Triển vọng cách mạng
Dù gay go, gian khổ, phức tạp, lâu dài nhưng thắng lợi nhất định thuộc về
nhân dân ta, Nam – Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên CNXH.
3. Ý nghĩa
Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng là giương cao ngọn
cờ giải phóng dân tộc và CNXH phù hợp 2 miền, cả VN lẫn thế giới. Do đó đã
tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mĩ xâm
lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, đường lối còn
thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng. Đó là cơ sở để Đảng chỉ
đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong công cuộc
xây dựng và thống nhất đất nước.

CÂU 6: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP


HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là một yêu cầu bức thiết đối với nước ta
để có thể đi lên CNXH và chuyển mình từ một nước phong kiến lạc hậu thành
một nước kinh tế phát triển định hướng XHCN. Nó đã được đặt ra và hình thành
từ những năm 1960 trước thời kì đổi mới. Tuy quá trình CNH – HĐH trước đổi
mới đã tạo cơ sở rất quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy CNH – HĐH của
Đảng sau này nhưng nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận
thức và chủ trương CNH thời kì 1960 – 1985, đồng thời đề ra mục tiêu và
nhiệm vụ trong những năm còn lại của chặng đường quá độ.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”, Đại hội VI
đã chỉ ra những sai lầm của thời kì trước đổi mới như sau:
Một là, phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất kĩ thuật. Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ

9
qua những bước đi cần thiết nên ta đã chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi
chưa có đủ các tiền đề, mặt khác chậm đổi mới cơ cấu quản lí kinh tế.
Hai là, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp và nông nghiệp,
thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập
trung giải quyết vấn đề căn bản là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Ba là, không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V của Đảng,
vẫn chưa thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng
không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa chủ
trương CNH XHCN trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên thời kì
quá độ là thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục tiêu: LT-TP, HTD,
HXK.
Hội nghị Trung ương VII (1/1994) đã đánh dấu nhận thức mới của
Đảng, đưa ra khái niệm CNH – HĐH. CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lí kinh tế,
xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra
năng suất xã hội cao.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) khẳng định đất nước ta đã chính thức
ra khỏi thời kì khủng hoảng kinh tế xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường
đầu tiên của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ bản hoàn thành (3
chương trình kinh tế lớn) cho phép nước ta chuyển sang thời kì đẩy mạnh CNH
– HĐH đất nước.
Đại hội IX (4/2001), Đại hội X (4/2006), Đại hội XI (1/2011) đã xác
định mục tiêu, con đường CNH rút ngắn ở nước ta; CNH – HĐH phải gắn với
kinh tế tri thức; CNH – HĐH và phát triển nhanh bền vững.
Như vậy, sau gần 30 năm đổi mới đất nước, ta đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có những thành tựu nổi bật của CNH –
HĐH: cơ sở vật chất kĩ thuật của đất nước ngày càng tăng đáng kể; khả năng
độc lập tự chủ về kinh tế được nâng cao; tỉ trọng công nghiệp tăng, có sự phân
phối hợp lí giữa ngành, vùng kinh tế. Tuy cũng có những mặt hạn chế song
chúng ta vẫn phải khẳng định: để có được những thành tựu trên phải nói đến sự
đúng đắn, tự chủ và sáng tạo của Đảng và Nhà nước để nước ta có thể vượt qua
cuộc khủng hoảng kinh tế trước đổi mới, từng bước kiên định đi lên chủ nghĩa
xã hội.
10
CÂU 7: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CNH - HĐH TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI.
Tại Hội nghị Trung ương VII (1/1994), Đảng đã đưa ra khái niệm CNH –
HĐH: “CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lí kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất xã hội cao”.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học khoa học các
điều kiện trong nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo
quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới.
Những quan điểm này được Hội nghị TW khóa VII nêu ra và phát triển, bổ sung
qua các Đại hội VIII, IX, X của Đảng.
Một là, CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Trước hết, về quan điểm “CNH gắn với HĐH”, tại Đại hội X của Đảng
nhận định “Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá
lớn”. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu rông tới
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thể hội nhập và tác động của
quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất
nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa
theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công
nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Về quan điểm “CNH, HĐH phải gắn với phát triển kinh tế tri thức”,
chúng ta có thể và cần thiết không phải trải qua các bước phát triển tuần tự từ
kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức.
Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại
hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
của CNH, HĐH.
Hai là, CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế.
Trước hết, thời kì đổi mới CNH, HĐH được tiến hành trong nền KTTT
định hướng XHCN nhiều thành phần. Do đó, CNH, HĐH không phải chỉ là
công việc của nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh

11
tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Như vậy, nó không những khai thác có
hiệu quả mọi nguồn lực kinh tế, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Bên cạnh đó, CNH, HĐH nền kinh tế nước ta hiện nay diễn ra trong bối
cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học
hỏi kinh nghiệm quản lí tiên tiến của thế giới,…sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển. Ngoài ra còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ
các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là vốn khoa học và công
nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước, trong đó
con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người, đáp ứng yêu
cầu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cần chú ý đến phát triển giáo
dục và đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ khoa học quản
lý cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu
và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công
nghiệp hóa - hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế
nói chung. Muốn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, thì phát triển khoa học công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức
thiết. Đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế, kết hợp với phát
triển công nghiệp nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu
mới.
Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu

12
đó, trước hết là kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ như
vậy, mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, ý tế, rút ngắn khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi
con người đều được hưởng thành quả của phát triển.
Quan điểm của Đảng là vô cùng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn xã hội
Việt Nam cũng như bối cảnh chung của lịch sử nhân loại. Hơn 30 năm đổi mới,
chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hóa, giáo dục,
đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là kết quả
của sự vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như tính
chủ động, sáng tạo, làm chủ của Đảng, từng bước đưa nước ta lên CNXH.

CÂU 8: NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TỪ ĐẠI


HỘI VI ĐẾN ĐẠI HỘI VIII.
Trước đổi mới, do máy móc, rập khuôn mà chúng ta không thừa nhận nền
kinh tế thị trường, xem nền kinh tế hoạch hóa tập trung là đặc trưng nhất của
nền kinh tế hàng hóa. Do đó, nền kinh tế tình rơi vào tình trạng trì trệ và khủng
hoảng. Trước thực trạng đó, Đảng ta đã đổi mới tư duy về kinh tế thị trường
trong thời kỳ đổi mới và được thể hiện qua Đại hội VI đến Đại hội VIII.
Như chúng ta được biết, kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó
người mua và người bán tác động với nhau theo các quy luật: cung cầu, giá trị,
cạnh tranh. Theo cơ sở lý luận, Mác đã từng nói: kinh tế thị trường là một giai
đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải trải qua.
Theo cơ sở thực tiễn, đầu tiên là kinh tế tự nhiên, đến kinh tế hàng hóa và phát
triển lên kinh tế thị trường. Nghiên cứu, học tập đúng đắn chủ nghĩa Mác –
Lênin, Đảng ta đã có những sự thay đổi sâu sắc trong nhận thức so với thời kỳ
trước đổi mới về kinh tế thị trường, cụ thể như sau:

Thứ nhất, kinh tế thị trường không phải cái riêng của chủ nghĩa tư
bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành
trong xã hội phong kiến và phát triển trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị

13
trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện trong
chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ
manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản, nó đạt đến trình độ cao tới
mức chi phối toàn bộ cuộc sống con người trong xã hội. Điều đó khiến cho
không ít người nghĩ rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa. Do đó, kinh tế thị
trường với tư cách là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao không phải là
sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân
loại. Chỉ có cách thức sử dụng hay thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư
bản.

Thứ hai, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.

Kinh tế thị trường không đối lập với các chế độ xã hội. Kinh tế thị trường
tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau, vừa có thể liên hệ
được với tư hữu vừa liên hệ được với chế độ công hữu. Đại hội VI (6/1991)
khẳng định: sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại
khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội; xác định cơ chế vận
hành của nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Đại hội
Đảng VII (6/1996) khẳng định tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

Thứ ba, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, vì vậy có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ

14
nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường có những ưu điểm như các chủ thể
kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ,
lại tự chịu; giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển
đồng bộ và hoàn hảo; kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có
của kinh tế thị trường, có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của
nhà nước.

Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội. Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh sự
cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây
dựng chủ nghĩa xã hội, từ đó cho thấy sự đúng đắn và sáng suốt trong tư duy
đường lối của Đảng.

bộ và hoàn hảo; kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có
CÂU 9: NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TỪ ĐẠI
HỘI IX ĐẾN ĐẠI HỘI XII.
Kế tục và phát triển những thành tựu cũng như sửa đổi và bổ sung cho
những điểm chưa hoàn thiện về vấn đề KTTT ở nước ta đã được nêu ra ở Đại
hội VI đến Đại hội VIII, Đại hội IX đến Đại hội XII đã làm rõ hơn cho nội dung
này.
Tại Đại hội IX, Đảng xác định: nền KTTT định hướng XHCN là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên CNXH. Đây là bước
chuyển quan trọng từ nhận thức KTTT chỉ là một công cụ, một cơ chế quản lí
đến nhận thức coi KTTT như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển
theo định hướng XHCN.
Vậy thế nào là KTTT định hướng XHCN? Đại hội IX đã xác định đó là
một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở
và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Tính
định hướng XHCN được thể hiện trên cả 3 mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ
chức quản lí và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng “dân giàu, nước mạnh,
tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn
hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, trong 3 Đại hội tiếp theo, Đảng ta đã làm
rõ tính định hướng XHCN ở 3 nội dung sau:

15
1) Về mục đích phát triển: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ LLSX và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn
lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác từng bước thoát khỏi nghèo và
từng bước khá giả hơn”. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi
nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
2) Về phương hướng phát triển: phát triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh
tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Mặt khác tiến lên CNXH đặt ra yêu cầu nền kinh tế
phải được đặt vào nền tảng của sở hữu toàn dân các TLSX chủ yếu.
3) Định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng cường kinh tế gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải
quyết các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu
cực của KTTT. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng XHCN được thể hiện qua
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã
hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển còn thực
hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
4) Về quản lí: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò
quản lí, điều tiết bằng pháp luật của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự
thể hiện rõ rệt định hướng XHCN và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa KTTT
TBCN với KTTT XNCH.
Những tiêu chí trên vừa thể hiện được tính định hướng XHCN của nền
KTTT ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa KTTT định hướng
XHCN với KTTT TBCN. Từ đó, cho thấy được tính đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp với thời đại của Đảng.

CÂU 10: LÀM RÕ SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ HỆ THỐNG


CHÍNH TRỊ.
Hệ thống chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, bao
gồm các tổ chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục dích, chức năng
trong việc thực hiện, tham gia thực hiện quyền lực chính trị hoặc đưa ra các
quyết định chính trị. Cấu trúc của hệ thống chính trị rất đa dạng, nhưng cơ bản
gồm 3 bộ phận: Đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội của nhân
dân. Ngay từ Đại hội VI, Đảng đã chỉ rõ cần đổi mới chính trị, trong đó có đổi
mới hệ thống chính trị, thể hiện ở 3 vấn đề:

16
1) Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống
chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Đảng đã
đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi đổi mới kinh tế, khắc
phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần
để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng củng cổ niềm tin của nhân dân, tạo
thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Như vậy, việc sử dụng
khái niệm hệ thống chính trị đã phản ánh và đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế KTTT định
hướng XHCN.
2) Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và động lực chủ yếu phát triển đất
nước trong giai đoạn mới.
Về vấn đề này, Đại hội IX của Đảng cho rằng: “ Trong thời kì quá độ, có
nhiều hình thức sở hữu về TLSX, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã
hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã
thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu
của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém
phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn
chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hoạt đọng chống phá của thế lực thù địch; bảo vệ độc
lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh
phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân với nông dân và tri thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp
hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.”
Nhận thức trên đây là cơ sở tư tưởng, lí luận rất quan trọng để xác định
bản chất dân chủ của hệ thống chính trị và đổi mới phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị.

17
Nhận thức mới này đã khắc phục tư tưởng tả khuynh, cho rằng chuyên
chính vô sản là sự kết hợp đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới.
3) Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính
trị.
Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về nhà
nước có tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ “xây dựng nhà nước pháp quyền”
lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị TW 2 khóa VII (1991). Đến Hội nghị Đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1994) và các Đại hội VIII, IX, X và XI
Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN
và làm rõ thêm các nội dung của nó.
Như vậy, Đảng đã có tư duy đổi mới về hệ thống chính trị một cách đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của tình hình đổi mới, từ
đó khắc phục được những khuyết điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trước
đây.

CÂU 11: QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG NỀN
VĂN HÓA CỦA ĐẢNG THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
Trong thời kì đổi mới, bên cạnh những quan điểm, chủ trương đổi mới
kinh tế xã hội thì vấn đề văn hóa cũng được Đảng ta vô cùng chú trọng. Có thể
hiểu, văn hóa Việt Nam là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Kế thừa và phát triển 5 quan điểm của Nghị quyết TW 5 khóa VIII, Nghị quyết
TW 9 khóa XI đã nêu ra 5 quyết định sau:
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là
động lực phát triển bền vững của đất nước. văn hóa phải đặt ngang hàng
với kinh tế, chính trị xã hội và hội nhập quốc tế. Quan điểm này chỉ rõ chức
năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của xã
hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tức là văn hóa phản ánh và
thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt cuộc sống diễn ra trong quá
khứ cũng như trong hiện tại. Nó đã cấu thành một hệ thống giá trị, truyền thống
và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Các
giá trị ấy tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội, chi phối hàng ngày đến đời
sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội văn
hóa. Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững
của văn hóa, trở thành động lực phát triển văn hóa xã hội.

18
Văn hóa là động lực phát triển bền vững, tức là nguồn lực nội sinh của
sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Vậy nên, sự phát triển
phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn của mỗi
quốc gia, dân tộc chính là văn hóa. Nói cách khác, hàm lượng văn hóa trong
lĩnh vực của đời sống con người ngày càng cao bao nhiêu thì khả năng phát
triển kinh tế xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu. Mặt khác, văn hóa sử
dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lí dân tộc, hạn chế xu
hướng sùng bái vật chất, sùng bái tiền tệ - những nguyên nhân gây ra băng hoại
đạo đức xã hội. Văn hóa, nhất là văn hóa phương Đông, cổ vũ và hướng dẫn cho
một lối sống có chừng mực, hài hòa với sức tải của hành tinh chúng ta. Nó đưa
ra mô hình ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên, vì sự phát triển
bền vững cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Văn hóa là mục tiêu của phát triển, tức là mục tiêu xây dựng một văn
hóa Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” chính là
mục tiêu của văn hóa.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội. Cụ
thể là phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển
kinh tế. Xử lí tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền
tảng tinh thần của xã hội, là một động lực để phát triển kinh tế, xã hội và hội
nhập quốc tế.
Ngoài ra, văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng,
phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: muốn xây dựng XNCH, phải có những con người XHCN. Văn hóa
là cái nôi của tri thức, giúp sức con người cải tạo thế giới, cải tạo xã hội.
Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các
đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mac – Lenin, tư tưởng HCM, nhằm
mục tiêu tất yếu vì mọi người. Tiến tiến không chỉ về nội dung tư tưởng, mà cả
trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm các giá trị văn hóa, truyền thống bền vững của
cộng đồng dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự cường dân
tộc, cần cù, vị tha…Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm
chất, tính cách, sức sống bên trong của dân tộc giúp cho dân tộc đó giữ được
tính duy nhất, tính thống nhất so với bản thân mình trong quá trình phát triển.

19
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, xã hội, chính trị
của các quốc gia. Nó cũng phát triển qua quá trình hội nhập, giao lưu quốc tế.
Do đó, để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta chủ
trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, vừa tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán
và thói quen.
Ba là, phát triển văn hóa vì sự phát triển nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa.
Đó là mối quan hệ biện chứng. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ
bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đây là
những đặc tính cơ bản nhất của con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai
trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần
chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi
trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân
cách, lối sống. Gắn kết các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh.
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn
dân do Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội
ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng. Mỗi người Việt Nam phải phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đều cùng tham
gia sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà.
Trong những năm vừa qua, chúng ta tuy vẫn còn những hạn chế trong
cuộc đổi mới và phát triển văn hóa, song những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực
này cũng không phải là ít. Đó là nhờ những đường lối, chính sách của Đảng vô
cùng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như sự nỗ lực của
mọi tầng lớp nhân dân.

20

You might also like