You are on page 1of 4

3.3.

Nghị Quyết hội nghị ban chấp hành trung ương T5/1941
3.3.1. Bối cảnh lịch sử:
a/ Thế giới

Tháng 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan, Thế chiến 2 bùng nổ.

Tháng 5/1940 Đức tấn công, 25/6/1940 Pháp đầu hàng. Chính phủ Pháp Vichy thân phát xít do
Phillipe Pétain đứng đầu thay mặt chế độ cũ kiếm soát hầu hết các thuộc địa.

22/6/1941, Đức tấn công Liên Xô

 Tính chất chiến tranh đế quốc chuyển biến thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ với
lực lượng phát xít

b/ Trong nước:

Tại Việt Nam, chính phủ Pháp Vichy của Pétain thực hiện chính sách thống trị thời chiến phản động:

 Phát xít hóa bộ máy thống trị: thủ tiêu mọi quyền dân sinh, dân chủ, khủng bố, bắt giam,
thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng.
 Ban hành tổng động viên: Thái Lan nhân cơ hội phát động cuộc chiến tranh Thái-Pháp lần
thứ hai vào tháng 10 năm 1940, lấy lại lãnh thổ đã mất trước đó. Quân Pháp ở Đông Dương
liền bắt quân lính người Việt ở Nam kỳ ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng.
 Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”: thực chất là lợi dụng thời chiến để nắm độc
quyền toàn bộ nền kinh tế Đông Dương và tăng cường việc đầu cơ tích trữ để vơ
vét, bóc lột nhân dân ta được nhiều hơn.

Tháng 22/9/1940, phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương. Ngay ngày hôm sau, 23/9/1940 thực dân
Pháp dâng Đông Dương cho Nhật. Phát xít Nhật, thực dân Pháp cấu kết với nhau áp bức, bóc lột
nhân dân Đông Dương và lập căn cứ quân sự chống lại phe Đồng Minh ở Đông Nam Á. Từ đây nhân
dân ta lâm vào tình cảnh “một cổ hai tròng”.

28/01/1941 Nguyễn Ái Quốc trở về nước, lãnh đạo cách mạng

Hội nghị tổ chức trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó (Hà Quảng - Cao Bằng). Dự Hội nghị có các
đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh và một số đồng
chí khác.

3.3.2. Nội dung hội nghị:

Thứ nhất, nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít .

 Hội nghị chỉ rõ: Nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến
tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá lớn. Mâu thuẫn chủ
yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam với bọn
đế quốc phát xít Pháp - Nhật.
 Hội nghị tán thành Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, bảy về chuyển
hướng chiến lược và sách lược.
 Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề
dân tộc, nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì
phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi “Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp, phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc
này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp
thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa
một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách
mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không
chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do
đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư
sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền
địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải
phóng”
Thứ hai, nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ,
chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành chính sách
“dân tộc tự quyết”.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho
nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông
Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương lần 8 khẳng định
hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau
khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ
chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc
lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng
nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội
nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.

Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia
thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập
mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt minh).

Thứ tư, tập hợp rộng rãi tất cả các giai cấp, những người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt
Minh để giải phóng cho dân tộc

Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên
là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội
thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều
tham gia là thành viên của Việt minh.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc

Thứ sáu, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho
khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát
triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc
khởi nghĩa vũ trang.

Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi
thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra
chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên
tổng khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.

3.3.3. Kết luận

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề
ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng ,
khăng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Ái Quốc.

Quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam
đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc
lập tự do.

Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trong Mặt trận
đều lấy tên là Hội Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu
quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu vong, Hội Quân nhân Cứu
quốc... Với các dân tộc Lào, Cao Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận ở mỗi nước, tiến tới
thành lập một Mặt trận chung Đông Dương.

Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị tiếp tục thực
hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu
tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô,
giảm tức.
Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi
thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

Thứ 3: Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào, Khmer,
thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng
lợi...

Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng thêm thành phần vô sản trong
Đảng.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ,
Hạ Bá Cang, Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Thường vụ Trung
ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang.

Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương thay đổi chiến
lược cách mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.

You might also like